Thế nào là hôn nhân 1 vợ 1 chồng

Hiện nay các quốc gia đều hướng tới và tất yếu sẽ đạt được là chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Vậy ở nước ta nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng được ghi nhận và thực hiện như thế nào? Cùng Luật sư X tìm hiểu cụ thể về vấn đề này trong bài viết sau.

Hôn nhân và gia đình là những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình phát triển của xã hội loài người; cũng là biểu hiện những quan hệ mang tính tự nhiên. Sự liên kết của các cá nhân nhằm xây dựng nên một gia đình; được coi là sự kiện pháp lý làm phát sinh những quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình. Chế độ hôn nhân tiến bộ theo từng thời điểm phát triển của xã hội.

Căn cứ pháp lý

  • Luật Hôn nhân và gia đình 2014
  • Nghị định 82/2020/NĐ-CP
  • Bộ luật Hình sự 2015

Nội dung tư vấn

Nguyên tắc một vợ một chồng

Kết hôn là hình thành trên ý chí tự nguyện của hai bên nam nữ. Ngoài ra, hai bên nam nữ có đầy đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Sự kiện kết hôn làm phát sinh mối quan hệ giữa vợ và chồng. Pháp luật nước ta đã quy định cụ thể về điều kiện kết hôn; trong đó có điều kiện để đảm bảo nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng.

Nguyên tắc một vợ một chồng chi phối điều kiện kết hôn giữa các chủ thể; quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình. Khi đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền thì chủ thể phải tiến hành xin giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Sau khi xác nhận cả hai bên nam nữ hiện tại đang độc thân; thì mới có đủ điều kiện đăng ký kết hôn. Bởi trong pháp luật và đạo đức chỉ tồn tại một quan hệ hôn nhân hợp pháp. Và chỉ có người độc thân [chưa có vợ, chưa có chồng]; hoặc tuy đã kết hôn nhưng hôn nhân đó đã chấm dứt thì mới được kết hôn. Tương tự sẽ chỉ được kết hôn với người đang không có vợ, không có chồng.

Cụ thể, các trường hợp cấm kết hôn quy định tại điểm d khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân gia đình 2014. Các trường hợp cấm quy định tại điểm c khoản 2 Điều 5 Luật hông nhân và gia đình 2014.

Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vộ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ.

Các hành vi xâm phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng

Vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng được hiểu là hành vi trái pháp luật; hay thường gọi là hành vi ngoại tình. Bởi chế độ hôn nhân một vợ một chồng được pháp luật bảo vệ. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì các hành vi cơ bản vi phạm chế độ một vợ một chồng:

  • Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác.
  • Người đang có vợ, có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác.

Trong trường hợp có hai chủ thể là người đang có vợ/chồng; tức là người đang có một quan hệ hôn nhận hợp pháp. Người khác ở đây có thể hiểu là người khác giới. Họ có thể đã có chồng/vợ hoặc chưa có chồng/vợ. Cho dù chủ thể khác là ai; thì khi kết hôn với người đang có vợ/chồng đều bị coi là vi phạm quy định về điều kiện kết hôn. Việc kết hôn của người đang có vợ/chồng với người khác; mặc dù có đăng kí kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì việc kết hôn của họ bị coi là trái pháp luật.

Người đang có vợ/chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác. Việc này sẽ làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ nhân thân và tài sản với vợ hợp pháp. Đồng thời, việc sống chung như vợ chồng là một hành vi vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục của nước ta. Hành vi không chỉ vi phạm pháp luật; mà còn trái đạo đức bị xã hội lên án.

Vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng thì có bị phạt không?

Xử phạt hành chính

Hành vi vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng; có thể bị xử phạt hành chính. Căn cứ quy định tại Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP. Hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng thông thường có thể bị phạt tiền từ 3 triệu đến 5 triệu đồng. Trường hợp khác, có hành vi nghiêm trong hơn có thể bị phạt lên đến 20.000.000 đồng.

Chịu trách nhiệm hình sự

Người có hành vi xâm phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng; có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “tội vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng”. Căn cứ theo quy định tại Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.

Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a] Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;

b] Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

Ngoài ra, bên có hành vi vi phạm chế độ và trái quy định pháp luật tức đã có lỗi trong quan hệ hôn nhân. Do đó, khi ly hôn đây được xem căn cứ Tòa án phân chia tài sản. Phần tài sản sẽ được cân nhắc phân chia bù đắp cho bên còn lại.

