Tư mã viên là ai

Tấn Vũ Đế [ Tư Mã Viêm ], tên tự là An Thế [236 – 17 tháng 5 năm 290], là Hoàng đế đầu tiên của nhà Tây Tấn [265-316] trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người có công thống nhất Trung Hoa, chấm dứt thời chia cắt Tam Quốc.

1.Thừa hưởng cơ nghiệp cha ông

Tư Mã Viêm là cháu nội Tư Mã Ý, con trai Tư Mã Chiêu. Khi Tư Mã Viêm lớn lên, dòng họ Tư Mã đã nắm quyền thao túng Triều đình nhà Ngụy thời Tam Quốc.

Năm 251, Tư Mã Ý qua đời, bác Tư Mã Viêm là Tư Mã Sư lên thay, nắm quyền trong triều. Tư Mã Sư không có con nên Tư Mã Chiêu cho người con thứ Tư Mã Du [em Viêm] làm con anh mình. Tư Mã Sư thấy Phế đế Tào Phương có ý chống đối, bèn truất ngôi và lập Tào Mao lên thay.

Năm 254, Tư Mã Sư ốm chết, Tư Mã Chiêu lên thay. Tào Mao cũng định chống đối Chiêu, bị Chiêu giết chết và lập Tào Hoán kế vị, tức Ngụy Nguyên Đế.

Năm 263, Tư Mã Chiêu điều binh diệt nước Thục Hán, được vua Ngụy phong tước Tấn Vương. Năm 265, Chiêu ốm nặng, có người khuyên nên lập Tư Mã Du là người hương hỏa của Tư Mã Sư, nhưng Chiêu không nghe theo mà lập con cả Tư Mã Viêm.

Tư Mã Viêm lên ngôi Tấn Vương, không lâu sau đó đã bắt Hoàng đế Tào Hoán của Tào Ngụy thoái vị và giao lại Triều đình cho mình. Ông lên ngôi Hoàng đế, tức là vua Tấn Vũ Đế, vương triều Tây Tấn được thành lập.

Các lực lượng chống đối trung thành với nhà Ngụy đều không còn, các đại thần khuyên ông nên đánh nốt nước Ngô vì Vua Ngô là Tôn Hạo là kẻ tàn bạo đang mất lòng dân. Sau mấy lần do dự, cuối cùng Tư Mã Viêm sai Đỗ Dự, Vương Tuấn cùng Tư Mã Du mang quân Nam tiến đánh Ngô [280]. Quân Tấn nhanh chóng đánh bại quân Ngô và tiêu diệt nước Ngô, bắt sống Tôn Hạo.

2.Cai trị

Trước sự hùng mạnh của Tây Tấn, những sự cướp phá chống Trung Quốc của Hung Nô và những bộ tộc khác tạm dừng trong một thời gian. Và chính sách định cư các bộ tộc bên trong Trung Quốc đã có kết quả. Triển vọng về một nền hòa bình, thống nhất và thịnh vượng bắt đầu.

Năm 280, Tấn Vũ Đế bắt đầu thi hành chính sách mới. Quân đội được nghỉ ngơi, các vũ khí kim loại bị đúc thành tiền. Nhưng cố gắng của Tấn Vũ Đế nhằm giải ngũ quân đội không có nhiều kết quả. Một số binh sĩ giải ngũ nhưng vẫn giữ vũ khí, các binh sĩ buôn bán vũ khí của họ với Hung Nô để đổi lấy đất, còn các hoàng thân ở vùng xa không chịu giải giáp hay giản tán quân đội của mình.

Vũ Đế tìm cách quay lại thời kỳ vĩ đại của triều Hán, khi hòa bình và thịnh vượng có ở khắp đất nước và nhà Hán có được quyền lực trung ương mạnh. Tấn Vũ Đế đặt ra các cải cách nhằm mục đích kiềm chế quyền lực địa phương - quyền lực của các gia đình lớn. Nhưng những cải cách đó không thành công.

3.Người kế vị

Ngoài một số cố gắng thay đổi chính sách không thành công, Tấn Vũ Đế được xem là người hoang dâm. Sau khi đánh chiếm Đông Ngô, ông bắt rất nhiều cung nữ của Tôn Hạo về Lạc Dương, số lượng lên tới vài ngàn. Hằng ngày ông thường cưỡi xe dê kéo chạy đi các buồng cung nữ, nếu xe dừng lại ở đâu thì ông dừng lại ngủ ở đó. Vì thế các cung nữ đều thi nhau để cành dâu trước cửa để hấp dẫn con dê kéo xe cho vua, hy vọng vua sẽ ghé vào chỗ mình.

Việc triều chính, Tấn Vũ Đế dựa vào hai đại thần Giả Sung và Vệ Quán là hai người từng theo giúp Tư Mã Chiêu cuối thời Ngụy trước kia. Sau khi Dương thị được lập làm Hoàng hậu, Vũ Đế cất nhắc cha Dương Hậu là Dương Tuấn làm đại thần.

Tấn Vũ Đế có con cả Tư Mã Trung vốn là người đần độn. Vũ Đế muốn chọn con gái Vệ Quán cho Trung nhưng lại nghe Dương hậu khuyên nên lấy con gái Giả Sung là Giả Nam Phong. Trước khi lấy Giả thị, Trung đã sinh được con trai là Tư Mã Duật, con cung nhân Tạ thị.

Vũ Đế sắp mất, lo lắng vì thái tử Trung đần độn. Vệ Quán từng khuyên thay thái tử nhưng Vũ Đế không nghe vì thấy cháu là Duật có tư chất thông minh, hy vọng cháu có thể giúp được con.

4.Qua đời

Năm 290, Tấn Vũ Đế qua đời, hưởng thọ 54 tuổi, được truy tôn miếu hiệu là Thế Tổ, thụy hiệu là Vũ hoàng đế.

Thái tử Tư Mã Trung lên thay, tức Tấn Huệ Đế, Giả thị được phong làm Hoàng hậu. Ngay sau cái chết của ông, nhà Tấn bắt đầu suy yếu vì Huệ Đế không điều hành nổi triều đình, các hoàng thân đồng loạt nổi lên làm loạn, gây ra Loạn bát vương dẫn tới sự diệt vong của nhà Tây Tấn.

Page 2

Mã Siêu

Mã Siêu sinh năm 176 tại Lũng Môn [nay thuộc tỉnh Thiểm Tây]. Ông là con trưởng của Mã Đằng, thứ sử Tây Lương.

Năm 191, Đổng Trác bị Lữ Bố giết chết. Sau đó Lý Thôi, Quách Dĩ là 2 tướng cũ của Đổng Trác đánh bại Lữ Bố, uy hiếp Hán Hiến Đế, nắm quyền ở Trường An. Năm 193, thứ sử Tây Lương Mã Đằng liên kết với Chinh tây tướng quân Hàn Toại dẫn 10 vạn quân về Trường An. Lý Mông, Vương Phương là 2 tướng của Đổng Trác kéo quân ra nghênh chiến. Mã Siêu [khi đó mới 17 tuổi] đâm chết Vương Phương, bắt sống Lý Mông. Lý Thôi, Quách Dĩ thấy Mông, Phương cùng bị giết cả bấy giờ mới chỉ giữ vững các cửa thành, mặc bên kia khiêu chiến thế nào cũng không ra. Quả nhiên chưa được hai tháng, quân Mã Ðằng, Hàn Toại cạn lương, hai tướng phải bàn nhau rút quân về.

Năm 211, Tào Tháo lấy danh nghĩa thiên tử triệu Mã Đằng về triều. Mã Đằng bèn tìm kế phản Tào Tháo nhưng kế hoạch bại lộ, Mã Đằng và 2 con Mã Hưu, Mã Thiết bị Tào Tháo giết. Mã Đại là cháu Mã Đằng trốn về được báo cho Mã Siêu. Mã Siêu tức giận hợp cùng Hàn Toại và bộ tướng là Bàng Đức kéo 20 vạn quân báo thù cho cha. Quân Tây Lương chiếm được Trường An, rồi chiếm luôn ải Đồng Quan. Tào Tháo kéo quân đến ải Đồng Quan bị Mã Siêu đánh bại, nhờ Hứa Chử cứu thoát, từ đó chỉ cố thủ. Mã Siêu cho quân tấn công liên tục nhưng gặp lúc mùa đông sắp đến, Hàn Toại bàn với Mã Siêu rút quân về. Tào Tháo nhân cơ hội đó thực hiện kế phản gián, khiến Mã Siêu đánh Hàn Toại. Nhân lúc quân Tây Lương rối loạn, Tào Tháo phản công, đánh bại Mã Siêu. Mã Siêu cùng Bàng Đức, Mã Đại mở vòng vây chạy thoát.

Năm 213, Mã Siêu trốn về Lũng Tây rồi đem quân đánh chiếm Ký Thành. Mã Siêu trọng dụng Dương Phụ là tướng cũ của Ký Thành. Sau đó, Dương Phụ bất ngờ đánh úp Mã Siêu, lại gặp Hạ Hầu Uyên trợ giúp Dương Phụ nên Mã Siêu chống cự không lại, cùng Bàng Đức, Mã Đại đến Hán Trung đầu hàng Trương Lỗ.

Năm 214, Mã Siêu nhận lệnh của Trương Lỗ tiến đánh ải Hà Manh để cứu viện cho Lưu Chương đang bị Lưu Bị tấn công. Mã Siêu đến Hà Manh quan, đánh nhau một trận kinh hồn với Trương Phi, sau Lưu Bị nhờ Lý Khôi theo kế Khổng Minh đến dụ hàng Mã Siêu. Mã Siêu liền bằng lòng qui thuận, Lưu Bị đích thân đi đón rước, đãi vào bậc thượng tân. Cuối cùng, Mã siêu đem quân đến Thành Đô, bảo Lưu Chương ra hàng, Lưu Bị chiếm được Ích Châu, phong Mã Siêu làm Bình Tây tướng quân thống lĩnh toàn bộ kị binh.

Năm 219, Lưu Bị chiếm Hán Trung của Tào Tháo, sai Mã Siêu cùng Ngụy Diên đem quân truy kích Tào Tháo khi hắn rút chạy khỏi Hán Trung. Sau đó, Lưu Bị sai Mã Siêu trấn giữ Hán Trung, đề phòng quân Ngụy.

Năm 222, Mã Siêu bệnh mất, hưởng thọ 46 tuổi. Trước khi chết, ông viết thư cho Lưu Bị bảo rằng cả nhà ông bị Tào Tháo giết gần hết nên nhờ Lưu Bị chăm sóc cho em mình là Mã Đại là người cuối cùng của nhà họ Mã.

Mã Siêu trong tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa

Trong Tam Quốc Diễn nghĩa, Mã Siêu xuất hiện tại hồi thứ 10 và ông được miêu tả hoặc nhắc đến trong 21 hồi trên tổng số 120 hồi của Tam quốc diễn nghĩa. Tuy vậy, Ông chỉ là nhân vật chính trong các Hồi thứ 58, 59, 64 và 65. Các hồi còn lại Mã Siêu được đề cập rất mờ nhạt, chủ yếu là mô tả một đoạn hội thoại hay kể lại một sự kiện về ông, thậm chí một số hồi chỉ đơn thuần là nhận xét rất ngắn . Tên của ông được nhắc lại lần cuối cùng tại hồi thức 91 và 92, lúc này ông đã mất. ông mất khi Gia Cát Lượng trở về thắng lợi sau chiến dịch bình Man Man và chuẩn bị cho chiến dịch Bắc phạt. hồi thứ 92 mô tả ngắn gọn "Khổng Minh mang quân đến Miện Dương, qua mộ Mã Siêu liền sai Mã Đại mặc đồ tang rồi thân vào tế bái. Đoạn về trại, bàn định việc tiến quân".

Ngoại hình: Mã Siêu được miêu tả chi tiết trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung. Trong tiểu thuyết này, Mã Siêu được được xây dựng trở thành một trong những mỹ nam tử đẹp nhất trong thời Tam Quốc. La Quán Trung mô tả và ước lệ hóa Mã Siêu trở thành một vẽ dẹp gần như là hoàn mĩ, vô khuyết của một trang nam tử trẽ tuổi. ở Mã Siêu vừa có sự kết hợp gần như là hoàn hảo của dung mạo, thể hình và phong độ, vừa có cái đẹp của một công tử dòng dõi thế gia lại vừa có cái đẹp mạnh mẽ, thiện chiến của những dũng sĩ nơi đại mạc [Mã Siêu là con lai giữa người Hán và người Khương]. Trong tiểu thuyết tam quốc, ngoại hình của ông được đề cập đến ít nhất 03 lần ở 3 hồi khác nhau như: tại Hồi thứ 10 miêu tả "là một viên tướng trẻ tuổi, mặt đẹp như ngọc, mắt sáng như sao, mình hổ tay vượn, bụng beo lưng sói, tay cầm một ngọn giáo dài, mình cưỡi con ngựa đẹp"; tại Hồi thứ 58: "mặt như nhồi phấn, môi tựa thoa son, lưng hổ, tay vượn, thế hùng lực mạnh, mình mặc áo giáp bạc, tay cầm ngọn giáo dài, cưỡi ngựa đứng trước cửa trận" và Hồi thứ 65: "đầu đội mũ chỏm sư tử, mình mặc áo giáp bạc, bào trắng, thắt đai Hổ Phù, mặt mũi khôi ngô, sức lực hơn người".

Sức mạnh và sự uy dũng: Trong tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Mã Siêu được miêu tả là một hổ tướng sức địch muôn người, được Tào Tháo và Dương Phụ ví như Lữ Bố tái thế, Khổng Minh so sánh với Kình Bố, Bành Việt. Sức mạnh và sự uy dũng của ông được thể hiện trong những trận chiến mà ông tham gia, đặc biệt là hai trận đánh tay đôi với Hứa Chử - Viên hổ tướng mạnh nhất của quân Ngụy và Trương Phi - Một trong Ngũ Hổ tướng của Nhà Thục, cũng như được hiện lên qua lời bàn về ông của các nhân vật khác nhau trong tác phẩm này. Tác phẩm có nói đến trận chiến giữa Tào Tháo với Mã Siêu và hai trận đánh giữa Mã Siêu với Hứa Chử, Trương Phi cho thấy sức mạnh của ông. Hai trận đánh tay đôi của Mã Siêu với Hứa Chữ và Trương Phi là một trong những trận đấu tướng hay nhất, hấp dẫn và kịch tính nhất trong tam quốc.

Tính cách: Tuy vậy, qua tiểu thuyết tam quốc diễn nghĩa Mã Siêu về cơ bản được xếp vào hạng hữu dũng, võ biền và hay nóng giận [dù sau này khi theo về với Lưu Bị đã trở nên điềm đạm hơn rất nhiều] chứ không thực sự là trí dũng song toàn, là một võ tướng chí đơn thuần dựa vào sức mạnh và uy dũng giống Lã Bố. Nếu trong tam quốc, La Quán Trung ưu ái dành 3 đoạn để miêu tả về sức mạnh và vẽ anh tuấn của ông thì La Quán Trung cũng cho 3 nhân vật khác nhau nhận xét về tính cách, cơ trí của ông. Giả Hủ cho rằng Mã Siêu "chỉ là một đứa dũng phu", Dương Phụ cho rằng "Siêu tuy khỏe nhưng không có mưu" và Bàng Đức-Bộ tướng thân tín của Mã Siêu nhận xét khái quát về ông là người"có khỏe không có khôn". Cũng trong tác phẩm này, Mã Siêu được miêu tả như một võ tướng có lối đánh thần tốc và liều lĩnh luôn xung phong đầu tiên trong những trận giao chiến nhưng cũng là người đích thân đoạn hậu, luôn rút lui sau cùng để bảo vệ cho quân lính an toàn [xem Hồi 10, hồi 64 và 65]. Chính vì chưa đủ tầm trí tuệ để tham gia vào cuộc tranh hùng đầy khốc liệt trong thời kỳ này vì thế cuộc đời Binh Nghiệp của Mã Siêu luôn gặp nhiều thất bại, liên tục bị mắc mẹo, bị bội phải, chiêu dụ. Kết quả là vừa không báo được thù cha lại vừa làm sụp đổ cả cơ nghiệp do gia tộc để lại [Gia tộc họ Mã lúc bấy giờ là một thế lực cát cứ hùng mạnh ở Tây Lương] và cuối cùng từ một viên thống lĩnh quân đội phải long đong đầu quân cho Trương Lỗ và sau đó bị gièm pha, chèn ép phải về đầu quan cho Lưu Bị.

Mã Siêu đại chiến Hứa Chử

Trong trận chiến ở Đồng Quan, Mã Siêu nhiều lần suýt bắt được Tào Tháo nhưng lần nào Tào Tháo cũng nhờ có Hứa Chử cứu thoát. Từ đó, Tào Tháo và quân Ngụy ai cũng gọi Hứa Chử là "Hổ hầu". Mã Siêu kéo quân đến nghênh chiến. Hứa Chữ xin ra đánh Tào Tháo chấp thuận, bèn cho soạn chiến thư. Mã Siêu bảo quyết bắt được "con hổ điên" về xé xác. Hôm sau Mã Siêu đến thấy một tướng địch đứng cạnh Tào Tháo xông ra, mặt như ánh lửa, dáng điệu hung dữ, hét vang như sấm. Mã Siêu biết là Hứa Chủ bèn lao vào. Hai bên đánh nhau cả trăm hiệp chưa phân thắng bại. Hứa Chử liền chạy về, cởi bỏ giáp, trần trùng trục ra đánh tiếp, đánh trăm hiệp nữa Hứa Chữ vứt đao rồi giựt giáo đâm Mã Siêu. Cây giáo gãy đôi, mỗi người cầm một nửa đánh tiếp. Bên này Tào Hồng, Hạ Hầu Huyên ra đánh trợ lực, bên kia Bàng Ðức, Mã Ðại cũng ùa ra. Hai bên đánh loạn, Hứa Chử bị trúng hai mũi tên phải chạy, quân Tây Lương rượt theo, quân Tào đại bại. Mã Siêu về trận bảo với Hàn Toại chưa gặp ai liều mạng như Hứa Chử.

Trận chiến tại Hà Manh Quan - Mã Siêu đại chiến Trương Phi

Năm 214, Mã Siêu cùng Bàng Đức, Mã Đại trốn thoát đến Hán Trung đầu hàng Trương Lỗ. Sau đó, Lưu Chương là thứ sử Ích Châu cầu cứu Trương Lỗ giúp đánh Lưu Bị. Mã Siêu bèn xin đi cứu Lưu Chương. Trương Lỗ cấp cho Mã Siêu 2 vạn quân cùng Dương Bách, Mã Đại kéo đến ải Hà Manh. Trương Phi nghe tin Mã Siêu kéo đến trước ải bèn xin Lưu Bị cho mình ra đánh nhau với Mã Siêu. Khổng Minh nói khích Trương Phi phải mời Quan Vũ tới mới chống cự được. Trương Phi liền viết quân lệnh trạng và được cử làm tiên phong, Ngụy Diên cũng được đi theo. Huyền Ðức lãnh hậu đội tiếp ứng. Quân hai bên gặp nhau, Dương Bách đánh cùng Ngụy Diên, Dương Bách thua chạy, Ngụy Diên trông thấy Mã Ðại lại ngỡ là Mã Siêu nên xông vào đánh lại giả thua, Ngụy Diên đuổi theo bị Mã Ðại quay lại bắn một mũi tên trúng tay, Ngụy Diên phải chạy về. Vừa lúc đó Trương Phi xông lên đánh bại Mã Đại. Lưu Bị ra lệnh thu quân, bảo Trương Phi dưỡng sức đánh Mã Siêu[cần dẫn nguồn].

Mờ sáng hôm sau, Mã Siêu đã ra trận. Huyền Ðức nhìn sang thấy Mã Siêu đội mão Sư Tử, thắt đai Hổ Phù, bào trắng giáp bạc lóng lánh, cầm giao giục ngựa đi lại như bay nên Lưu Bị thích lắm. Lưu Bị thấy Mã Siêu đang hăng cứ giữ Trương Phi lại không cho xuống, chờ tới quá trưa thấy bên trận địa Mã Siêu có phần rời rạc, mới cho Trương Phi xuống đánh. Mã Siêu nhận ra Trương Phi cầm giáo vẫy một cái, quân lui cả ra phía sau. Sau đó, hai tướng khiêu chiến với nhau rồi lao vào nhau như hai con hổ, quân sĩ hai bên chỉ biết đứng nhìn. Hai bên đánh nhau cả trăm hiệp mà chưa phân thắng bại, Lưu Bị bèn cho thu quân. Hai bên về trận địa nghỉ chốc lát rồi Trương Phi chỉ buộc một chiếc khăn lên đầu, xông ra thách Mã Siêu đánh nữa. Mã Siêu cũng hăm hở nhảy ra, rồi hai bên lại giao tranh hơn một trăm hiệp nữa, hai con ngựa đều mệt lừ mà hai tướng lại càng đánh càng hăng hơn trước. Lưu Bị lại ra lệnh thu quân. Hai tướng lại về trận mình nghỉ rồi Mã Siêu thách Trương Phi chong đuốc đánh ban đêm. Lưu Bị ngăn cản nhưng Trương Phi đang hăng máu nên tiếp tục ra trận. Thế là quân hai bên lại hò reo vang trời dậy đất, trăm cây đuốc được đốt lên, hai hổ tướng lại xông vào nhau tranh thủ một còn một mất, dưới ánh đuốc chập chờn rồi lại lóe sáng. Ðang đánh Mã Siêu nghĩ ra mặt mẹo, liền chạy, Trương Phi đuổi theo thì Mã Siêu ngầm rút cây trùy đồng bên mình mà vụt lại. Trương Phi tuy đuổi mà vẫn đề phòng nên tránh kịp cây trùy nặng cả ngàn cân. Trương Phi lại quay ngựa chạy về. Mã Siêu lại đuổi theo. Bất ngờ, Trương Phi bắn một phát, nhưng Mã Siêu cũng nhanh như chớp tránh thoát. Sau đó hai tướng tạm buông nhau ai về trận nấy. Về sau, Lý Khôi theo kế của Khổng Minh đến dụ hàng được Mã Siêu và cuối cùng Mã Siêu kéo đến Thành Đô bắt Lưu Chương đầu hàng, Lưu Bị chiếm được Ích Châu.

Page 3

Hứa Chử hay Hứa Trử [chữ Hán: 許褚], tên tự là Trọng Khang, là công thần khai quốc nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là tướng hầu cận bên Tào Tháo, nổi tiếng không chỉ với sức khỏe phi thường mà còn với sự trung thành, tận tụy, hết lòng vì chủ.

Hứa Chử chưa rõ năm sinh, người Tiêu huyện, được miêu tả là người mình cao tám thước, lưng to mười bản tay, tay cầm thanh đao lớn.

Cuối thời Đông Hán thiên hạ loạn lạc, nhiều quân cướp nổi dậy cướp bóc. Hứa Chử tập hợp họ hàng khách khứa dựng dinh lũy chống lại quân cướp. Hơn 1 vạn quân cướp từ Cát Bì, Nhữ Nam đến đánh vùng quê ông. Hứa Chử cùng các thủ hạ ra sức chiến đấu nhưng lực lượng ít ỏi, bắn hết tên đạn. Ông hạ lệnh cho toàn thể nhân dân, cả già trẻ trai gái cùng xung trận, khuân đá lớn chất đầy 4 góc dinh lũy. Sau đó tự ông vác đá lớn ném địch. Quân cướp nhiều người bị trúng đá chết tan xác nên sợ hãi không dám lại gần.

Lương thực hết, Hứa Chử phải xin giảng hòa, đề nghị đổi trâu lấy lương thực. Khi quân địch giao lương thực rồi đến lấy trâu, Hứa Chử xông ra cầm đuôi trâu lôi ngược lại hơn 100 bước. Quân địch thấy ông hùng dũng đều sợ hãi không dám đến lấy trâu nữa, lũ lượt rút lui. Từ đó danh tiếng Hứa Chử nổi tiếng khắp vùng Nhữ Nam, Trần, Lương.

Khi Tào Tháo làm chủ được Duyện châu, Hứa Chử dẫn quân đến quy phục.

Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng Tào Tháo truy kích quân cướp, tướng cướp chạy vào chỗ Hứa Chử. Hứa Chử bắt được, nhưng không nộp cho Điển Vi mà còn đánh nhau với Điển Vi. Tào Tháo phải dùng kế bắt sống ông và dụ hàng, ông mới quy phục.

Từ đó, Hứa Chử bên cạnh Tào Tháo lập được nhiều công lớn và cùng Tào Tháo tham gia nhiều trận chiến lớn, được Tào Tháo so sánh như Phàn Khoái, công thần khai quốc nhà Tây Hán và bổ nhiệm làm Đô úy. Từ đó Hứa Chử trở thành cận vệ cho Tào Tháo.

Sau đó ông theo Tào Tháo đi đánh Trương Tú, lập công nên được phong làm Hiệu úy.

Năm 200, Hứa Chử tham gia trận Quan Độ chống lại Viên Thiệu. Vệ sĩ Từ Tha của Tào Tháo mưu ám sát Tào Tháo, nhưng vì có Hứa Chử luôn bên cạnh Tào Tháo nên Từ Tha chưa dám làm gì. Đến một hôm là phiên nghỉ của Hứa Chử, Từ Tha định giấu dao trong người để hành động, thì Hứa Chử đột nhiên quay lại chỗ Tào Tháo. Trông thấy Từ Tha bộ dạng hoảng hốt, Hứa Chử lập tức khám xét phát giác ý định của Từ Tha. Ông bèn giết chết Từ Tha và những người liên quan. Từ đó ông càng được Tào Tháo tin tưởng, luôn mang theo bên cạnh.

Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng Hứa Chử tham gia trận cướp lương thực của Viên Thiệu ở Ô Sào.

Năm 204, ông theo Tào Tháo đánh Nghiệp Thành, vì có công lao, được phong làm Quan Nội hầu.

Năm 211, Mã Siêu và Hàn Toại khởi binh chống Tào Tháo. Tào Tháo dẫn quân đến ải Đồng Quan nghênh địch. Trong trận Vị thủy, Hứa Chử đã cứu Tào Tháo khi Mã Siêu bất ngờ mang 1 vạn quân kỵ bộ tập kích Tào Tháo khi sang sông. Ông đã che chở cho Tào Tháo khỏi trận mưa tên của quân Tây Lương.

Hứa Chử nổi danh có sức mạnh, mà bên ngoài có vẻ si đần nên mọi người gọi ông là "Hổ dại". Trong trận Đồng Quan, Mã Siêu nghe danh tiếng ông nên muốn gặp mặt, gọi ông là "Hổ hầu". Hứa Chử ra trợn mắt nhìn Mã Siêu, hai người nhìn nhau nhưng cuối cùng không đụng độ.

Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng Hứa Chử đánh nhau với Mã Siêu những trận dữ dội. Ông đánh lâu không thắng được Mã Siêu, nổi nóng cởi bỏ áo giáp, lưng trần ra trận. Cuối cùng cuộc chiến giữa hai tướng bất phân thắng bại

Mấy ngày sau đó Hứa Chử ra trận giao chiến với quân Tây Lương, giết được nhiều quân địch, đựoc thăng chức Vũ vệ trung lang tướng.

Đến tận khi đã cao tuổi, ông vẫn làm cận vệ cho Tào Tháo. Ông luôn giữ phép tắc, không vì nể ngay cả những người thân thích của Tào Tháo như Tào Nhân, điều đó khiến Tào Tháo càng kính trọng ông.

Năm 220, Tào Tháo bệnh mất, Hứa Chử theo phục vụ con trai Tào Tháo là Tào Phi. Ông được phong là Vạn Tuế đình hầu.

Thời Ngụy Minh Đế Tào Tuấn, ông được phong là Mâu Hương hầu, phong ấp 700 hộ, phong cho 1 con trai làm Quan nội hầu.

Sau này không rõ Hứa Chử mất năm nào. Ông hoạt động trong khoảng gần 40 năm, được đặt tên thụy là Tráng hầu.

Anh Hứa Chử là Hứa Định có công trong chiến đấu, được phong là Trấn uy tướng quân, Đô đốc Kiểu đạo hổ bôn.

Thời Ngụy Minh Đế, vua Ngụy nhớ công lao của ông, phong cho 2 người con làm Quan nội hầu.

Con trai ông là Hứa Nghi được kế thừa tước vị của ông. Năm 263, Hứa Nghi đi theo Chung Hội đánh Thục Hán, được giao nhiệm vụ làm đường; nhưng Hứa Nghi làm đường không tốt khiến ngựa quân Chung Hội bị tụt móng nên bị Chung Hội xử chém.

Hứa Chử trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung được mô tả là một viên mãnh tướng có sức khỏe. Ông được gọi là Hổ hầu. Ông từng đọ sức với các viên tướng nổi tiếng có sức lực khác như Điển Vi, Trương Phi, Mã Siêu và đó là những cuộc đấu không phân thắng bại vì ngang sức ngang tài.

Hứa Chử còn được mô tả là một trung thần tận tụy bảo vệ Tào Tháo trong các cuộc chiến như trận Xích Bích [cưỡi ngựa chưa kịp đóng yên ra đánh nhau với Trương Phi], Trận Đồng Quan [211] [vừa chèo thuyền qua sông trốn chạy quân Tây Lương vừa che đỡ cho Tào Tháo] và giết mưu sĩ Hứa Du đã xúc phạm Tào Tháo. Ông luôn hăng hái xung trận đánh địch và được Tào Tháo rất tin cậy.

Page 4

Quan Vũ

Quan Vũ [162-219], tự Vân Trường cũng được gọi là Quan Công. Ông là một vị tướng quân đội thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Hoa. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục, với Lưu Bị là vị hoàng đế đầu tiên. Ông là anh hai trong ba anh em kết nghĩa vườn đào. Ông cũng là người đứng đầu trong số ngũ hổ tướng của nhà Thục, bao gồm: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trungvà Mã Siêu.

Giống như Trương Phi, Quan Vũ theo phò Lưu Bị từ lúc kết nghĩa Vườn Đào.


Giết Hoa Hùng

Lúc bấy giờ, Đổng Trác lộng quyền, ngang tàn vô đạo, xem mạng người như cỏ rác. Khi vào chầu, thì lạy vua không phải xưng tên, được quyền đem gươm vào điện. Sau khi Tào Tháo mưa sát không thành trở về tiềm cha và phát cờ khởi nghĩa. Chư hầu liền tụ về quyết giết gian thần Đổng Trác. Lúc này, Quan Vũ là tay mã cung. Sau khi Bảo Trung [鲍忠], Tổ Mậu [祖茂], Du Thiệp [俞涉], Phan Phượng [潘凤] của liên minh chết dưới tay Hoa Hùng thì Quan Vũ mới ra dưới trướng xin Viên Thiệu cho ra đánh. Viên Thiệu không nhìn rõ oai hổ tướng liền quát mắng và đuổi ra ngoài. Vân Trường liền khẳng khái đáp: Nếu tôi đánh không được thì xin chịu tội. Tào Tháo tự tay rót chén rượu mời Quan Vũ trước khi ra trận nhưng Quan Công từ tạ. Lát sau, tiếng chiêng trống long trời lở đất vang lên, Quan Vũ xách đầu Hoa Hùng về thì chén rượu trong tay Tào Tháo vẫn còn nóng.

Trên thực tế, Hoa Hùng bị Tôn Kiên tử hình năm 191 tại Dương Nhân [陽人], sau khi đội quân của ông bị đánh bại.

Giết Nhan Lương

Khoảng năm 200 sau công nguyên, Viên Thiệu mở cuộc tấn công Hứa Xương [thủ đô của Tào Tháo bấy giờ] với số quân lên đến khoảng 100,000 người. Viên Thiệu điều Nhan Lương làm tiên phong tấn công xứ Bạch Mã. Quan Vũ lúc này hiện là tướng dưới quyền của Tào Tháo[vì Quan Vũ thất lạc với Lưu Bị, Trương Phi đồng thời bị quân Tào vây nên bất đắc dĩ đầu hàng và làm tướng tạm thời cho Tào Tháo] đã theo tới Bạch Mã để giải vây. Trong khi thấy liền mấy tướng Tào bị Nhan Lương chém chết [ngay cả Từ Hoảng cũng phải thua chạy], Quan Vũ xin được lâm trận lấy đầu Nhan Lương. Chỉ sau một hiệu trống, Quan Vũ cưỡi ngựa xích thố bất thần xông thẳng vào hàng ngũ quân Viên Thiệu. Quan Vũ đi đến đâu thì quân Viên Thiệu phải dãn ra tới đó. Với một nhát chém, Quan Vũ đã lấy được đầu Nhan Lương trong khi viên tướng này còn chưa kịp phản ứng.

Giết Văn Xú

Quân Văn Xú tới, thấy xe lương thảo bỏ bừa bãi thì tan rã hàng ngũ mà thi nhau tranh cướp. Lúc đó Tào Tháo mới nổi mật lệnh, bao nhiêu tinh binh mai phục đổ ra, chém giết quân Viên Thiệu không sao kể xiết ! Văn Xú đành phải chạy dài. Tào Tháo nhìn thấy hỏi : - Có ai ra bắt Văn Xú danh tướng Hà Bắc cho ta ? Từ Quảng, Trương Liêu cùng xông ra, Văn Xú lấy cung bắn một mũi tên trúng vào chóp mũi Trương Liêu, lại bắn mũi nữa, con ngựa của Trương Liêu quỵ xuống. May có Từ Quảng chạy tới, Văn Xú đối địch luôn và đuổi Từ Quảng phải thua chạy, chợt một tướng mặt đỏ râu dài xuất hiện, chặn đường Văn Xú mà rằng . Tướng giặc chớ chạy ! Văn Xú quát mắng : - Ngươi chờ xem ta trả thù cho Nhan Lương đây . Nói rồi hai bên đánh vùi, hồi lâu Văn Xú không cự nổi Quan Công, toan chạy thì đã bị một nhát thanh long đao, đầu bay khỏi cổ . Quân Hà Bắc phần bị giết, phần rớt xuống sông vô số.

Trấn giữ Kinh Châu

Sau khi quân sư Bàng Thống chết, Gia Cát Lượng phải đem quân từ Kinh Châu vào tiếp viện cho Lưu Bị nên giao Kinh Châu cho Quan Vũ tiếp quản

Hoa Đà chữa tay

Quan Vũ đem quân đánh Phàn Thành bị Tào Nhân bắn 1 phát tên trúng vào tay phải. Quan Bình và các tướng khuyên Quan Vũ rút quân về nhưng Quan Vũ không chịu. Hoa Đà biết chuyện, bèn từ Giang Đôngđến gặp Quan Bình xin chữa tay cho Quan Vũ. Quan Bình đưa Hoa Đà vào gặp Quan Vũ. Hoa Đà bảo tên có tẩm thuốc độc, chất độc đã ngấm đến xương. Quan Vũ hỏi cách trị, Hoa Đà bảo phải trồng một cây trụ nơi vắng vẻ, Quan Vũ phải chịu cho Hoa Đà cột vào cây trụ đó, lấy vải bịt mắt để khi Hoa Đà lóc thịt, cạo xương cho hết chất độc, nếu không cột vào trụ, hoặc để nhìn thấy sợ Quan Vũ sẽ không chịu nổi. Quan Vũ cười bảo có gì mà không chịu nổi, rồi vừa đánh cờ với Mã Lương vừa để Hoa Đà làm. Hoa Đà cạo xương, tiếng nghe ken két, ai nghe cũng rùng mình, riêng Quan Vũ vẫn điềm nhiên đánh cờ. Lát sau, máu chảy đầy chậu. Quan Vũ đứng dậy, duỗi cánh tay thấy không còn đau nữa, khen Hoa Đà là thần y, đem vàngtặng Hoa Đà nhưng Hoa Đà bảo ông chữa cho Quan Vũ vì nghĩa nên không nhận vàng bạc, rồi từ giã Quan Vũ ra đi.

Thất trận

Quan Công bị tướng Ngô là Lã Mông dùng kế "bạch y độ giang" lừa lấy Kinh Châu, không được tiếp viện và bị bắt sống ở phía bắc Mạch Thành [ở phía đông nam của Đương Dương, Hồ Bắc ngày nay]. Tôn Quyền dụ hàng ông không được nên đã giết Quan Vũ. Khi chết ông 58 tuổi [theo Tam Quốc diễn nghĩa].