Thông tin liên hệ

Bài viết “Nguyên tắc một vợ một chồng được bảo đảm như thế nào ở Việt Nam”. Mong rằng mang lại thông tin hữu ích cho bạn đọc.

Quý khách hàng hãy đăng ký dịch vụ luật sư tư vấn về hôn nhân của chúng tôi để nhận được trợ giúp chuyên nghiệp giải quyết vấn đề pháp lý. Liên hệ ngay qua hotline: 0833 102 102. Hoặc:

Câu hỏi thường gặp

Đang ly thân có được sống chung như vợ chồng với người khác không?

Thực chất trong pháp luật Việt Nam không có quy định cụ thể về ly thân. Theo pháp luật hiện hành, quan hệ hôn nhân chỉ chấm dứt khi có bản án quyết định của Tòa án. Nên dù vợ chồng không còn sống với nhau, mong muốn sống riêng hay còn gọi là ly thân. Thì lúc này quan hệ hôn nhân của họ vẫn chưa kết thúc. Nên nếu sống chung với người khác như vợ chồng đã trái pháp luật.

Chồng ngoại tình dẫn đến vợ bị trầm cảm tự tử có bị ngồi tù không?

Căn cứ vào khoản 2 Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017. Người có hành vi vi phạm chế độ một vợ một chồng dẫn đến người còn lại tự sát. Có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Mức hình phạt đối với hành vi trái pháp luật, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng này; hình phạt có thể là phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.

Sống chung như vợ chồng được hiểu là như thế nào?

Mặc dù không có giấy đăng ký kết hôn, không công khai mối quan hệ. Các bên đều biết người kia hoặc bản thân mình đã có vợ/chồng hợp pháp. Tuy nhiên vẫn cùng sinh sống và sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm, xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung

5 ra khỏi 5 [1 Phiếu bầu]

Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng là một trong những nguyên tắc hàng đầu; để bảo vệ chế độ hôn nhân gia đình hiện nay. Hành vi ngoại tình chính là biểu hiện của việc vi phạm nguyên tắc này. Vậy pháp luật quy định như thế nào về hành vi vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng? Hãy cùng tham khảo bài viết của Luật Trần và Liên Danh dưới đây:

Nguyên tắc một vợ một chồng là một trong những nguyên tắc cơ bản hàng đầu của chế độ hôn nhân và gia đình. Theo đó, có thể hiểu rằng nguyên tắc này quy định cá nhân đã kết hôn chỉ được có một vợ hoặc một chồng; và trong thời kì hôn nhân không được kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác.

Điều 2. Những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình

1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.

Ví dụ: Anh A và chị B đạt đủ các điều kiện theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình; nên anh chị quyết định đi đăng ký kết hôn tại UBND nơi hai người cư trú. Kể từ thời điểm được UBND cấp Giấy chứng nhận kết hôn và Sổ đăng ký kết hôn; thì anh A và chị B chính thức là vợ chồng và bắt đầu thời kì hôn nhân. Trong thời kì hôn nhân; anh A và chị B không được kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với bất kỳ cá nhân nào khác.

Vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng là việc một người trong thời kì hôn nhân kết hôn với một người thứ ba ngoài vợ chồng hiện tại của mình; hoặc chung sống như vợ chồng với người thứ ba khác. Biểu hiện cụ thể bao gồm nhưng không giới hạn những hành vi sau:

  • Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác; chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
  • Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
  • Chưa có vợ hoặc chưa có chồng; mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ.

Nếu hành vi ngoại tình ở mức độ chưa nghiêm trọng sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính; và nếu hành vi ngoại tình gây nên hậu quả nghiêm trọng; thì người vi phạm có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định về Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng của Bộ luật hình sự.

Căn cứ theo điểm c khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014; thì luật nghiêm cấm việc một người đang có vợ, có chồng mà kết hôn; hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng; mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ. Như vậy cá nhân có hành vi này đã vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng; và sẽ bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi của mình.

Theo khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020; thì phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

  • Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác; chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ.
  • Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác.
  • Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ.
  • Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.
  • Cản trở kết hôn, yêu sách của cải trong kết hôn hoặc cản trở ly hôn.

Ví dụ: Anh A đã kết hôn được 3 năm. Trong thời gian vợ mang bầu, anh A đã ngoại tình với chị B đồng nghiệp cơ quan. Anh A nói dối vợ rằng mình cần phải đi công tác xa trong 6 tháng; nhưng thực tế là anh A đến sống chung với chị B tại nhà chị B. Hành vi của anh A đã vi phạm nguyên tắc chế độ một vợ một chồng; và có thể bị xử phạt vi phạm hành chính; với mức phạt trung bình cho hành vi không có tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ là 3.000.000 đồng.