Hiển thánh ở núi Ngọc Tuyền

Khi ấy linh hồn Quan Công chưa tan. Ðến một nơitên Kinh Môn Châu, Hướng Dương huyện có hònnúi tên Ngọc Tuyền . Ở trên có nhà sư Phổ Tịnh. Ðêm ấy bỗng có liếng la lớn : - Trả đầu cho ta . Phổ Tịch nhìn lên thấy có ngườl cỡi con Xích Thố , tay cầm thanh long đao, ta hữu hai tướng. Ba người ở trên không sa xuống núi Ngọc Tuyền. Phổ Tịnh hỏi ở đâu ? Hồn Vân Trường bèn thưa : - Bạch sư cụ đây là đâu ? Xin cho biếtpháp danh ? Phổ Tịnh nói : - Lão tăng tên Phổ Tịnh , khi trước tại ải Dịch Thủy đã gặp Quan Hầu nay quên rồi sao ? Quan Công nói : - Trước kia nhờ ngài cứu, tôi vẫn ghi ơn, nay tôi đã chết. Xin ngài chỉ dẫn đường mê muội cho tôi . Phổ Tịnh nói : - Xưa trái nay phải, nhất thiết không bàn, nhân trước quả sau. Nay tướng công bị Lữ Mông làm hại đòi trả đầu ra đây , thế thì trước kia Nhan Lương, Văn Xú và sáu tướng trong 5 ải và biết bao đầu quân lính, thì đòi vào đâu ? Quan Công tỉnh ra, biến mất. Phổ Tịnh biết Quan Công đã hiển thánhvà chịu phép qui y.

Trả thù Lữ Mông

Tôn Quyền giết được Quan Công, lấy được Kinh:Châu bèn khao thưởng ba quân và nói : - Ý ta muốn đoạt Kinh Châu đã lâu, nhưng chưa làm được nay Tử Minh bàn kế giết được Vân Trường, lấy được Kinh Châu , công ấy rất lớn. Nói xong, rót rượu thưởng cho Lã Mông. Lã Mông tiếp chén rượu, vừa định uống bỗng quăng chén xuống đất, nhảy tới thộp ngực Tôn Quyền, mắng lớn : - Thằng mặt xanh râu đỏ, vừa bọn chuột kia mi biết ta chăng ? Ai nay đều thất kinh. Lã Mông bèn xô Tôn Quyền xuống đất, nhảy lên chỗ của Quyền mà hét lớn : - Hán Thọ Ðình Hầu Vân Trường là ta đây. Tôn Quyền cả kinh, quì lạy. Lã Mông liền té xuống đất, hộc máu mà chết.

Các chiến công của Quan Vũ:

  • Dẹp giặc Khăn Vàng.
  • Đánh nhau với Lã Bố.
  • Chém Nhan Lương, Văn Xú, tướng của Viên Thiệu.
  • Vượt 5 ải, chém 6 tướng của Tào Tháo.
  • Chiếm quận Trường Sa, thu phục được Hoàng Trung.
  • Bắt Vu Cấm, chém Bàng Đức.

Ông cũng được thờ cúng ở nhiều nơi với tượng mặt đỏ, râu dài, tay cầm cây thanh long đao và/hoặc cưỡi ngựa Xích Thố. Tương truyền thanh long đao của ông nặng 82 cân [khoảng 18 kg ngày nay]. Trong khi dân gian xem ông như một biểu tượng của tính hào hiệp, trượng nghĩa thì các nhà sử học cũng phê phán ông về các tính kiêu căng, ngạo mạn.

Quan Vũ [關羽, 162? - 220], cũng được gọi là Quan Công [關公], tự là Vân Trường, Trường Sinh [長生], là một vị tướng quân đội thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục Hán, với vị hoàng đế đầu tiên là Lưu Bị. Ông cũng là người đứng đầu trong số ngũ hổ tướng của nhà Thục Hán, bao gồm: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung và Mã Siêu. Ông là anh em kết nghĩa với Lưu Bị và Trương Phi.

Là một trong những nhân vật lịch sử của Trung Quốc được biết đến nhiều nhất ở khu vực Đông Á, hình tượng của ông đã được tiểu thuyết hóa trong Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung và sau này được khắc họa trong các dạng hình nghệ thuật như kịch, chèo, tuồng, phim ảnh v.v với những chiến tích và phẩm chất đạo đức được đề cao cũng như được thần thánh hóa trong các câu chuyện dân gian, bắt đầu từ thời kỳ nhà Tùy [581-618]. Ông cũng được thờ cúng ở nhiều nơi với tượng mặt đỏ, râu dài, tay cầm cây thanh long đao và/hoặc cưỡi ngựa xích thố, đặc biệt là ở Hồng Kông. Tương truyền thanh long đao của ông nặng 82 cân [khoảng 18 kg ngày nay]. Trong khi dân gian xem ông như một biểu tượng của tính hào hiệp, trượng nghĩa thì các nhà sử học cũng phê phán ông về các tính kiêu căng, ngạo mạn.

Thân thế

Quan Vũ người Giải châu[1]. Tam Quốc ngoại truyện cho rằng ông là người Bồ châu[2]. Ông cao chín thước, mặt đỏ như gấc, mắt phượng mày tằm.

Theo Quan Đế minh thánh kinh, cụ nội Quan Vũ là Quan Long Phùng, ông nội Quan Vũ là Quan Thẩm, tự là Vấn Chi; cha ông là Quan Nghị, tự là Đạo Viễn[3].

[sửa]Thời trẻ

Thời trẻ, Quan Vũ làm nghề bán đậu phụ. Tuy nhà nghèo, ông cũng được theo học cả văn lẫn võ[4]. Ông là người vũ dũng, hào hiệp, ghét kẻ ác, thường bênh vực người yếu. Do bênh vực người khác mà ông phạm tội giết người, phải bỏ quê hương đến nương náu ở quận Trác.

Tại quận Trác, Quan Vũ đã gặp gỡ và trở nên thân thiết với Lưu Bị và Trương Phi. Ba người coi nhau như anh em, thề cùng sống chết có nhau.

[sửa]Tham chiến ở Từ châu

Năm 184, khởi nghĩa Khăn Vàng của Trương Giác nổi lên, Quan Vũ cùng Trương Phi theo Lưu Bị khởi binh dẹp quân khởi nghĩa. Trong quá trình dẹp Khăn Vàng, ông là cánh tay đắc lực của Lưu Bị.

Sau đó Lưu Bị theo Công Tôn Toản làm Bình Nguyên tướng, bèn bổ nhiệm ông và Trương Phi làm Biệt hộ Tư mã, chia nhau thống lĩnh quân đội của Lưu Bị.

Năm 190, Viên Thiệu tập hợp chư hầu đánh Đổng Trác. Lưu Bị và Công Tôn Toản không đến dự hội minh với chư hầu như mô tả của Tam Quốc Diễn Nghĩa. Thực tế Quan Vũ cũng không dự cuộc chiến này và việc ông chém Hoa Hùng chỉ là hư cấu của La Quán Trung; Hoa Hùng bị Tôn Kiên hành hình năm 191 tại Dương Nhân [陽人], sau khi bị Kiên đánh bại.

Năm 193, Tào Tháo mang quân đánh Từ châu báo thù cho cha là Tào Tung vì nghi quan mục Từ châu là Đào Khiêm chủ mưu giết Tào Tung. Đào Khiêm cầu cứu thứ sử Thanh châu là Điền Khải. Khải lại cầu cứu đến Công Tôn Toản. Toản bèn sai Lưu Bị đi cứu. Quan Vũ cùng Trương Phi theo Lưu Bị đi cứu Từ châu với. Mấy cánh quân cứu viện cùng quân Từ châu tạo thế ỷ dốc khiến quân Tào không thể hạ được thành.

Không lâu sau, Lã Bố đánh chiếm Duyện châu của Tào Tháo. Tào Tháo buộc phải giải vây Từ châu, mang quân trở về cứu. Đào Khiêm rất cảm phục Lưu Bị đã cứu giúp.

Năm 194, do tuổi già sức yếu nên trước khi qua đời, Đào Khiêm tiến cử Lưu Bị làm Từ châu mục.

Lã Bố bị Tào Tháo đánh bật khỏi Duyện châu, bèn chạy đến Từ châu theo Lưu Bị. Ít lâu sau Viên Thuật mang quân đánh Từ châu, trong khi Lưu Bị đang cùng Thuật giao tranh thì Lã Bố đồng mưu với Thuật đánh úp thành Từ châu. Lưu Bị cùng Quan Vũ và Trương Phi mắc kẹt ở Quảng Lăng không có đường về, đành phải trở lại Từ châu hàng Lã Bố, được Bố cho ở thành nhỏ Tiểu Bái.

[sửa]Trở lại Từ châu

Năm 198, Lã Bố lại trở mặt đánh Tiểu Bái. Tuy Quan Vũ và Trương Phi khỏe mạnh hơn người nhưng vì quân ít nên vẫn bị bại trận và theo Lưu Bị chạy khỏi Tiểu Bái và cầu viện Tào Tháo.

Tháng 9 năm đó, Tào Tháo và Lưu Bị hợp sức mang quân đến đánh Từ châu để trừ Lã Bố. Quan Vũ cũng dự trận này. Quân Tào vây thành đến tháng 10 năm đó, Lã Bố khốn cùng phải chạy lên lầu Bạch Môn. Sách Thục ký chép rằng: trong bước đường cùng, Lã Bố đã mang vợ mình đến chỗ Quan Vũ để lấy lòng ông, hy vọng ông nói giúp với Tào Tháo. Quan Vũ hỏi Tào Tháo rằng có nhận người đàn bà này được không, Tào Tháo nói rằng được. Nhưng sau đó Quan Vũ hỏi thêm mấy lần nữa khiến Tào Tháo cảm thấy hứng thú bèn sai ông mang vợ Lã Bố tới. Khi Quan Vũ mang vợ Lã Bố đến cho Tào Tháo, Tào ưng ý và giữ lại chỗ mình[5].

Cuối cùng Lã Bố bị Tào Tháo đánh đến lầu Bạch Môn và giết chết. Tào Tháo cùng Lưu Bị thu quân về Hứa Xương. Tào Tháo không trả lại Từ châu vốn của Lưu Bị được Đào Khiêm giao cho mà sai thủ hạ là Xa Trụ trấn thủ. Lưu Bị bị giữ lại Hứa Xương để kiềm chế.

Sách Thục ký chép rằng: Có lần Lưu Bị cùng đi săn với Tào Tháo, Quan Vũ lén khuyên Lưu Bị nên nhân lúc mọi người hỗn loạn mà giết Tào Tháo nhưng Lưu Bị không nghe theo vì tình thế không cho phép manh động[6].

Năm 199, Lưu Bị xin đi đánh Viên Thuật, Tào Tháo cấp 1.000 quân cho đi. Quan Vũ và Trương Phi lại hộ vệ Lưu Bị ra mặt trận, giúp Lưu Bị đánh bại Thuật. Thuật thua trận ốm chết.

Lưu Bị thừa cơ dẫn quân đánh chiếm Từ châu, giết Xa Trụ. Quan Vũ được bổ nhiệm làm thái thú Hạ Bì.

Đầu năm 200, Tào Tháo chia quân đi chuẩn bị đánh Từ châu. Lưu Bị biết mình thế yếu bèn sai người đi cầu cứu Viên Thiệu nhưng Thiệu chần chừ không ra quân. Tào Tháo gấp rút tiến đánh Từ châu. Vài ngàn quân của Lưu Bị không chống nổi, bị thua tan tác. Lưu Bị bỏ chạy sang Hà Bắc theo Viên Thiệu, Trương Phi trốn về Nhữ Nam, gia quyến Lưu Bị đều bị bắt; Quan Vũ không có đường chạy, buộc phải đầu hàng Tào Tháo, theo về Hứa Xương.

[sửa]Phục vụ cho Tào Tháo

Tào Tháo rất trọng vọng ông, phong làm thiên tướng quân. Nhưng Tào Tháo để ý thấy ông không có ý ở lại lâu dài với mình, bèn sai Trương Liêu đến thăm dò ông. Quan Vũ thẳng thắn nói với Trương Liêu:

Tào Công đối với tôi rất tốt, trong lòng tôi biết rõ. Nhưng tôi chịu ơn trời cao đất dày của Lưu tướng quân, từng thề là cùng sống cùng chết, không thể phản bội được. Tôi không thể lưu lại nơi này, chỉ có điều phải đợi lập được công, báo đáp Tào Công thì tôi mới đi.

Trương Liêu trở về nói lại với Tào Tháo. Tào Tháo không những không tức giận mà càng thêm kính trọng ông.

Viên Thiệu theo lời khẩn cầu của Lưu Bị bèn dẫn quân đi đánh Tào Tháo. Thiệu chia quân, một mặt đánh thành Bạch Mã, mặt khác đóng ở bến Diên Tân. Tháng 4 năm 200, Tào Tháo dẫn Quan Vũ và Trương Liêu đi cứu Bạch Mã; mặt khác lại chia quân ra Diên Tân để phân tán sự chú ý của Thiệu. Quả nhiên Thiệu tăng cường thêm quân cho Diên Tân mà không chú ý Bạch Mã. Tào Tháo nhân đó đột ngột thúc quân đánh mạnh ở Bạch Mã. Quan Vũ ra trận, giết chết mãnh tướng của Viên Thiệu là Nhan Lương, giải vây cho thành Bạch Mã.

Tháng 5 năm 200, Quan Vũ cùng Trương Liêu lại theo Tào Tháo đi men theo sông Hoàng Hà về phía tây đến cứu Diên Tân. Viên Thiệu cùng Lưu Bị và Văn Xú mang quân đuổi theo. Quan Vũ giúp Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu một trận nữa tại đây, giết chết được Văn Xú. Vì lực lượng ít hơn địch nên sau đó Tào Tháo hạ lệnh lui quân về phía nam Tế Thủy, tức là bến Quan Độ đóng đồn, còn Viên Thiệu đóng lại ở Diên Tân.

Sau trận Diên Tân, hai bên tạm hưu chiến. Tào Tháo càng khâm phục Quan Vũ, ban thưởng cho ông rất nhiều.

Lưu Bị thấy Viên Thiệu không đủ tài năng để chống Tào Tháo nên bỏ đi tự lập. Quan Vũ sau khi đã lập công trả ơn cũng lẻn trốn đi tìm Lưu Bị. Trong khi Tào Tháo đang theo dõi sát sao tình hình mặt trận Quan Độ và điều quân để quyết một trận kịch chiến thì Quan Vũ gói toàn bộ tặng phẩm của Tào Tháo để lại, viết một lá thư cáo biệt và lẳng lặng ra đi[7]. Thủ hạ của Tào Tháo muốn truy kích ông nhưng Tào Tháo ngăn lại không cho đuổi theo.

Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, La Quán Trung tập trung mô tả việc Quan Vũ lén đi khỏi chỗ Tào Tháo ở Hứa Xương sau trận Diên Tân. Tào Tháo còn kịp đi ra tiễn ông ở Hứa Xương. Trên thực tế hai bên Viên - Tào đối luỹ từ tháng 5 và cả Viên Thiệu lẫn Tào Tháo đều bám sát không rời chiến trường và Quan Vũ rời khỏi đại doanh Tào ở Diên Tân.

[sửa]Trở lại giúp Lưu Bị dựng nghiệp

Sau đó ông gặp lại được Lưu Bị và Trương Phi, cùng nhau xây dựng lại lực lượng. Lưu Bị liên kết với tướng Khăn Vàng là Cung Đô ở Nhữ Nam. Trong khi đó, Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu trong trận quyết định ở Quan Độ năm 200 và năm sau lại đánh bại Thiệu một trận nữa ở Thương Đình [ven sông Hoàng Hà]. Viên Thiệu thu quân về, tinh thần suy sụp.

Tháng 6 năm 201, trong lúc họ Viên suy yếu, Tào Tháo mang quân về Hứa Xương rồi sai Sái Dương mang quân tấn công Lưu Bị ở Nhữ Nam. Quan Vũ cầm quân ra trận giết chết Sái Dương. Tào Tháo bèn tự cầm đại quân đi đánh. Quân Tào giết chết Cung Đô, Lưu Bị không chống nổi, phải bỏ chạy về Kinh châu theo Lưu Biểu.

Tam Quốc Diễn Nghĩa kể việc Sái Dương do Quan Vũ giết trong quá trình "qua 5 ải chém 6 tướng" sau khi chia tay Tào Tháo trước trận Quan Độ nhưng thực ra không có việc qua ải chém tướng của Quan Vũ và Sái Dương bị giết ở trận Nhữ Nam[8].

Năm 208, Tào Tháo sau khi diệt họ Viên, làm chủ toàn bộ trung nguyên, bèn mang quân đánh Kinh châu. Lưu Bị từ Phàn Thành, chuẩn bị mang dân vượt sông, sai Quan Vũ mang mấy trăm chiến thuyền theo dòng sông, hẹn hội binh ở Giang Lăng.

Tào Tháo sợ Lưu Bị chiếm mất Giang Lăng là chỗ chứa nhiều lương thảo, bèn sai 5000 quân kỵ gấp rút đuổi theo. Lưu Bị giao chiến 2 trận đại bại, phải bỏ hết gia quyến chạy về Hán Tân và gặp Quan Vũ.

Tập hợp lực lượng trở lại, Lưu Bị liên kết với Tôn Quyền đánh bại Tào Tháo trong trận Xích Bích cuối năm 208. Trong trận này, Quan Vũ chỉ huy quân chủ lực của Lưu Bị tham chiến, đẩy lui quân Tào về bắc. Sau đó ông cùng Lưu Bị đánh chiếm các quận Kinh châu, được phong làm thái thú Tương Dương, Đãng khấu tướng quân[9].

Tam Quốc Diễn Nghĩa kể tình tiết Quan Vũ trọng nghĩa tha cho Tào Tháo khi ông đón lõng Tào Tháo thua chạy về ở đường Hoa Dung.

[sửa]Trấn giữ Kinh châu

Tượng thờ Quan Công cầm Thanh Long Đao

Tháng 12 năm 211, Lưu Bị mang quân vào Tây Xuyên, Quan Vũ được giao ở lại giữ Kinh châu. Kinh châu thời Lưu Biểu nguyên có 7 quận, lúc đó chiến tranh qua lại giữa 3 phe Tào - Tôn - Lưu sau trận Xích Bích, mỗi bên còn giữ một phần: Lưu Bị có 4 quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa, Vũ Lăng và một nửa quận Giang Hạ của Lưu Kỳ [con cả Lưu Biểu]; Tôn Quyền chiếm được Giang Lăng, nửa quận Giang Hạ và nửa Nam quận; Tào Tháo còn giữ lại quận Nam Dương và nửa Nam quận[10]. Sau khi Lưu Kỳ chết, Lưu Bị tiếp quản phần nửa quận Giang Hạ. Quan Vũ tiếp quản Kinh châu từ tay Lưu Bị với lãnh thổ 4 quận rưỡi.

[sửa]Hội đàm với Lỗ Túc

Lưu Bị và Tôn Quyền ngoài mặt là em rể và anh vợ[11] nhưng vẫn tranh chấp nhau vùng Kinh châu mà Lưu Bị mang tiếng “mượn” lâu ngày không trả.

Năm 214, nhân lúc Lưu Bị đã vào Tây Xuyên và điều động thêm nhiều quân cùng các tướng giỏi như Triệu Vân và Trương Phi, Tôn Quyền bèn sai Lỗ Túc và Lã Mông đánh mấy quận Kinh châu trong tay Quan Vũ. Quân Đông Ngô đông đảo, đánh chiếm 3 quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa. Quan Vũ chỉ còn giữ được nửa quận Giang Hạ và quận Vũ Lăng. Lưu Bị ở Ích châu được tin, thấy tình hình Kinh châu nghiêm trọng, vội mang quân ra thành Công An thuộc quận Vũ Lăng, sai Quan Vũ mang quân đi đánh Lã Mông và Lỗ Túc.

Tôn Quyền cũng đích thân từ Ngô quận tiến ra Lục Khẩu phòng thủ và sai Lỗ Túc dẫn quân ra Ích Dương. Quan Vũ và Lỗ Túc gặp nhau tại Ích Dương. Hai bên hội đàm trước trận. Lỗ Túc hỏi Quan Vũ:

Ba quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa là bên tôi cho các ông mượn, sao các ông không trả lại?

Quan Vũ đáp:

Trong trận Xích Bích - Ô Lâm, Tả tướng quân [Lưu Bị] thân trong bộ ngũ, cùng các ông nhất tề ra sức, phá được quân địch, sao không được chia mảnh đất nào?

Lỗ Túc nói tiếp:

Lần đầu tiên ta gặp Lưu Dự châu [Lưu Bị] của các ông ở Đương Dương Tràng Bản, quân số ông ta không đầy một hiệu, bản thân ông ta hết cách, muốn chạy nạn tới nơi xa. Chúa thượng bọn ta [Tôn Quyền] thương ông ta không nơi nương tựa nên cho ông ta chỗ yên thân [Kinh châu]. Không ngờ Lưu Dự châu biết làm việc đạo đức lại vứt bỏ tình nghĩa, bây giờ đã có Ích châu lại muốn có cả Kinh châu. Đó là chuyện người thường cũng không nỡ làm, huống chi Dự châu sao có thể như thế?

Quan Vũ không trả lời được[12]. Hai bên thu quân trở về.

Tam Quốc Diễn Nghĩa kể việc hội đàm này là việc Quan Vũ “một đao tới hội” với Lỗ Túc và không có việc bị đuối lý với Lỗ Túc. Ông còn dùng mưu trí và uy dũng của mình để thoát khỏi sự uy hiếp của quân Đông Ngô.

[sửa]Giảng hòa rồi bất hòa

Năm 215, thấy tình hình bất lợi và không thể dùng vũ lực đoạt lại các quận đã mất, Lưu Bị đành phải nhượng bộ Tôn Quyền, đề nghị chính thức công nhận chủ quyền 3 quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa cho Đông Ngô, xin đổi lấy Nam quận. Tôn Quyền chấp thuận giảng hòa, phân chia lại Kinh châu, lấy sông Tương Thủy làm ranh giới. Quan Vũ tiếp nhận quận Giang Lăng, tướng của Tôn Quyền là Trình Phổ giao lại Giang Lăng, về giữ chức thái thú Giang Hạ. Tôn Quyền giao thêm phần nửa Nam quận cho Quan Vũ; đổi lại Quan Vũ chính thức giao lại quận Trường Sa và Quế Dương cho Tôn Quyền. Như vậy địa bàn Kinh châu của Quan Vũ từ năm 215 chỉ gồm có các quận Vũ Lăng, Giang Lăng và nửa Nam quận. Trên thực tế Quan Vũ vốn chỉ còn giữ được 1 quận và được Tôn Quyền bàn giao thêm 1 quận rưỡi[13].

Tôn Quyền sau đó tiếp tục muốn củng cố tình thân với Lưu Bị, bèn sai sứ giả đến xin cầu hôn con gái Quan Vũ cho con trai mình. Tuy nhiên, Quan Vũ không nhận thức được tầm quan trọng của liên minh Tôn – Lưu như Gia Cát Lượng từng nhấn mạnh, không những ông từ chối mà còn nhục mạ Tôn Quyền. Ông quát vào mặt sứ giả Đông Ngô:

Con gái ta như loài cọp, lại thèm gả cho loài chó à![14].

Từ đó quan hệ giữa Đông Ngô và Kinh châu lại căng thẳng hơn trước. Người duy nhất chủ trương giữ hòa khí với Lưu Bị là Lỗ Túc đã qua đời nên Tôn Quyền chủ trương ngả theo Tào Tháo để lấy toàn bộ Kinh châu[15].

[sửa]Vây hãm Tương Phàn

Cảnh Quan Vũ bắt tướng Bàng Đức

Năm 219, Lưu Bị đánh chiếm được Đông Xuyên từ tay Tào Tháo, lại đánh lui được đại quân Tào, tự xưng là Hán Trung vương. Quan Vũ được phong làm Tiền tướng quân và ban cho cờ tiết, lưỡi phủ việt.

Trên đà thắng lợi, Lưu Bị sai Quan Vũ đang trấn thủ Kinh châu đem quân bắc tiến. Tháng 7 năm 219, Quan Vũ giao cho My Phương giữ Giang Lăng, Phó Sĩ Nhân giữ thành Công An, còn mình khởi đại quân bắc phạt đánh Tào Tháo. Ông vây hãm thành Tương Dương, sau đó lại vây đánh Phàn Thành do Tào Nhân trấn thủ. Phàn Thành nguy cấp. Tào Tháo ở Nghiệp Thành rất lo lắng, toan tính thiên đô - dời Hán Hiến Đế khỏi Hứa Xương. Sau nghe lời Tư Mã Ý phân tích lợi hại, Tào Tháo mới quyết định không thiên đô, sai Vu Cấm và Bàng Đức mang quân đi cứu Phàn Thành, còn Nhạc Tiến hỗ trợ Tào Nhân cố giữ lấy Thanh Nê.

Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng Quan Vũ đánh chiếm được Tương Dương.

Đúng lúc đó thì Tôn Quyền muốn nhân cơ hội Quan Vũ rời Kinh châu để lấy toàn bộ Kinh châu, bèn sai người dâng thư đến xin quy phục Tào Tháo, giúp Tào giáp công đánh Quan Vũ ở mặt đông. Tào Tháo mừng rỡ, nhưng vẫn dùng quyền thuật: một mặt nhận cho Tôn Quyền đầu hàng, lĩnh chức Kinh châu mục; mặt khác lại mang thư đầu hàng của Quyền buộc vào tên, sai quân bắn vào trại của Quan Vũ. Việc làm đó của Tào Tháo đẩy Quan Vũ và Tôn Quyền vào thế không đội trời chung khiến Tào có thể ngồi nhìn hai bên đánh nhau mà vẫn có thể giải vây cho Phàn Thành, giữ yên được mặt nam. Tuy nhiên, Quan Vũ không hoàn toàn tin vào thư đó, cho rằng Tào Tháo lắm mưu mô, phao tin sai để lung lạc mình[16].

Tháng 8 năm 219, mưa nhiều ngày không ngớt, nước sông Hán Thuỷ lên cao. Quan Vũ nhân đó khơi nước sông đổ vào ngoài thành. Bảy đạo quân Vu Cấm và Bàng Đức đóng đồn ở phía bắc Phàn Thành bị nước dìm chết gần hết, số ít bỏ chạy thoát. Cả hai tướng định chạy trốn không được, đều lần lượt bị bắt. Vu Cấm sợ hãi đầu hàng Quan Vũ, còn Bàng Đức không chịu hàng nên bị Quan Vũ sai mang chém.

Phàn Thành rất nguy cấp, nhiều chỗ trong thành bị nước sông làm sói lở, Tào Nhân và các tướng cố sức liều chết chống trả. Tại thành Tương Dương, Lã Thường cũng cố sức cầm cự trước sức tấn công của Quan Vũ. Hai thành bị ông vây ngặt, hoàn toàn không liên lạc được với nhau. Trước tình thế đó, các tướng Tào khác gồm thứ sử Kinh châu[17] là Hồ Tu, thái thú Nam Dương là Trù Phương đều đầu hàng Quan Vũ.

Quan Vũ nhân đà thắng trận, dẫn quân tiến sâu vào Hiệp Hạ[18], kích động các bộ tộc thiểu số phản Tào. Nhiều lực lượng chống Tào ở phía nam Hứa Xương nhận ấn hiệu đi theo Quan Vũ. Trung nguyên rung động.

[sửa]Thua trận ra Mạch Thành

Viện binh cứu Phàn Thành bị tiêu diệt, Tào Tháo vội sai Từ Hoảng mang quân đi cứu. Trong khi Quan Vũ mải đánh Vu Cấm thì Tôn Quyền cũng sai Lã Mông mang quân đánh úp Kinh châu.

Quan Vũ vốn hay yêu quý sĩ tốt nhưng lại coi thường các sĩ phu. Vì vậy hai tướng My Phương và Phó Sĩ Nhân vẫn bất mãn với ông[19]. Lã Mông bất thần kéo đến, My Phương và Phó Sĩ Nhân theo lời thư dụ của Lã Mông, không giao chiến đã đầu hàng, dâng Giang Lăng và thành Công An cho Tôn Quyền.

Quan Vũ và Từ Hoảng đều là người quận Hà Đông, từ nhỏ đã quen biết nhau và quan hệ khá tốt[20]. Tuy nhiên khi ra trận lần đó, Từ Hoảng quyết thắng Quan Vũ. Từ Hoảng dương đông kích tây, phao tin đánh đồn Vi Trủng nhưng kỳ thực đánh đồn Tứ Trủng. Quan Vũ mắc mưu nên bị thua nặng. Ông phải hạ lệnh giải vây Phàn Thành rút lui, quân bị rơi xuống sông Hán Thủy chết rất nhiều.

Quan Vũ chạy về nửa đường mới biết Giang Lăng và Công An đã mất. Ông vốn có thể chạy về phía tây bắc [gần Tây Xuyên] đến các quận Thượng Dung và Phòng Lăng, nhưng vì quan hệ với các tướng trấn giữ ở đó là Mạnh Đạt và Lưu Phong không tốt[21] nên cùng đường phải chạy về phía nam ra Mạch Thành[22]. Đến nơi, ông lại biết tin tướng Đông Ngô là Lục Tốn đã đánh chiếm được Nghi Đô. Trong khi Quan Vũ chờ đợi viện binh thì Mạnh Đạt và Lưu Phong án binh không đến cứu.

Tháng chạp năm 219, Tôn Quyền sai người dụ hàng ông. Trong tình thế bị quân Ngô truy kích, Quan Vũ biết không thể dùng lực lượng ít ỏi còn lại để kháng cự, nên một mặt giả vờ đầu hàng, sai một số quân ở lại giương cờ trắng trên thành, còn mình dẫn hơn 10 quân kỵ theo đường nhỏ đổi hướng chạy lên phía bắc, hy vọng men theo đường núi để thoát khỏi sự kiềm tỏa của Tôn Quyền để tới Ích châu hoặc Hán Trung [địa bàn của Lưu Bị].

Khi Quan Vũ chạy tới Lâm Thư[23] thì bị tướng Ngô là Chu Nhiên và Phan Chương chặn đường. Ông bị bộ tướng của Phan Chương là Mã Trung bắt được mang về. Vì không chịu khuất phục Tôn Quyền nên ông bị giết chết.

[sửa]Tào Tháo hậu táng

Tôn Quyền giết Quan Vũ, sai người mang đầu ông đến Lạc Dương nộp cho Tào Tháo. Tào Tháo không mang đầu Quan Vũ đi bêu mà sai làm lễ tang trọng thể theo nghi thức an táng chư hầu.

Các nhà nghiên cứu cho rằng: Tào Tháo đã phụ nhiều người, nhưng chưa từng phụ Quan Vũ[24]. Mặt khác việc làm đó còn mang ý nghĩa chính trị không nhỏ: Tôn Quyền nộp đầu Quan Vũ cho Tào Tháo để muốn thiên hạ biết rằng mình giết Vũ theo lệnh Tào Tháo, khiến Lưu Bị chĩa mũi nhọn vào họ Tào; nhưng Tào Tháo trọng táng Quan Vũ lại cho ra thông điệp khác: Tôn Quyền tự ý giết ông. Tào Tháo đã giải toả được sự hiềm nghi của mọi người và lái được mũi nhọn của Lưu Bị trở lại phía Tôn Quyền[25].

Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng: Tào Tháo mở hộp đựng đầu Quan Vũ ra nhìn, thấy râu tóc dựng đứng lên, trừng mắt ra nhìn; vì vậy Tào Tháo hoảng sợ tới mức tái phát bệnh đau đầu và không lâu sau cũng chết.

Không lâu sau khi đánh chiếm được Kinh châu cho Tôn Quyền, Lã Mông trở về cũng ốm nặng, không ăn uống được gì và qua đời[26].

Tam Quốc Diễn Nghĩa kể chuyện Lã Mông bị oan hồn của Quan Vũ hiển linh nhập vào xác và vật chết.

Quan Vũ qua đời không rõ bao nhiêu tuổi. Tam Quốc diễn nghĩa ghi ông thọ 58 tuổi, tức là sinh năm 162, nhưng các nhà sử học không xác nhận thông tin này là chính xác[27]. Ông được Lưu Bị truy tặng chức Tráng Mậu hầu. Sau này Lưu Bị vì mối thù Quan Vũ đã dốc toàn quân đi đánh Tôn Quyền [năm 221].

[sửa]Nhận định

Quan Vũ được đánh giá là người dũng cảm phi thường, đứng đầu toàn quân. Ông trọng điều nghĩa, giữ chữ tín, là bầy tôi trung thành. Dù được Tào Tháo hậu đãi nhưng ông không từ bỏ Lưu Bị; theo Lưu Bị nhiều năm phải trải qua gian lao khó nhọc nhưng ông vẫn một lòng không thay đổi.

Các nhà sử học nhất trí đánh giá Quan Vũ là người vũ dũng nhưng kiêu ngạo, không chịu ở dưới người khác[28]. Năm 214, nghe tin Mã Siêu đến hàng Lưu Bị ở Tây Xuyên, Quan Vũ đang ở Kinh châu bèn viết thư cho Gia Cát Lượng hỏi:

Nhân phẩm, tài năng của Mã Siêu có thể so sánh với ai?

Gia Cát Lượng phải lựa lời viết thư lấy lòng Quan Vũ:

Mã Siêu chỉ có thể sánh ngang với Trương Phi, không thể siêu phàm tuyệt luân như ngài!

Ông đọc thư rất đắc ý và mang thư khoe với nhiều người[29].

Năm 219, Lưu Bị lên ngôi Hán Trung vương, phong ông làm Tiền tướng quân và lão tướng Hoàng Trung làm Hậu tướng quân[30]. Quan Vũ thấy mình ở ngang hàng với Hoàng Trung, không bằng lòng, không chịu nhận ấn tín. Phí Vĩ phải lựa lời khuyên ông nên vì nghiệp lớn của Lưu Bị, ông mới tỉnh ngộ và thụ phong.

Khi trấn giữ Kinh châu, Quan Vũ đã không giữ nổi đất và để mất 3 quận. Tôn Quyền trên danh nghĩa “nhận” 3 quận do Quan Vũ bàn giao nhưng trên thực tế đã chiếm được trong tay; họ Tôn lại thực sự trao cho ông 2 quận đang nắm giữ. Việc trở mặt khinh mạn Tôn Quyền của Quan Vũ là một sai lầm. Sau này Tôn Quyền giết ông, các sử gia đánh giá rằng: Lưu Bị và Quan Vũ có nhiều điều không phải với Tôn Quyền, nhưng việc Tôn Quyền ngầm đầu hàng Tào Tháo từng là kẻ thù chung để đánh lén sau lưng Quan Vũ cũng là quá đáng[31].

Trần Thọ, tác giả sách Tam Quốc chí có đánh giá về ông cũng được đời sau ghi nhận là công bằng:

Quan Vũ… sức địch vạn người, hổ thần một thời. Vũ báo ơn Tào công… có phong độ quốc sĩ. Nhưng Vũ cương và tự phụ,… lấy sở đoản chuốc lấy thất bại, là lẽ thường vậy[32].

Sự cao ngạo và thiếu hiểu biết về chính trị của Quan Vũ đã làm đổ vỡ liên minh Tôn – Lưu, gây ra việc mất Kinh châu, suy yếu cho lực lượng của Lưu Bị. Tính tự phụ và nông nổi, bất chấp đại cục của ông khiến ông trong một thời gian rất ngắn từ chỗ uy danh chấn động Hoa Hạ ngã lộn xuống, kết cục trong bi kịch, để lại bài học thất bại thê thảm[33].

Trong văn học

Quan Vũ trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, 2007

[sửa]Tam Quốc diễn nghĩa

Tác giả La Quán Trung lấy nhà Hán làm chính thống và ủng hộ Lưu Bị, do đó Quan Vũ - người trợ giúp đắc lực của Lưu Bị - được mô tả là nhân vật chính diện, vũ dũng hào hiệp, có khí phách anh hùng.

Tình huynh đệ giữa ông với Lưu Bị và Trương Phi được La Quán Trung ca ngợi. Xuyên suốt trong Tam quốc, cụm từ "kết nghĩa vườn đào" là tượng trưng cho tình nghĩa huynh đệ thắm thiết, keo sơn, không vì phú quý, công danh, khó khăn, hoạn nạn mà mờ phai.

[sửa]Chiến tích

Những nhà nghiên cứu Tam Quốc diễn nghĩa đã tổng kết: Quan Công lập nhiều công trận, trước sau chém được 17 viên tướng ngoài mặt trận[34] [những trường hợp chữ nghiêng là có thật, được xác nhận trong sử sách]:

Chém Trình Viễn Chí - tướng khởi nghĩa Khăn Vàng

Chém Hoa Hùng, tướng của Đổng Trác

Chém Quản Hợi, dư đảng Khăn Vàng

Chém Tuân Chính, tướng của Viên Thuật ở Vu Thai

Chém Xa Trụ, tướng của Tào Tháo ở Từ châu

Chém Nhan Lương, tướng của Viên Thiệu ở Bạch Mã

Chém Văn Sú, tướng của Viên Thiệu ở Diên Tân

Chém Khổng Tú ở ải Đông Lĩnh

Chém Mạnh Thản ở Lạc Dương

Chém Hàn Phức ở Lạc Dương

Chém Biện Hỉ ở Nghi Thủy

Chém Vương Thực ở Vinh Dương

Chém Tần Kỳ ở Hoạt châu

Chém Sái Dương ở Cổ Thành

Chém Hạ Hầu Tồn ở Tương Dương

Chém Dương Linh - tướng của Hàn Huyền ở Trường Sa

Ngoài ra, ông còn chém Bàng Đức sau khi bắt sống được viên tướng này ở Khoái Khẩu.