Nhằm góp phần bảo vệ chế độ hôn nhân một vợ một chồng một cách chặt chẽ; nhà nước đã đưa hành vi ngoại tình vào Bộ luật hình sự; buộc người vi phạm phải chịu trách nhiệm hình sự với mức hình phạt lên đến 01 năm tù.

Để xác định một cá nhân có phạm tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng theo Điều 182 Bộ luật hình sự 2015; thì cần phải xét 4 dấu hiệu cấu thành nên tội phạm; bao gồm chủ thể, khách thể, mặt khách quan và mặt chủ quan.

Chủ thể: 

  • Chủ thể của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng  là chủ thể thường. Theo đó người từ đủ 18 tuổi trở lên và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự nghĩa là không mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của bản thân theo quy định của Điều 21 Bộ luật hình sự 2015 sẽ là chủ thể của tội này.

Khách thể:

  • Khách thể là những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ và tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng có khách thể là chế độ hôn nhân và gia đình trong xã hội. Theo đó, cá nhân có hành vi ngoại tình đã xâm phạm vào chế độ hôn nhân và gia đình đang được nhà nước bảo vệ nên phải chịu trách nhiệm hình sự.

Mặt khách quan:

  • Mặt khách quan là những biểu hiện ra bên bên ngoài của tội phạm; bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện phạm tội….

Hành vi khách quan được quy định cụ thể trong điều luật của Bộ luật hình sự; và nếu bất kỳ người nào thực hiện hành vi đó dẫn đến hậu quả bằng phương tiện nào đó; thì có thể xem là tội phạm.

  • Có thể thấy hành vi khách quan trong tội vi phạm chế độ một vợ, một chống gồm những hành vi sau:
    • Người đang có vợ, có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác;
    • Người chưa có vợ, chưa có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ.
  • Hậu quả của hành vi này là làm cho quan quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát.
hôn nhân một vợ một chồng

Lưu ý:

+ Hôn nhân thực tế được hiểu là trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký trước chính quyền, không vi phạm điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình và quan hệ này phải xác lập trước khi Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực.

+ Trường hợp người có chồng, có vợ hợp pháp nhưng đang ly thân mà kết hôn hoặc chung sống với người khác như vợ chồng thì vẫn bị coi là phạm vào tội này.   

+ Nếu hậu quả nghiêm trọng xảy ra mà cấu thành một tội phạm khác thì người phạm tội còn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội độc lập đó.

Ví dụ: A đi công tác xa đã chung sống với chị B như vợ chồng, nên đã tìm cách giết vợ để được chung sống với B một cách trọn vẹn. Hành vi của A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội là tội vi phạm chế độ một vợ một chồng và tội giết người.

+ Nếu người đang có vợ có chồng hợp pháp mà sống như vợ như chồng với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giao cấu với trẻ em.

+ Nếu sống chung như vợ chồng với trẻ em chưa đủ 13 tuổi thì họ phạm vào tội hiếp dâm trẻ em. 

+ Dấu hiệu khác: Hành vi nói trên phải gây hậu quả nghiêm trọng [như làm cho gia đình họ đổ vỡ phải ly hôn…] hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.

Mặt chủ quan:

  • Mặt chủ quan là biểu hiện về mặt tâm lý bên trong người phạm tội; bao gồm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội. Người phạm tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng sẽ có lỗi cố ý với mục đích thỏa mãn nhu cầu cá nhân.

Mức xử phạt đối với tội vi phạm nguyên tắc chế độ một vợ, một chồng 

Phạt hình sự

Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng được quy định tại Bộ luật hình sự điều 182 tội vi phạm chế độ một vợ một chồng như sau:

Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng

1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a] Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;

b] Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a] Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;

b] Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.

Như vậy, vi phạm chế độ một vợ một chồng theo cách gọi phổ biến hiện nay chính là hành vi ngoại tình. Không chỉ người đã kết hôn ngoại tình mới bị xử phạt hành chính hoặc chịu trách nhiệm hình sự mà ngay cả người chưa kết hôn nhưng ngoại tình với người đã có vợ, có chồng cũng sẽ xị xử phạt tương tự.

Trên đây là một số nội dung về hôn nhân một vợ một chồng, nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Luật Trần và Liên Danh để được hỗ trợ nhanh nhất.

Video liên quan

Chủ Đề