Những người trợ thủ đắc lực nhất cho ông ngoài mặt trận trong nhiều năm là con nuôi Quan Bình và nhân vật hư cấu Châu Thương.

[sửa]Những điển tích từ tiểu thuyết

Tranh vẽ Quan Vũ vừa được chữa vết thương ở tay, vừa chơi cờ vây.

Đuốc sáng thâu đêm [Minh chúc đạt đán]: Kể về sự việc khi Quan Vũ đầu hàng Tào Tháo. Tào Tháo cố ý sắp đặt cho Quan Vũ và 2 bà vợ Lưu Bị ở cùng một phòng để ông mắc lỗi đạo với Lưu Bị và không trở về với họ Lưu được nữa. Nhưng khi Cam phu nhân và My phu nhân đi ngủ, Quan Vũ đứng cầm đuốc bên ngoài canh gác suốt đêm cho tới sáng. Tào Tháo nghe vậy rất khâm phục ông.

Một đao đến hội [Đơn đao phó hội]: Tôn Quyền muốn lấy lại Kinh châu, Lỗ Túc bày mưu dụ Quan Vũ đến hội ở Lục Khẩu và cho phục binh, nếu ông không đồng ý trả Kinh châu thì sẽ giết chết. Nhưng vì Quan Vũ quá uy dũng, vừa thủ thanh long đao trong tay, vừa nắm lấy Lỗ Túc khiến quân Ngô không thể động thủ. Quan Vũ trở về an toàn.

Cạo xương trị thương: Quan Vũ đánh Phàn Thành, bị trúng tên độc của Tào Nhân. Thuốc độc ngấm vào tận xương nguy hiểm tính mạng. Danh y Hoa Đà đến chữa, đề nghị ông chùm chăn để khỏi nhìn cảnh Hoa Đà khoét thịt cạo độc trong xương. Nhưng Quan Vũ không đồng ý, vẫn thản nhiên ngồi đánh cờ với Mã Lương trong lúc Hoa Đà chữa tay. Chính Hoa Đà phải khâm phục dũng khí của ông.

[sửa]Vũ khí và ngựa chiến

Nhiều năm chinh chiến và lập công trận, Quan Vũ gắn bó với vũ khí là thanh long đao và ngựa chiến là ngựa xích thố.

Thanh long đao gọi là Thanh long yển nguyệt [yển nguyệt là trăng lưỡi liềm] do ông đặt rèn khi chuẩn bị đánh quân Khăn Vàng từ hồi 1 trong tiểu thuyết.

Con ngựa chiến Xích thố nổi tiếng của ông vốn là ngựa của Đổng Trác. Trác mang tặng Lã Bố để mua chuộc Bố phản Đinh Nguyên về theo mình. Lã Bố bị giết, ngựa về chuồng của Tào Tháo. Tào Tháo muốn lấy lòng ông bèn tặng ngựa xích thố cho ông. Ngựa quý một ngày có thể đi ngàn dặm, sau này theo Quan Vũ qua 5 ải chém 6 tướng và lập nhiều chiến tích khác.

[sửa]Hiển thánh

Đề cao uy linh dũng khí của ông, La Quán Trung còn mô tả việc ông hiển linh sau khi chết: vật chết Lã Mông trong dinh Tôn Quyền; thủ cấp nổi giận khiến Tào Tháo bệnh nặng qua đời; giúp con là Quan Hưng giết được Phan Chương để trả thù trận Mạch Thành.

Ngoài ra, La Quán Trung còn mô tả việc ông hiện lên đòi trả mạng chết oan khi gặp lại sư Phổ Tĩnh là người đồng hương. Sư Phổ Tĩnh lựa lời khuyên giải, ông mới ra đi.

[sửa]Trọng Tương vấn Hán

Trọng Tương vấn Hán [仲襄問漢] là tác phẩm văn học khuyết danh tác giả, kể theo thuyết tiền căn báo hậu kiếp hay luân hồi quả báo từ thời Hán Sở tranh hùng cho đến thời Tam Quốc.

Tác giả xây dựng nội dung để hàng loạt nhân vật thời Hán Sở tái sinh, trong đó Tây Sở bá vương Hạng Vũ đầu thai làm Quan Vũ; Hạng Bá và Ung Sĩ từng phản Hạng Vũ phải đầu thai làm Văn Sú và Nhan Lương để Quan Vũ sát hại trong trận Bạch Mã - Diên Tân; các viên tướng tranh giành xé xác Hạng Vũ để lĩnh tước hầu của Lưu Bang đầu thai làm các tướng giữ cửa 5 ải và bị Quan Vũ giết chết trên đường tìm Lưu Bị.

[sửa]Danh hiệu, tôn thờ

[sửa]Tại Trung Quốc

[sửa]Danh hiệu

Quan Vũ được thờ phụng ở nhiều nơi, tôn lên nhiều danh hiệu cao quý.

Sau khi mất, ông được truy tặng chức Tráng Mậu hầu. Thời nhà Tống, Tống Huy Tông truy tôn ông là Trung Huệ Công; Tống Cao Tông tôn ông làm Tráng Mậu Vũ An vương. Đến thời Minh Thần Tông, ông được tôn làm Quan Đế. Vua nhà Minh coi ông là vị thần hộ quốc[35].

Đời Thanh, Càn Long tôn ông làm Trung Nghĩa Vũ Thần đại đế. Năm 1856, người ta cho rằng ông đã hiển linh giúp quân Thanh thắng giặc nên binh lính nhà Thanh thường treo ảnh ông trong doanh trại và đeo tượng ông, coi như bùa hộ mệnh[36]. Cũng vì sự việc này, vua Hàm Phong đã tôn ông lên ngang hàng với Khổng Tử, gọi là Quan Phu Tử. Ông là người thứ hai sau Khổng Tử được tôn xưng là Phu Tử[37].

[sửa]Tôn thờ

Tào Tháo được xem là người đầu tiên dựng am thờ Quan Vũ, ngay tại quận Tiêu nước Bái quê mình - am Linh Thố[38].

Sau đó nhiều nơi ở Trung Quốc đã lập đền thờ Quan Vũ. Do ảnh hưởng từ tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, hình tượng ông càng trở nên thần thánh trong sự ngưỡng mộ của nhân dân. Năm 1914 thời Trung Hoa Dân Quốc, Quan Vũ được thờ chung với Nhạc Phi tại Võ miếu. Tại huyện Thái Hưng tỉnh Giang Tô, ông được thờ cùng Nhạc Phi và Văn Thiên Tường[39].

Việc thờ Quan Vũ có ảnh hưởng sâu rộng trong dân gian. Ông được nhân dân thờ như Thần độ mạng; giới thương nhân coi ông như thần tài; giới nho sĩ coi ông như thần văn học [tượng Quan Vũ trên 1 tay có cầm Kinh Xuân Thu]; giới quân sự coi ông như vị thần bảo vệ bản mệnh. Người ta giải thích rằng sở dĩ ông có cả ảnh hưởng tới giới thương nhân vì hồi còn hàn vi ông từng làm nghề bán đậu phụ. Các đao phủ thường giấu đao trong đền thờ ông vì họ cho rằng uy linh của ông sẽ ngăn trở oan hồn về báo oán[40].

[sửa]Tại Việt Nam

Việc thờ Quan Vũ ở Việt Nam có từ nhiều thế kỷ, từ Bắc đến Nam. Người Việt Nam thờ ông trong nhiều chùa, thờ chung với Phật.

Một số nơi thờ Quan Thánh ở Việt Nam[41]:

Đền Ngọc Sơn hồ Hoàn Kiếm trước đây từng là nơi thờ Quan Thánh.

Đền Quan Công ở bến Tây Luông, cách cổng thành Thăng Long 2 dặm.

Miếu Quan Đế do Bỉnh Trung Công thời Hậu Lê xây dựng ở phường Hà Khẩu, nay là phố Nguyễn Trung Trực, Hà Nội.

Miếu Quan Thánh ở xã Năng Tịnh, huyện Mỹ Lộc, Nam Định.

Đền Quan Đế ở xã Vân Trai, huyện Ngọc Sơn, Thanh Hóa.

Đền Quan Thánh ở phố Bắc Hà, huyện Kim Động, Hưng Yên

Miếu Quan Công do người Hoa xây dựng ở huyện Phong Thổ, Lai Châu.

Miếu Quan Đế ở xã Nước Hai, huyện Hòa An, Cao Bằng.

Đền Quan Công tại cạnh chùa Thiên Mụ ở Huế.

Đền Quan Công ở Hội An, Quảng Nam.

Miếu Quan Đế [Chùa Ông] của người Hoa, Phan Thiết, Bình Thuận.

Đền Quan Công tại huyện Tuy Phong, Bình Thuận

Chùa Quan Đế ở Bình Tây, Chợ Lớn, Thành phố Hồ Chí Minh.

Đền thờ Quan Thánh tại Thành phố Vũng Tàu.

Những người theo đạo Hòa Hảo làm lễ Quan Thánh vào ngày 24 tháng 6 âm lịch[42]

[sửa]Tranh và tượng

Quan Vũ được dân gian tạc tượng và vẽ tranh rất nhiều, theo mô phỏng sự mô tả của Kinh Minh thánh: mày tằm hình chữ bát, mắt phượng sáng như sao, râu rồng rõ năm chòm, trán hùm thân lẫm liệt[43].

Thông dụng hơn cả trong tranh, tượng dân gian là hai kiểu: tượng ba ông và tượng năm ông.

Tượng ba ông gồm có Quan Công mặc giáp phục ngồi giữa hổ trướng, tay vuốt râu, tay kia cầm Kinh Xuân Thu; sau lưng hai bên có Quan Bình đứng bên trái giữ ấn, Châu Thương đứng bên phải giữ thanh long đao.

Tượng năm ông tương tự như tượng ba ông, nhưng có vẽ thêm Trương Tiên cầm cung và Vương Thiên Quân cầm giản đứng hầu[44].

[sửa]Câu đối

Tại những thờ Quan Vũ có rất nhiều câu đối ca ngợi sự nghiệp và đức độ của ông. Những câu đối nổi tiếng nhất về Quan Vũ được ghi nhận là[45]:

Xích diện bỉnh xích tâm, kỵ Xích thố truy phong, trì khu thời, vô vong Xích đế

Thanh đăng quang thanh sử, trượng thanh long yển nguyệt, ẩn vi xứ, bất quý thanh thiên

Dịch nghĩa:

Mặt đỏ lòng son, cưỡi Xích thố như gió, khi rong ruổi không quên vua Đỏ[46].

Đèn xanh xem sử xanh, nương thanh long yển nguyệt, chốn ẩn vi chẳng thẹn với trời xanh

Sinh Bồ châu, sự Dự châu, thủ Từ châu, chiến Kinh châu, vạn cổ thần châu hữu hách

Huynh Huyền Đức, đệ Dực Đức, thích Mạnh Đức, cầm Bàng Đức, thiên thu trí đức vô song

Dịch nghĩa:

Sinh Bồ châu, giúp Dự châu[47], giữ Từ châu, chiến Kinh châu, muôn đời hiển hách thần châu[48]

Anh Huyền Đức, em Dực Đức, thả Mạnh Đức[49], bắt Bàng Đức, ngàn năm đức lớn vô song.

Chú thích

  1. Tức là Giải huyện, thuộc Sơn Tây, Trung Quốc
  2. Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 15-16
  3. Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 13
  4. Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 22
  5. Lê Đông Phương, Vương Tử Kim, sách đã dẫn, tr 377
  6. Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 603
  7. Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 122
  8. Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 108
  9. Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 604
  10. Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 228
  11. Lưu Bị lấy Tôn Thượng Hương – em gái Tôn Quyền
  12. Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 233-234
  13. Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 234-235. Nửa Nam quận kia vẫn của Tào Tháo
  14. Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 276
  15. Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 608
  16. Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 276-277
  17. Phần Kinh châu của họ Tào như trên đã nêu, thực tế chỉ có Nam Dương và nửa Nam quận
  18. Nay là huyện Hiệp, Hà Nam, Trung Quốc
  19. Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 610
  20. Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 279
  21. Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 279
  22. Phía đông nam đường từ Hồ Bắc tới Đương Dương
  23. Phía tây bắc Tương Dương
  24. Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 281
  25. Nguyễn Tử Quang, sách đã dẫn, tr 223
  26. Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 280
  27. Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 599
  28. Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 612
  29. Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 612
  30. Hai chức vụ cao nhất trong quân đội
  31. Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 280
  32. Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 614
  33. Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 613-614
  34. Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 38-44
  35. Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 62-64
  36. Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 87
  37. Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 64
  38. Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 75
  39. Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 81, 84
  40. Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 85, 87
  41. Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 114-116
  42. Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 124
  43. Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 92
  44. Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 95
  45. Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 99, 103
  46. Chỉ nhà Hán, vì nhà Hán ứng với vận Hoả
  47. Tức Lưu Bị, từng làm thứ sử Dự châu nên được gọi là Lưu Dự châu
  48. Thần châu tức là Trung Quốc, cách gọi mang tính tự tôn
  49. Huyền Đức là tên tự của Lưu Bị; Dực Đức là tên tự của Trương Phi, Mạnh Đức là tên tự của Tào Tháo.

Page 5

Lã Bố

Lã Bố, tự là Phụng Tiên [đôi khi cũng được gọi là Lữ Bố và Lữ Phụng Tiên], người đất Cửu Nguyên [nay là thành phố Bao Đầu, nội Mông Cổ]. Lã Bố là một võ tướng và là một quân phiệt cát cứ cuối đời Đông Hán. Lã Bố được biết tới chủ yếu qua tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung. Trong tiểu thuyết này Lã Bố được mô tả là một viên tướng hết sức dũng mãnh, chuyên sử dụng phương thiên họa kích. Người ta thường nói "Người có Lã Bố, ngựa có Xích Thố".

1. Cuộc đời:

- Giết cha nuôi, lại nhận cha nuôiTrước Lã Bố là tướng của Đinh Nguyên, nhận làm nghĩa phụ. Nhưng sau Đổng Trác cho người là Lý Túc đem ngựa Xích Thố đến dụ, Lã Bố lại giết Đinh Nguyên và về với Đổng Trác, nhận làm con nuôi ông này. Lã Bố là dũng tướng của Đổng Trác giúp Đổng Trác thực hiện âm mưu cướp ngôi vua nhà Hán.- Mắc mỹ nhân kếTrong phủ có quan tư đồ Vương Doãn bề ngoài cung kính nhưng ngấm ngầm lập mưu giết Đổng Trác. Vương Doãn biết hai cha con Lã Bố và Đổng Trác có tính hiếu sắc nên dùng kế ly gián trước, gả con gái nuôi là Điêu Thuyền cho Lã Bố sau là Đổng Trác gây nên mối bất hòa giữa hai cha con. Kết quả là Lã Bố giết chết Đổng Trác, lấy Điêu Thuyền làm thiếp.- Lập nghiệp riêngLý Thôi [Lý Giác] đem quân về báo thù cho Đổng Trác. Vương Doãn bị giết, Lã Bố bỏ chạy. Ông ta nương nhờ Viên Thuật, rồi Trương Dương, rồi Viên Thiệu, Trương Mạc. Lã Bố có các tướng giỏi là Trần Cung, Cao Thuận, Trương Liêu, Tang Bá, đánh chiếm Bộc Dương của Tào Tháo. Nhưng sau đó Tào Tháo kéo đến, đuổi Lã Bố chạy về phía đông. Bố lại nương nhờ Lưu Bị, nhưng sau đó chiếm thành Hạ Phì của họ Lưu, từ đó hùng cứ ở Từ Châu.- Cửa quan bắn kíchViên Thuật đánh Lưu Bị, cho tiền Lã Bố để ngồi yên. Lưu Bị lại cầu cứu Lã Bố. Bố mời 2 bên đến uống trà. Lã Bố cho dựng một cây kích ở rất xa, nói rằng nếu bắn trúng ngạnh kích bì 2 bên phải bãi binh. Tướng của Viên Thuật là Kỷ Linh không dám nói, còn Lưu Bị cầu cho bắn trúng. Lã Bố nhắm bắn trúng ngay ngạnh kích, Kỷ Linh đành rút về.- Tráo trở liên tụcViên Thuật xưng đế, định hỏi cưới con gái Lã Bố cho con trai mình. Lã Bố nhận lời, đưa con gái đi, nhưng giữa chừng lại theo phe Tào Tháo để được phong chức, đuổi theo đem con về. Lã Bố gây chiến với Viên Thuật, nhưng ít lâu sau chưa thấy được lên chức, lại chuyển theo Viên Thuật, trở lại đánh Tào Tháo.- Liều mạng giữ cô thànhNăm 198, Lã Bố tấn công Lưu Bị, Tào Tháo đến cứu Lưu Bị. Lã Bố nghe lời vợ, ngồi nhà giữ thành, bị bao vây. Lã Bố lại cầu cứu Viên Thuật, nhưng Viên Thuật đòi gả con dâu mới đến cứu. Lã Bố giữ thành Hạ Phì, bị chính tướng lĩnh của mình phản bội, bắt nộp Tào Tháo. Nhưng trong bộ "Trung Quốc tướng soái toàn truyện" của Trịnh Phúc Điền, Dương Diệu Xuân và Khả Vĩnh Tuyết [Tập 1, trang 500], Lã Bố thấy thế lâm nguy, bảo bộ hạ lấy đầu mình đi dâng Tào Tháo lấy công, nhưng bộ hạ không nỡ làm. Lã Bố đành ra hàng.- Thằng Tai To kia!!Đằng nào cũng vậy, Lã Bố bị trói đến trước mặt Tào Tháo, nói rằng "Thiên Hạ từ nay yên rồi!". Tào Tháo hỏi tại sao, Lã Bố nói "Có ta làm phó thống lĩnh kỵ binh, bình thiên hạ dễ như trở bàn tay". Tào Tháo định thả Lã Bố, nhưng Lưu Bị ngồi bên nói "Ngài quên Đinh Nguyên và Đổng Trác rồi ư?". Thế là Lã Bố bị đưa đi thắt cổ. Lã Bố còn quay lại chửi Lưu Bị: "Thằng tai to kia mới là không đáng tin nhất! Mày quên công ta bắn kích rồi ư?" Lã Bố cùng Trần Cung, Cao Thuận đều bị treo cổ. Trương Liêu và Tang Bá đầu hàng.

2. Tính cách

Trong truyện Tam quốc diễn nghĩa, Lã Bố là một kẻ bạc nghĩa vô tình, nhận Đinh Nguyên, Đổng Trác làm cha nuôi, rồi sau đó lại chính tay mình giết hại hai người này. Khi bị Tào Tháo đánh đuổi đã chạy về với Lưu Bị, được Lưu Bị coi trọng đối xử hậu hĩnh, nhưng khi Lưu Bị đi đánh Viên Thuật thì Lã Bố đã lợi dụng việc đó chiếm lấy đất của Lưu Bị, sau đó khi Lữ Bố bị Viên Thuật đánh thì lại gọi Lưu Bị trở lại giúp mình... Có thể nói Lã Bố là một kẻ bất hiếu với cha, bất nghĩa với bạn bè, bất tín với người đời, là một kẻ bất trí, hữu dũng vô mưu, nhiều lần đã bị thảm bại chỉ vì không chịu nghe lời khuyên của những kẻ hiền.

- Tam anh chiến Lã Bố

Tuy vậy, sự dũng mãnh, uy phong của Lã Bố thì không ai có thể phủ nhận. Có thể nói trong truyện Tam quốc diễn nghĩa, Lã Bố là tướng mạnh nhất trong tất cả các tướng, vượt trên cả Quan Vũ, Trương Phi, Hứa Chử, Điển Vi... cho đến mười mấy năm sau khi có sự xuất hiện của vị tướng Mã Siêu trẻ tuổi khiến Tào Tháo phải nhận định Mã Siêu mạnh không thua Lã Bố. Chính sự dũng mãnh đó đã giúp cho Lã Bố vang danh thiên hạ, ngay cả khi Lã Bố không nghe theo lời Trần Cung, bị trúng kế của Quách Gia, nhưng với sự kiêu dũng của mình Lã Bố vẫn có thể đảo ngược tình thế đến nỗi suýt nữa giết được Tào Tháo. Trong truyện thì sức mạnh của Lã Bố được ca ngợi qua lần một mình đấu với ba anh em Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, hay một mình địch sáu tướng của Tào Tháo, trong đó gồm cả Hứa Chử và Điển Vi.

Page 6

Lã Mông

Lã Mông [còn gọi là Lữ Mông] [tiếng Trung: 吕蒙/呂蒙, 178-219] tự Tử Minh, là vị tướng quân đội của phe Đông Ngô sống vào cuối đời Hán, đầu đời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông trở thành người đứng đầu của quân đội Đông Ngô sau cái chết của Chu Du và Lỗ Túc và nổi tiếng qua việc chiếm Kinh Châu dẫn đến cái chết của Quan Vũ, người đứng đầu trong ngũ hổ tướng phe Thục Hán.

Lã Mông sinh năm 178 tại Nhữ Dương. Ông gia nhập Đông Ngô sau khi Tôn Quyền lên nối nghiệp Tôn Sách. Năm 208, ông tham gia trận chiến tại Hạ Khẩu chống lại Hoàng Tổ và trận Xích Bích chống lại Tào Tháo dưới quyền chỉ huy của đại đô đốc Đông Ngô là Chu Du.

Sau khi Chu Du mất quyền điều khiển quân đội thuộc về Lỗ Túc. Năm 215, Tôn Quyền tấn công Hợp Phì sai Lã Mông đi theo. Lã Mông dùng kế chiếm được Uyển Thành nhưng quân Đông Ngô sau đó vấp phải sự kháng cự của Trương Liêu nên không chiếm được Hợp Phì. Sau đó Tào Tháo đem quân từ Hán Trung trở về khiến Tôn Quyền phải rút quân.

Năm 217 Lỗ Túc mất, quyền điều khiển quân đội thuộc về Lã Mông. Lúc này Đông Ngô và Tây Thục xảy ra bất hòa về vấn đề Kinh Châu nên Tôn Quyền sai Lã Mông tìm cách chiếm Kinh Châu. Nhân lúc Quan Vũ đi đánh Phàn Thành ở Tương Dương, Lã Mông dùng kế đánh úp Kinh Châu rồi phục binh bắt được Quan Vũ khi ông trên đường chạy trốn về Thành Đô. Quan Vũ bị Tôn Quyền sai đem chém. Chẳng lâu sau đó Lã Mông cũng bệnh mất ở tuổi 41. Do Lã Mông mất cùng năm với Quan Vũ nên tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung hư cấu chuyện Quan Vũ hiện hồn về vật chết Lã Mông.

Page 7

Tào Tháo

Ngoài tài nam chinh bắc chiến thống nhất phương Bắc cùng tài năng văn học, Tào Tháo còn có cống hiến to lớn cho cuốn binh thư nổi tiếng nhất của Trung Quốc – “Binh pháp Tôn Tử”.

Tào Tháo đã viết lời tựa cho “Binh pháp Tôn tử”, sử gọi là “Nguỵ Vũ Đế chú Tôn tử . Tự”, cũng là người đầu tiên viết lời chú cho cuốn sách này, giúp cuốn sách lưu truyền hậu thế. Đó chính là bản chú sớm nhất của “Binh pháp Tôn tử” hiện đại. Tào Tháo thuộc nằm lòng cuốn sách, lại biết ứng dụng hết sức linh hoạt. Trong cuộc đời binh nghiệp hơn ba mươi năm ròng của ông, tay không rời “Tôn tử”, lâm chiến càng không rời nó. Trong hơn một trăm trận đánh lớn nhỏ, cứ mười trận thì ông phải thắng tới chín, đặt cơ sở vững chắc cho thế cục thượng phong thời Tam quốc và cuối cùng thống nhất toàn quốc. Do vậy, sử sách trong lịch sử gọi Tào Tháo là nhà chính trị và nhà quân sự kiệt xuất.

Do bản cổ đại của “Tôn tử” không còn tồn tại đến ngày nay, nên có người cho rằng “Nguỵ Vũ chú Tôn tử” là do Tào Tháo nguỵ tạo nên. Tuy nhiên, năm 1972, bản sách thẻ tre của cuốn “Tôn tử” tìm thấy trong di chỉ lăng mộ thời Tiền Hán ở Lâm Nghi - tỉnh Sơn Đông đã chứng minh “Nguỵ Vũ chú Tôn tử” là bản thực, nhờ vậy mà rửa sạch được tiếng hiềm Tào Tháo nguỵ tạo binh thư.

Người chú giải “Tôn tử binh pháp” rất nhiều, phải xếp hạng nhất trong những cuốn binh pháp. Sau Tào Tháo, còn có Mạnh thị [Lương], Đỗ Hữu, Trần Hạo, Lý Thuyên, Đỗ Mục thời Đường, Vương Triết, Giả Lâm, Mai Nghiêu Thần, Hà Diên Tích và Trương Dự thời Tống, tổng cộng có 11 nhà chú “Binh pháp Tôn tử”, trở thành trước tác quân sự trứ danh khắp năm châu.

Lời tựa Tào Tháo viết có 197 chữ, muốn nắm được tường tận chỉ cần gói gọn trong 20 chữ trong ấy. Tào Tháo nêu rằng khi dùng “Binh pháp Tôn tử”, người chỉ biết dụng võ thì tất diệt mà kẻ chỉ biết dụng văn cũng vong. Tào Tháo đã thấy được văn trị cần thiết phải kết hợp với đấu tranh vũ trang mới thực hiện được mục đích thống nhất thiên hạ, chỉ nhờ cậy vào vũ lực đơn thuần hay vào văn trị đơn thuần thì bậc quân vương đều khó tránh khỏi bị diệt vong. Trong lời tựa, Tào Tháo chỉ dùng vỏn vẹn có 8 chữ “thẩm kế trọng cử, minh hoạ thâm đồ” làm lời tổng kết cho cao chiêu “vẽ rồng điểm mắt”. Ông cho rằng, nội dung trung tâm của tư tưởng quân sự trong binh pháp Tôn Tử là: nghiên cứu quân sự tường tận lập mưu cho kín kẽ [thẩm kế]; thận trọng với từng hành động quân sự [trọng cử]; vạch trận đồ rõ ràng [minh hoạ]; tính toán sâu xa mọi ý đồ quân sự [thâm đồ]. Cuối cùng kết luận là: bất khả tương vu. Cũng tức là không thể cố tình hiểu sai ý ấy đi được.

Tào Tháo dốc lòng nghiên cứu, viết nên bản chú văn cho “Binh pháp Tôn Tử” với gần 2 vạn chữ. Ngoài ra, các trước tác quân sự của Tào Tháo cũng nhiều vô vàn, như “Nguỵ Vũ Đế Thái Công âm mưu giải tam quyển”, “Nguỵ Vũ Đế Tư mã binh pháp chú” v..v…, đáng tiếc ngày nay đều đã thất truyền.

“Binh pháp Tôn Tử” giúp Tào Tháo thoát hiểm nguy, lập nên nghiệp lớn.

Ngoài việc chú giải “Binh pháp Tôn Tử”, Tào Tháo còn ứng dụng “Binh pháp Tôn Tử” vào cuộc đời binh nghiệp, dùng thực tiễn quân sự của ông làm phong phú thêm cuốn sách. Những ví dụ về việc này có rất nhiều, Tào Tháo cũng là nhà quân sự duy nhất dùng “Binh pháp Tôn Tử” để thống nhất thiên hạ trong vô số nhà chú giải kể trên.

Bạch Mã giải vây: xa tận chân trời, gần ngay trước mắt.

Hồi 25, 26 trong "Tam quốc diễn nghĩa" đã phác lại cảnh Quan Vũ chém Nhan Lương giết Văn Xú: Quan Vũ tay cầm Thanh Long đao, ngồi trên ngựa Xích Thố, phóng như bay vào doanh trại Viên Thiệu như đi vào chốn không người. Nhan Lương trở tay không kịp, bị chém nhào xuống ngựa. Văn Xú đấu với Quan Vũ không đầy ba hiệp, bị Quan Vũ cho một đao vào đầu, chém dưới mình ngựa. Ngần ấy uy thần thực quả làm người ta ngưỡng vọng! Nhưng khó hiểu là ở chỗ, đã biết Quan Vũ lợi hại làm vậy, mà tại sao trong khi chiến đấu với Tào Tháo, Quan Vũ lại thua trận mà hàng?

Đỗ Mục đời Đường đã thuật lại trận chiến ở Bạch Mã như sau: Tào Tháo cùng Viên Thiệu đụng độ nhau ở Quan Độ, Viên Thiệu phái bọn Quách Đồ, Nhan Lương đánh vào Bạch Mã, lúc bấy giờ người cầm đầu quân Tào là Lưu Diên không trụ được. Viên Thiệu dẫn binh vào Lê Dương [ở phía bắc Hoàng Hà], sắp qua sông. Tào Tháo chuẩn bị phái cứu binh lên phía Bắc, Tuân Du tâu: Tướng quân có thể phái binh đến Diên Tân, làm ra vẻ ta muốn qua sông, Viên Thiệu tất sẽ chạy theo phía Tây để phòng ngự. Lúc bấy giờ quân ta dùng khinh kỵ binh đột nhập vào Bạch Mã, xuất kỳ bất ý là hạ được ngay Nhan Lương. Tào Tháo nghe theo kế ấy, Viên Thiệu nghe tin quân Tào chuẩn bị qua sông thì lưu lại cố thủ bên sông, lại chia quân tới Diên Tân nghênh chiến. Tào Tháo lập tức thân chinh dẫn quân tức tốc tới Bạch Mã, Nhan Lương hoảng kinh thất sắc, Tào Tháo phái Trương Liêu và Quan Vũ tốc chiến vào doanh trại, chém Nhan Lương giải được vây cho Bạch Mã. Kỳ thực, đây chính là chiêu "xa tận chân trời, gần ngay trước mắt" mà Tào Tháo ứng dụng từ "Binh pháp Tôn tử", làm vẻ đánh xa mà thực té thì tấn công vào kẻ địch ở ngay gần.

Trận Quan Độ: dùng kế hoả công trong Binh pháp Tôn tử.

Trận Quan Độ là một trận kinh điển về chiến thuật lấy yếu thắng mạnh của Tào Tháo. Đỗ Hữu đã thuật lại trận ấy như sau: Thủ hạ của Viên Thiệu là Hứu Du ra hàng, tâu với Tào Tháo, quân lương của Viên Thiệu có khoảng hơn vạn xe, được quản lý không chặt chẽ. Nếu dùng khinh kỵ binh tập kích bất ngờ, dùng lửa đốt sạch thì trong không quá ba ngày, Viên Thiệu tất sẽ bại. Tào Tháo cả mừng, chọn ra năm ngàn quân kỵ binh tinh nhuệ, đều dùng cờ phướn của Viên, thổ binh ngậm thẻ gỗ, ngựa rọ mõm im lặng tiến quân, xuất binh từ đường nhỏ, trong tay ôm bó củi buộc chặt. Khi có người hỏi thì trả lời là Viên Thiệu lo Tào Tháo chạy lối sau, phái binh đến phòng bị. Người nghe được tin đó tưởng thật, quân Tào nhờ vậy thuận lợi tới được lương doanh của quân Viên, phóng hoả đốt, doanh trại Viên bỗng chốc đại loạn, đại quân tan vỡ, lương thảo quân bị đều bị đốt rụi. Đây là kế hoả công thứ 3 trong thiên Hoả công của Binh pháp Tôn tử: đốt xe hòm, tức dùng lửa đốt lương thảo quân bị. Thắng lợi trong trận Quan Độ khiến quân Viên đại bại chạy về phía Bắc Hoàng Hà, Viên Thiệu thổ huyết mà chết.

Trận Xích Bích: mười hai chữ giúp Tào Tháo thoát nguy chuyển bại thành thắng.

Tất nhiên, Tào Tháo cũng có những khi chiến bại, trận Xích bích trứ danh là một ví dụ. Tào Tháo bị Hoàng Cái dùng kế hỏa công đốt chiến thuyền liên hoàn trên sông Trường Giang, buộc phải nhanh chóng rút quân đề giảm tổn thất.

Khi lựa chọn con đường an toàn là rút quân, Tào Tháo đã quyết đoán chọn Hoa Dung đạo, con đường này nay là Tiềm Giang Tây tỉnh Hồ Bắc. Mấy trăm năm sau khi Tào Tháo đi con đường này, từng có người tới khảo sát.

Tào Tháo thoát hiểm bằng Hoa Dung đạo cũng là cơ mưu từ trong binh pháp Tôn tử mà ra hay chăng? Nếu mở "Hư thực thiên", chúng ta sẽ đọc được: "Đi ngàn dặm không mỏi mệt, là khi đi giữa chốn không người" [Tào Tháo chú vào đoạn này rằng: xuất binh nơi trống vắng, tránh chỗ phòng thủ, đánh vào chỗ không ngờ].

Tuân Tử cho rằng, hành quân ngàn dặm mà không mỏi mệt ấy là nhờ đi vào giữa chỗ mà kẻ địch không phòng thủ. Tào Tháo lại chú vào để trỏ: xuất quân tới chỗ kẻ địch phòng bị không đủ, tránh chỗ kẻ địch phòng bị nghiêm cẩn, đánh chỗ kẻ địch liệu ý không tới. Thất bại của trận Xích Bích là do Tào Tháo vốn không tính toán hết được, tuy đã đột ngột xuất hiện hoả hoạn không lường trước được, cố gắng ứng phó thất bại để ngăn ngừa những tổn thất to lớn hơn, ấy là nguyên nhân Táo Tháo quyết định đi vào chỗ hiểm nguy này. Mười bốn chữ trong "Binh pháp Tôn tử" cùng 12 chữ mà Tào Tháo chú vào, có lẽ chính là chỗ cao minh hơn hẳn của ông so với Chu Du hay Gia Cát Lượng.

Tiễn Bách Tán nói, Tào Tháo bị chủ nghĩa chính thống phong kiến biến thành điển hình của kẻ gian thần đã quá lâu rồi. Quách Mạt Nhược thì cho rằng, Tào Tháo đã làm khuôn mẫu răn dạy cảu kẻ phản diện hơn một ngàn năm. Cho tới tận thế kỷ 21 này, chúng ta cảm nhận được rằng, Tào Tháo có thể xuất hiện đường hoàng với tư cách của một tấm gương chính diện. Tất nhiên, một số khuyết điểm của ông chúng ta cũng có thể lấy đó mà làm gương. So sánh với một số danh nhân trong thời phong kiến, sức hút của Tào Tháo là ở chỗ: văn tài chí tình như Tần Hoàng Hán Vũ, như ngân hà rực rỡ; khí chất văn học hơn cả Đường tông Tống tổ, như vút roi mà băng biển lớn; võ lược văn đạo vượt mọi nhân tài đương thời, thực là người phi thường; chưa giành tột bực danh vọng lên làm bậc đế vương một thời, là kiệt nhân siêu thế.

Mao Trạch Đông trong lời bình cuốn "Tư trị thông giám" có viết: "nói Tào Tháo là gian thân mặt trắng, ấy là án oan mà quan niệm chính thống phong kiến làm ra, cái án ấy phải được lật lại".

Tích "Quan Vân Trường trọng nghĩa bỏ Tào Mạnh Đức" trong "Tam quốc diễn nghĩa", ấy chỉ là lời của một tiểu thuyết gia, không phải là sự thực lịch sử. Chu Du và Gia Cát Lượng hay những bất cứ trí giả nào khác thời bấy giờ không thể lường được Tào Tháo sẽ chọn con đường Hoa Dung ấy.

Tào Tháo không chỉ có cái tài của Bách Lạc biết nhìn ra giống Thiên Lý Mã mà còn đi khắp nơi để kiếm tìm và chiêu mộ nhân tài, quý tài như sinh mệnh. Thuộc hạ của ông có năm đại mưu sĩ, Tào Tháo hết sức tin cậy bọn họ, coi trọng hết mức, đổi lại, những mưu sĩ này cũng đã hiến cho Tào Tháo những mưu kế kỳ tài.

Lúc bấy giờ, mưu sĩ đầu phủ Tuân Húc mới 29 tuổi theo về dưới trướng Tào Tháo, Tào Tháo khi ấy còn chưa vững chân ở Duyện Châu đầy ân tình mà nói về Tuân Húc bằng 5 chữ: “Ngô chi Tử Phòng dã” [ấy là Tử Phòng của ta đó]. Tử Phòng là tên tự của Trương Lương, mưu sĩ trọng yếu nhất phò Lưu Bang đoạt được thiên hạ, ấy là lời đánh giá cao nhất về Tuân Húc.

Quách Gia là mưu sĩ ít hơn Tào Tháo 15 tuổi, nhưng lại được ông yêu quí và tôn trọng khác thường. Tào Tháo từng nói: “Giúp ta thành được đại nghiệp, cần phải có người này!”, cho rằng Quách Gia có thể giúp mình hoàn thành việc thống nhất quốc gia.

Người thứ ba là Trình Dục, văn võ song toàn. Khi Tào Tháo xuất quân đi Từ Châu, một trong những tay chân tin cẩn là Trần Doanh làm phản, nghênh tiếp Lã Bố vào tiếp quản quyền lực Duyện Châu, tình hình hết sức cấp bách. Trình Dục, Tuân Húc kiên trì cố thủ Tam Thành, đợi Tào Tháo quay về. Lúc Tào Tháo nhìn thấy Trình Dục, bất giác ngấn lệ nghẹn ngào, kéo tay Trình Dục cảm kích: “Vi tử chi lực, ngô vô sở quy hĩ” [Nếu không nhờ tiên sinh tận tâm tận lực, tôi đã không còn nơi để về rồi].

Người thứ tư là Tuân Du tự Công Đạt, cháu của Tuân Húc. Tuân Húc ít hơn Tào Tháo 8 tuổi, Tuân Du lại chỉ kém Tào Tháo có 2 tuổi, được Tuân Húc tiến cử lên. Tào Tháo nói: “Công Đạt, là người phi thường đó, ta có được để cùng bàn đại sự, thống nhất thiên hạ còn điều gì phải lo nữa đâu!”

Người cuối cùng là nhân tài hiếm gặp Giả Hủ, Trương Tú nhờ có sự phò trợ của ông ta mà đã vài lần Tào Tháo nam chinh vẫn không chinh phục được. Có một lần Trương Tú đầu hàng rồi lại tạo phản, Tào Tháo không kịp chuẩn bị nên đại bại. Để cứu Tào Tháo, con cả là Tào Ngang, đại tướng là Điển Vĩ đều đã chết giữa trận chiến, hình thành mối cừu thù sâu sắc. Tào Tháo để thu phục Trương Tú, hoá thù thành thân đã đem con mình là Tào Quân gả cho con gái Trương Tú, cùng Trương Tú kết tình thông gia. Giả Hủ ra sức khuyên Trương Tú theo về với Tào Tháo, đừng nên về phe Viên Thiệu là bởi thấy trước Tào Tháo là anh hùng tàỉ trí vô song. Khi Giả Hủ và Trương Tú đến Hứa Xương, Tào Tháo đích thân tới kéo tay Giả Hủ mà rằng: "Người trong thiên hạ khiến ta tin và xem trọng, chỉ có ngài thôi".

Một điểm đáng quý nữa trong cách đối nhân của Tào Tháo là ở chỗ, ông luôn quy chiến tích, công lao cho hạ cấp, trong khi lại nhận trách nhiệm về mình. Khi dâng biểu tấu công lao của đại thần, ông đã dùng rất nhiều từ ca tụng. Trong “Thỉnh tăng phong Tuân Húc biểu”, nêu rằng Tuân Húc “biến vong thành tồn, biến hoạ thành phúc, mưu cao công lớn, thần không bì kịp”. Lại dâng biểu ca ngợi Quách Gia “mỗi khi phải có quyết sách quan trọng, có thể lâm trận mà tuỳ cơ ứng biến, thần còn chưa biết xử trí thế nào thì Quách Gia đã vạch mưu bày trận đâu ra đấy”. Tào Tháo theo lời bàn của Tảo Chi, thực hiện chế độ tuân điền, nhờ thế quân dân đều có lương ăn, công tích to lớn vô cùng. Nhưng lúc bấy giờ Tảo Chi giữ chức Đô uý tuân điền chẳng may chết sớm, Tào Tháo đã viết một thiên lệnh văn rất dài để kể công lao của ông ta, trong đó có viết rằng nhờ thực hiện chế độ tuân điền, nâng cao uy vọng của triều đình, Tảo Chi đáng ra phải được phong tước. Kéo dài mãi tới nay thì đã muộn, ấy là lỗi lầm của ta.

Tất nhiên, Tào Tháo hậu đãi bộ hạ nhưng không hề bao biện cho bọn họ.Tào Hồng là đường đệ của Tào Tháo, lúc đánh Trương Tú Tào Tháo bại binh, lúc bấy giờ hai người chỉ có một con ngựa mà truy binh đã đến sát sau lưng. Khi ấy, Tào Tháo khuyên Tào Hồng mau chạy gấp, Tào Hồng nói thiên hạ có thể không có Tào Hồng này, “nhưng không thể một ngày không có Chủ công”, đưa ngựa của mình cho Tào Tháo cưỡi. Tào Hồng có thể nói là ân nhân cứu mạng của Tào Tháo. Về sau, có một lần người nhà Tào Hồng vì phạm pháp mà bị Hứa đô lệnh [bằng với chức thị trưởng Thủ đô ngày nay] lúc bấy giờ là Mãn Sủng bắt được, Tào Hồng tới xin tha nhưng Mãn Sủng không thả người. Liền đó Tào Hồng tìm tới chỗ Tào Tháo, xin Tào Tháo giúp cứu người, Tào Tháo bèn nói được rồi, chúng ta bày rượu tiệc mời Mãn Sủng tới nói chuyện xem sao. Tiệc đã bày hồi lâu mà Mãn Sủng vẫn chưa thấy tới, Tào Tháo liên tiếp cho người đi giục. Đến khi nhập tiệc, Tào Tháo trách Mãn Sủng sao mãi muộn mới tới? Mãn Sủng đáp vừa rồi ông bận một vụ việc. Tào Tháo bèn hỏi việc gì mà còn quan trọng hơn tiệc rượu với ta? Mãn Sủng thưa vừa đem phạm nhân là người nhà Tào Hồng ra xử trảm. Đột nhiên tiệc rượu hỗn loạn, Tào Hồng nộ khí ngùn ngụt, Tào Tháo lại có lời biểu dương Mãn Sủng chấp pháp nghiêm minh, cùng mọi người kính Mãn Sủng một chén, về sau còn thêm phần trọng dụng Mãn Sủng.

Bởi Tào Tháo tâm đắc với chính sách chỉ cần có tài là dùng được, một đoàn quân đông đảo những phần tử trí thức và tướng lĩnh lũ lượt kéo về với triều đình. Theo thống kê chưa đầy đủ, những mưu sĩ xếp vào tầm có được chút danh vọng nhất định đã là hơn trăm người. Đến cả người bạn thân cận của Gia Cát Lượng là Từ Thứ và Thạch Thao cũng về làm quan trong triều. Từ Thứ làm đến chức Tả Thị trung tướng và Ngự sử trung thừa, Thạch Thao làm tới chức Điển nông hiệu uý.

Tào Tháo có rất nhiều điểm phải ngưỡng mộ trong việc xử lý những mối quan hệ xã hội. Sau khi xử chém tên phản nghịch Trần Doanh, Tào Tháo rất khoan dung với gia tư quyến thuộc nhà Trần. Tào Tháo phụng dưỡng lão mẫu của Trần Doanh, lại còn gả chồng cho con gái ông ta, làm Trần Doanh ở dưới cửu tuyền cũng phải cảm kích ân đức. Tào Tháo đối với Lưu Bị cũng rất khí khái, ra ngoài thì ngồi chung xe, vào trong thì cùng ngồi dùng cơm. Hai người gần gũi tâm tình, lễ thanh mai uống rượu luận anh hùng. Ông liên hợp cùng Lưu Bị tiêu diệt Lã Bố, mong được vung tay giúp Lưu Bị thống nhất thiên hạ. Có người khuyên ông nên nhân cơ hội mà giết Lưu Bị, ông không đồng tình với cách làm đó, không thể vì thế mà làm nghẽn đường đi lối về của nhân tài trong thiên hạ. Cho dù Lưu Bị về sau có phản lại ở Từ Châu nhưng sau này khi ông bắt dược Quan Vũ, chẳng những chấp nhận cái ý không phục, trọng dùng cái sở trường của Quan Vũ mà hi hữu hơn là để Quan Vũ ra đi, thực hiện chính sách thông thoáng ra vào tự do, thực hiếm có.

Page 8

Chân Thị

Chân Lạc [Chữ Hán: 甄洛; 183-221], tên khác là Chân Mật [甄宓], còn gọi là Chân Phu nhân, Văn Chiêu hoàng hậu [文昭皇后], là vợ đầu của Nguỵ Văn đế Tào Phi, hoàng đế đầu tiên nhà Tào Ngụy. Bà là mẹ của Ngụy Minh đế Tào Tuấn – vua thứ 2 của triều đại này. Đương thời khi còn sống, bà chưa từng được phong làm hoàng hậu mà chỉ được gọi là Chân phu nhân. Danh hiệu Văn Chiêu hoàng hậu là do Tào Tuấn truy tôn bà khi làm hoàng đế.

Vợ Viên Hy

Chân Lạc là con gái Chân Dật [甄逸], sinh ra tại Trung Sơn[1]. Chân Dật là quan trấn thủ Trung Sơn nhưng đã mất từ năm 185, khi Chân Lạc mới lên 2 tuổi.

Dù cha mất sớm nhưng gia đình Chân Lạc vẫn còn khá giả. Trong cuộc chiến giữa các quân phiệt cuối thời Đông Hán, bà cùng gia đình đã tham gia cứu đói cho dân trong vùng.

Bà lớn lên khi Viên Thiệu đã làm chủ Hà Bắc, bao gồm Ký châu [冀州], U châu, Tinh châu và Thanh châu. Nghe đồn về sắc đẹp của bà và danh tiếng gia đình, Viên Thiệu bèn cưới bà cho con thứ hai là Viên Hy. Từ đó bà trở thành vợ Viên Hy.

Một thời gian sau, Viên Thiệu sai Viên Hy đi trấn thủ U châu[2] [幽州] nhưng bà không theo mà vẫn ở lại Nghiệp Thành - thủ phủ Ký châu để hầu hạ mẹ chồng. Bà không có con với Viên Hy.

Vợ Tào Phi

Viên Thiệu bị Tào Tháo đánh bại trong trận Quan Độ năm 200 và mất năm 202. Anh Viên Hy là Viên Đàm và em Hy là Viên Thượng tranh giành quyền thừa kế. Tào Tháo nhân đó chia rẽ và đánh bại anh em Đàm và Hy.

Năm 204, Tào Tháo hạ được Nghiệp Thành, bắt sống gia quyến họ Viên. Con lớn nhất của Tào Tháo là Tào Phi, khi đó 18 tuổi, trông thấy Chân Lạc – khi đó 22 tuổi - xinh đẹp, lập tức bị cuốn hút. Dù lúc đó Viên Hy còn sống, Tào Phi vẫn ép bà lấy mình. Năm 207, Viên Hy cùng Viên Thượng chạy trốn lên Liêu Đông và bị Công Tôn Khang giết chết, nộp đầu cho Tào Tháo.

Sau khi lấy Tào Phi 8 tháng, bà sinh ra Tào Tuấn [205]. Chính thời gian ngắn ngủi đó khiến mọi người có lời đồn đại rằng Tào Tuấn là con Viên Hy chứ không phải là con Tào Phi, dù Viên Hy đã rời Nghiệp Thành lên U châu từ khá lâu.

Sau đó Tào Phi sủng ái Quách thị và lạnh nhạt với bà. Quách thị muốn đoạt ngôi chính thất với Chân Lạc nên tìm cách hãm hại bà.

Năm 220, Tào Phi lên thay cha làm Ngụy vương, phế Hán Hiến Đế tự lập làm vua, tức là Ngụy Văn đế. Văn đế đóng đô ở Lạc Dương nhưng bỏ mặc Chân phu nhân ở Nghiệp Thành không đoái hoài.

Tháng 6 năm 221, do sự gièm pha của Quách thị, bà bị Tào Phi bức phải tự sát. Năm đó bà 39 tuổi.

Quách thị được lập làm hoàng hậu vào năm sau [222]. Tuy vậy, vì Quách hậu không có con nên Tào Tuấn con Chân Lạc vẫn là thái tử.

Năm 226, Tào Phi chết, Tào Tuấn lên ngôi, tức là Ngụy Minh đế. Quách thị không có con nhưng là hoàng hậu của Tào Phi nên trở thành thái hậu. Năm 235, Quách thái hậu chết.

Ngụy Minh đế nhớ tới mẹ đẻ, bèn truy tôn Chân Lạc làm Văn Chiêu hoàng hậu.

Đồn đại

Có ý kiến cho rằng ngoài Tào Phi, Chân Lạc còn được một người con khác của Tào Tháo là Tào Thực đem lòng yêu. Bằng chứng là năm 222, sau khi bà mất 1 năm, Tào Thực đã làm bài Lạc thần phú để tỏ lòng thương tiếc bà. Học giả Trung Quốc là Dịch Quân Tả cho rằng: Tào Thực mộng thấy gặp lại bà ở bên bờ Lạc Thủy, và bà đã tặng cho Tào Thực một chiếc gối. Khi tỉnh giấc, Tào Thực tả lâm ly trong bài "Cảm Chân phú" mà sau Tào Phi đổi lại là "Lạc thần phú"[3].

Trong giới sử học Trung Quốc có ý kiến cho rằng sự thực không phải như vậy. Khi Tào Tháo tiến vào Nghiệp Thành bắt gia quyến họ Viên, Tào Thực mới lên 13 tuổi, vì vậy dù Chân Lạc lấy Tào Phi và Tào Thực có tình ý với chị dâu thì bà cũng không có tình ý gì với Tào Thực. Bài Lạc Thần phú là Tào Thực làm phú thần sông Lạc Thuỷ gần Lạc Dương; nếu Tào Thực tưởng nhớ Chân Lạc thì phải tôn bà làm thần sông Chương ở gần Nghiệp Thành - nơi đặt mộ bà - chứ không thể gọi bà là thần sông Lạc[4].

Chú thích

- Hà Bắc, Trung Quốc

- Nay là Bắc Kinh, Thiên Tân, và phía tây Liêu Ninh

- Văn học sử Trung Quốc, tập I, GS. Huỳnh Minh Đức dịch, NXB Trẻ, 1992, tr. 256

- Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 356-357.

Page 9

Hoàng Cái

Hoàng Cái [?-?] tự Công Phúc là vị tướng quân đội của nhà Đông Ngô sống vào cuối đời Hán, đầu đời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông phục vụ cho cả 3 nhà lãnh đạo Đông Ngô là Tôn Kiên, Tôn Sách và Tôn Quyền và nổi tiếng qua chiến công trá hàng đốt chiến thuyền của quân Tào Tháo trong trận Xích Bích dẫn đến thắng lợi của quân Đông Ngô vào năm 208 SCN.

Hoàng Cái chưa rõ năm sinh, đã theo phục vụ Tôn Kiên từ những ngày đầu Tôn Kiên lập nghiệp. Năm 189, Tôn Kiên theo lời kêu gọi của Viên Thiệu và Tào Tháo dẫn quân về Trường An tiêu diệt Đổng Trác. Viên Thiệu sai Tôn Kiên làm tiên phong tiến đánh Dĩ Thủy Quan và tại đây Tôn Kiên đã chém chết tướng Đổng Trác là Hoa Hùng. Nhưng sau liên quân phát sinh mâu thuẫn nên Hoàng Cái cùng Tôn Kiên trở về Giang Đông.

Năm 193, Tôn Kiên tử trận tại Kinh Châu, con trưởng của Tôn Kiên là Tôn Sách lên thay. Hoàng Cái cùng Tôn Sách đem quân mở rộng lãnh thổ Giang Đông cho đến tận năm 200 thì Tôn Sách mất, Tôn Quyền lên thay.

Tôn Quyền lên thay Tôn Sách thì chỉ lo ổn định Giang Đông. Năm 208, Tôn Quyền chiếm Hạ Khẩu củaHoàng Tổ còn Tào Tháo chiếm Kinh Châu, có ý muốn tiêu diệt Giang Đông. Tôn Quyền bèn liên kết vớiLưu Bị chống lại Tào Tháo, trận Xích Bích bùng nổ. Tôn Quyền phong Chu Du làm đại đô đốc chống quân Tào Tháo. Chu Du sử dụng liên hoàn kế chống lại Tào Tháo, trong đó phải tìm người trá hàng đốt chiến thuyền Tào Tháo. Hoàng Cái liền nhận nhiệm vụ đó. Trong tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung thì Hoàng Cái đã để Chu Du đánh 50 roi đến thịt nát, máu văng rồi ông nhờ Tưởng Cán đem hàng thư đến Tào Tháo, Tào Tháo tin lời và khi Hoàng Cái đến trá hàng giả vờ là đi tải lương nhưng trong khoang thuyền chứa đầy chất dẫn hỏa. Khi thuyền đến gần thủy trại Tào Tháo thì Hoàng Cái phóng hỏa đốt cháy chiến thuyền Tào Tháo rồi định kéo đi giết Tào Tháo nhưng bị Trương Liêu bắn 1 mũi tên té xuống nước may nhờ có Hàn Đương cứu thoát chết.

Page 10

Hoàng Trung, tự Hán Thăng , sinh năm 148, quê ở Nam Dương. Lúc đầu ông theo Lưu Biểu, cùng với Lưu Bàn [cháu Lưu Biểu] trấn thủ Trường Sa; về sau theo Hàn Huyền. Khi Lưu Bị đem quân đến lấy Kinh Châu, sai Quan Vũ đánh Trường Sa, chiếm được Trường Sa và tha không giết Hoàng Trung. Từ đó, Hoàng Trung theo về với Lưu Bị.

Năm 214, tướng Ngụy là Trương Cáp đem quân đến đánh cửa Hà Manh. Hoàng Trung và Nghiêm Nhan đem quân đánh, đẩy lùi được Trương Cáp và chiếm được núi Thiên Đăng là nơi trữ lương thảo của quân Tào.

Năm 217, Lưu Bị và Tào Tháo đánh nhau tại Hán Trung, Hoàng Trung chém chết Hạ Hầu Uyên, tướng tâm phúc của Tào Tháo tại núi Định Quân.

Năm 219, Lưu Bị lên làm vua, phong Hoàng Trung nằm trong Ngũ hổ tướng.

Năm 222, Lưu Bị dẫn 70 vạn đại quân đánh Đông Ngô để báo thù cho Quan Vũ, Trương Phi. 2 người con trai của Quan Vũ và Trương Phi là Quan Hưng và Trương Bào liên tiếp lập công nên Lưu Bị khen ngợi và bảo các tướng theo mình từ trước nay đã già cả hết, không còn làm được gì. Hoàng Trung nghe thế tức giận liền dẫn quân đến Di Lăng nghênh chiến quân Ngô. Hoàng Trung gặp Phan Chương, chém chết tướng Phan Chương là Sư Tịch, Phan Chương chống cự không nổi bỏ chạy. Quan Hưng, Trương Bào đến khen ngợi Hoàng Trung và khuyên ông quay về nhưng Hoàng Trung không nghe.Ðánh được vài hiệp, Phan Chương bỏ chạy, Hoàng Trung rượt theo, không ngờ bị Phan Chương bắn một mũi tên, Hoàng Trung né khỏi, rồi lại rượt theo nữa. Rượt được chừng vài dặm, xảy có tiếng chiêng trống nổi dậy, hai đạo binh mai phục ào tới , một phía là Chu Thái , một phía là Hàn Đương xông ra một lượt. Phía trước Phan Chương phủ vây Hoàng Trung vào giữa. Hoàng trung cố sức chống cự lại tiếp tục bị trúng tên, may nhờ có Quan Hưng, Trương Bào đến cứu. Lưu Bị nghe tin Hoàng Trung trọng thương thì đến thăm và nhận lỗi. Hoàng Trung bảo mình đã già, có chết cũng vừa, xin Lưu Bị bảo trọng long thể để chiếm Trung Nguyên. Đến nửa đêm, Hoàng Trung tắt thở. Lưu Bị đau buồn, sai đưa về Thành Đô chôn cất tử tế.

Page 11

Lưu Bị, Gia Cát Lượng, Bàng Thống, Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu, Hoàng Trung

Gồm 5 vị tướng của phe Thục Hán là : Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu và Hoàng Trung . Tên gọi này do Lưu Bị ban cho do những đóng góp của họ cho nhà Thục Hán.

Quan Vũ [Quan Vân Trường]


Quan Vũ [關羽, 162? - 219], cũng được gọi là Quan Công [關公], tự là Vân Trường, Trường Sinh [長生], là một vị tướng quân đội thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục, với Lưu Bị là vị hoàng đế đầu tiên. Ông cũng là người đứng đầu trong số ngũ hổ tướng của nhà Thục, bao gồm: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung và Mã Siêu.

Là một trong những nhân vật lịch sử của Trung Quốc được biết đến nhiều nhất ở khu vực Đông Á, hình tượng của ông đã được tiểu thuyết hóa trong Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung và sau này được khắc họa trong các dạng hình nghệ thuật như kịch, chèo, tuồng, phim ảnh v.v với những chiến tích và phẩm chất đạo đức được đề cao cũng như được thần thánh hóa trong các câu chuyện dân gian, bắt đầu từ thời kỳ nhà Tùy [581-618]. Ông cũng được thờ cúng ở nhiều nơi với tượng mặt đỏ, râu dài, tay cầm cây thanh long đao và/hoặc cưỡi ngựa xích thố, đặc biệt là ở Hồng Kông. Tương truyền thanh long đao của ông nặng 82 cân [khoảng 41 kg ngày nay]. Trong khi dân gian xem ông như một biểu tượng của tính hào hiệp, trượng nghĩa thì các nhà sử học cũng phê phán ông về các tính kiêu căng, ngạo mạn.

- Một số chuyện về Quan Vũ:

Giết Hoa Hùng

Lúc bấy giờ, Đổng Trác lộng quyền, ngang tàn vô đạo, xem mạng người như cỏ rác. Khi vào chầu, thì lạy vua không phải xưng tên, được quyền đem gươm vào điện. Sau khi Tào Tháo mưa sát không thành trở về tiềm cha và phát cờ khởi nghĩa. Chư hầu liền tụ về quyết giết gian thần Đổng Trác. Lúc này, Quan Vũ là tay mã cung. Sau khi Bảo Trung [鲍忠], Tổ Mậu [祖茂], Du Thiệp [俞涉], Phan Phượng [潘凤] của liên minh chết dưới tay Hoa Hùng thì Quan Vũ mới ra dưới trướng xin Viên Thiệu cho ra đánh. Viên Thiệu không nhìn rõ oai hổ tướng liền quát mắng và đuổi ra ngoài. Vân Trường liền khẳng khái đáp: Nếu tôi đánh không được thì xin chịu tội. Tào Tháo tự tay rót chén rượu mời Quan Vũ trước khi ra trận nhưng Quan Công từ tạ. Lát sau, tiếng chiêng trống long trời lở đất vang lên, Quan Vũ xách đầu Hoa Hùng về thì chén rượu trong tay Tào Tháo vẫn còn nóng.

Trên thực tế, Hoa Hùng bị Tôn Kiên tử hình năm 191 tại Dương Nhân [陽人], sau khi đội quân của ông bị đánh bại.

Giết Nhan Lương

Khoảng năm 200 sau công nguyên, Viên Thiệu mở cuộc tấn công Hứa Xương [thủ đô của Tào Tháo bấy giờ] với số quân lên đến khoảng 100,000 người. Viên Thiệu điều Nhan Lương làm tiên phong tấn công xứ Bạch Mã.

Quan Vũ lúc này hiện là tướng dưới quyền của Tào Tháo [vì Quan Vũ thất lạc với Lưu Bị, Trương Phi đồng thời bị quân Tào vây nên bất đắc dĩ đầu hàng và làm tướng tạm thời cho Tào Tháo] đã theo tới Bạch Mã để giải vây. Trong khi thấy liền mấy tướng Tào bị Nhan Lương chém chết [ngay cả Từ Hoảng cũng phải thua chạy], Quan Vũ xin được lâm trận lấy đầu Nhan Lương.

Chỉ sau một hiệu trống, Quan Vũ cưỡi ngựa xích thố bất thần xông thẳng vào hàng ngũ quân Viên Thiệu. Quan Vũ đi đến đâu thì quân Viên Thiệu rẽ ra tới đó, thoáng chốc đã tới ngay trước mặt Nhan Lương. Nhan Lương do bất ngờ không kịp phòng bị nên bị Quan Vũ chém chết ngay tại trận.

Hoa Đà chữa tay

Tranh vẽ Quan Vũ vừa được chữa vết thương ở tay, vừa chơi cờ vây Quan Vũ đem quân đánh Phàn Thành bị Tào Nhân bắn 1 phát tên trúng vào tay phải. Quan Bình và các tướng khuyên Quan Vũ rút quân về nhưng Quan Vũ không chịu. Hoa Đà biết chuyện, bèn từ Giang Đông đến gặp Quan Bình xin chữa tay cho Quan Vũ. Quan Bình đưa Hoa Đà vào gặp Quan Vũ. Hoa Đà bảo tên có tẩm thuốc độc, chất độc đã ngấm đến xương. Quan Vũ hỏi cách trị Hoa Đà bảo phải trồng một cây trụ nơi vắng vẻ, Quan Vũ phải chịu cho Hoa Đà cột vào cây trụ đó, lấy vải bịt mắt để khi Hoa Đà lóc thịt , cạo xương cho hết chất độc, nếu không cột vào trụ, hoặc để nhìn thấy sợ Quan Vũ sẽ không chịu nổi. Quan Vũ cười bảo có gì mà không chịu nổi rồi vừa đánh cờ với Mã Lương vừa để Hoa Đà làm. Hoa Đà cạo xương, tiếng nghe ken két, ai nghe cũng rùng mình riêng Quan Vũ vẫn điềm nhiên đánh cờ. lát sau, máu chảy đầy chậu. Quan Vũ đứng dậy, duỗi cánh tay thấy không còn đau nữa, khen Hoa Đà là thần y và đem vàng tặng Hoa Đà nhưng Hoa Đà bảo ông chữa cho Quan vũ vì nghĩa nên không nhận vàng bạc rồi từ giã Quan Vũ ra đi.

- Ngoài ra còn có:

  • Kết nghĩa vườn đào
  • Đầu hàng Tào Tháo
  • Giết Văn Xú
  • Qua năm cửa quan giết sáu tướng
  • Tha Tào Tháo ở lộ Hoa Dung
  • Hiển thánh ở núi Ngọc Tuyền
  • Trả thù Lữ Mông

- Thất trận

Quan Công bị tướng Ngô là Lã Mông dùng kế "bạch y độ giang" lừa lấy Kinh Châu, không được tiếp viện và bị bắt sống ở phía bắc Mạch Thành [ở phía đông nam của Đương Dương, Hồ Bắc ngày nay]. Tôn Quyền dụ hàng ông không được nên đã giết Quan Vũ. Khi chết ông 58 tuổi [theo Tam Quốc diễn nghĩa].

- Các chiến công của Quan Vũ:

  • Dẹp giặc Khăn Vàng.
  • Đánh nhau với Lữ Bố.
  • Chém Nhan Lương, Văn Xú, tướng của Viên Thiệu.
  • Vượt 5 ải, chém 6 tướng của Tào Tháo.
  • Chiếm quận Trường Sa, thu phục được Hoàng Trung.
  • Bắt Vu Cấm, chém Bàng Đức.

Trương Phi [Trương Dực Đức]


Chữ Hán: 張飛; ?-221], tự là Dực Đức, quê ở Trác Quận, là một danh tướng của nước Thục thời Tam Quốc. Ông đã cùng với Lưu Bị và Quan Vũ kết bái làm huynh đệ trong vườn đào. Ông là em út trong ba người. Ông được Chiêu liệt hoàng đế tức Lưu Bị phong làm một trong ngũ hổ đại tướng.

Ông là một người rất khẳng khái, bộc trực và rất nóng nảy. Ông đã đóng góp rất nhiều cho sự ra đời của nước Thục. Ông nổi tiếng với võ nghệ siêu phàm cùng với sự dũng cảm coi thường cái chết. Ông thật sự là nỗi khiếp đảm của quân thù. Như trận đánh cầu Trường Bản, ông đã quát mấy tiếng khiến Tào Tháo hoảng sợ mà lui quân. Khi ấy ông chỉ có vài mươi kị sĩ còn Tào Tháo có trăm vạn hùng binh. Trong trận ấy, viên quan theo hầu Tào Tháo là Hạ Hầu Kiệt đã hoàng sợ đến mức vỡ tim mà chết.

Cũng chính vì tính nóng nảy của mình mà ông đã chuốc họa sát thân. Do nôn nóng báo thù cho anh là Quan Vũ bị quân Đông Ngô hại nên ông thường đánh đập quân sĩ. Trong đó có hai tên hoạn quan là Trương Đạt và Phạm Cương, chúng đã âm thầm sát hại ông. Ông mất ở tuổi 55.

- Các chiến công của Trương Phi:

  • Dẹp giặc Khăn Vàng.
  • Đánh nhau với Lữ Bố.
  • Chặn quân Tào Tháo ở trận Trường Bản
  • Truy kích Tào Tháo ở trận Xích Bích
  • Đánh Tây Xuyên, thu phục Nghiêm Nhan.
  • Đánh nhau với Mã Siêu.

Triệu Vân [Triệu Tử Long].


Triệu Vân 168-229], tự là Triệu Tử Long người vùng Thường Sơn, là một vị tướng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục, với Lưu Bị là vị hoàng đế đầu tiên. Ông được phong chức Hổ uy Tướng quân và đứng thứ ba trong Ngũ Hổ Tướng của nhà Thục, bao gồm: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung và Mã Siêu.

Triệu Vân sinh năm 168 tại thành Chân Định [真定] thuộc vùng Thường Sơn [常山] [bây giờ là Hà Bắc, phía bắc Trung Quốc]. Ông cao khoảng 1,85 m [6 ft 2], giỏi võ nghệ và có tài thao lược. Ông theo về với Công Tôn Toản, một tướng quân cát cứ trong vùng vào khoảng cuối năm 191 hoặc đầu năm 192, với danh nghĩa thủ lĩnh một đội quân tình nguyện nhỏ. Trong năm 192, Triệu Vân được xếp dưới quyền trực thuộc của Lưu Bị, người mà khi ấy chỉ là bộ tướng của Công Tôn Toản, giữ chức Phiêu kỵ tướng quân. Lưu Bị có vài nghìn kỵ binh, và Triệu Vân được điều đến trong hàng ngũ này. Ngay sau đó, Triệu Vân từ bỏ Lưu Bị và Công Tôn Toản để về quê chịu tang anh trai. Triệu Vân lại theo về với Lưu Bị vào năm 200. Từ đó Triệu Vân quan hệ rất gắn bó với Lưu Bị. Tam Quốc Chí kể họ cùng ngủ chung một giường trong thời gian hai người ở tại Gia Thành [鄴城]. Trong khoảng thời gian đó, Lưu Bị phái Triệu Vân bí mật tuyển mộ thêm quân để tăng cường cho đội quân trực thuộc của Lưu Bị. Kể từ đây Triệu Vân chính thức bỏ Công Tôn Toản theo phò Lưu Bị.

Năm 208, Lưu Bị giao tranh với Tào Tháo thất bại và bị đuổi chạy qua Trường Bản. Trong trận Trường Bản thì Triệu Vân đã liều mạng sống bảo vệ gia quyến Lưu Bị, cứu được con trai Lưu Bị là Lưu Thiện [A Đẩu], tạo nên điển tích Tử Long một ngựa cứu chúa nổi tiếng đến ngày nay. Sau Đại chiến Xích Bích, Triệu Vân góp công lớn giúp Lưu Bị dành được phần nam Kinh Châu, và trở thành một trong những tướng lĩnh quan trọng trong tập đoàn Lưu Bị, được phong chức "đại tướng quân". Khi Lưu Bị dẫn quân vào Ích Châu [益州, nay là tỉnh Tứ Xuyên, 四川], ông đã giao cho Triệu Vân phòng thủ căn cứ chính ở Công An [公安, bây giờ thuộc tỉnh Hồ Bắc, 湖北] với tư cách "lưu dẫn tư mã" [留營司馬].

Sau đó, Triệu Vân theo Gia Cát Lượng và Trương Phi vào Thục. Triệu Vân tự dẫn quân độc lập, hành quân qua Giang Châu [江州] và Kiến Vi [犍為] tới Thành Đô, giúp Lưu Bị chiếm được Thành Đô. Khi Lưu Thiện lên ngôi năm 223, Triệu Vân được phong "Chinh Nam tướng quân" [征南將軍] và phong "Vĩnh Trang Đình Hầu" [永昌亭侯]. Sau đó lại được phong "Trấn Đông tướng quân" [鎮東將軍].

Năm 227, Triệu Vân khi đó là tướng quân đứng đầu quân đội nước Thục, theo Gia Cát Lượng dẫn quân lên Hán Trung [漢中] trong cuộc "bắc phạt" lần thứ nhất. Mùa xuân năm sau, Triệu Vân được lệnh hành quân qua Tà Cốc [斜谷] làm nghi binh cho quân chủ lực. Phải chống chọi với binh lực mạnh hơn nhiều của đại tướng ngụy là Tào Chân [曹真], Triệu Vân đã phòng thủ thành công và dẫn quân rút lui an toàn. Ông lại được phong làm "Định Quân tướng quân".

Năm 229, Triệu Vân chết ở Hán Trung, quân sĩ nước Thục vô cùng nuối tiếc. Ông được Lưu Thiện truy phong làm "Thuận Bình hầu" [順平侯] năm 261.

Miếu thờ và tượng Triệu Vân tại Chính Định, Hà Bắc, Trung QuốcĐược biết đến như một chiến binh vĩ đại, Triệu Vân hội tụ đủ các bản chất của những anh hùng trong thời đại ông. Mặc dù Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung chỉ đặc biệt miêu tả Triệu Vân võ công cao cường, thực ra ông còn đáng được ngưỡng mộ bởi tài thao lược khôn khéo, lòng trung thành tận tụy và tính cách thẳng thắn, sự dũng cảm phi thường. Chính Triệu Vân đã dám đứng ra can gián Lưu Bị tiến đánh Đông Ngô để trả thù bằng những lý do sáng suốt.

- Bài thơ về Triệu Vân cứu chúa trong trận Đương Dương - Trường Bản:

  • Máu đỏ chan hòa áo giáp hồng
  • Đương Dương ai kẻ dám tranh hùng
  • Xưa nay cứu chúa xông trăm trận
  • Chỉ có Thường Sơn Triệu Tử Long

- Gia đình

Triệu Vân có hai con trai là Triệu Thống và Triệu Quảng. Người con thứ hai là thuộc cấp của Khương Duy và chết tại trận Đạp Trung

- Các chiến công của Triệu Vân:

  • Cứu con trai Lưu Bị trong trận Trường Bản, chém hơn 50 tướng của Tào Tháo.
  • Truy kích Tào Tháo ở trận Xích Bích.
  • Đánh Tây Xuyên, Hán Trung.
  • Đánh tộc người Man.

Mã Siêu [Mã Mạnh Khởi]


Mã Siêu 馬超 [176-223], tự Mạnh Khởi 孟起, là một vị tướng của phe Thục Hán sống vào cuối đời nhà Hán, đầu đời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc, là dòng dõi Phục Ba tướng quân Mã Viện đời Đông Hán. Ông có biệt danh là "Cẩm Mã Siêu" [tức Mã Siêu tráng lệ] nhờ khả năng chiến trận và bộ áo giáp của ông. Ông là một trong ngũ hổ tướng của nhà Thục Hán bao gồm Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu và Hoàng Trung.

- Cuộc đời

Mã Siêu sinh năm 176 tại Lũng Môn [nay thuộc tỉnh Thiểm Tây]. Ông là con trưởng của Mã Đằng, thứ sử Tây Lương. Mã Siêu được miêu tả trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung là mặt đẹp như ngọc, mắt sáng như sao, mình hổ tay vượn, bụng beo lưng sói, lúc ra trận mình mặc hổ phù, tay cầm trường thương, oai phong lẫm liệt vô cùng.

Năm 191, Đổng Trác bị Lữ Bố giết chết. Sau đó Lý Thôi, Quách Dĩ là 2 tướng cũ của Đổng Trác đánh bại Lữ Bố, uy hiếp Hán Hiến Đế, nắm quyền ở Trường An. Năm 193, thứ sử Tây Lương Mã Đằng liên kết với Chinh tây tướng quân Hàn Toại dẫn 10 vạn quân về Trường An. Lý Mông, Vương Phương là 2 tướng của Đổng Trác kéo quân ra nghênh chiến. Mã Siêu [khi đó mới 17 tuổi] đâm chết Vương Phương, bắt sống Lý Mông. Lý Thôi, Quách Dĩ thấy Mông, Phương cùng bị giết cả bấy giờ mới chỉ giữ vững các cửa thành, mặc bên kia khiêu chiến thế nào cũng không ra. Quả nhiên chưa được hai tháng, quân Mã Ðằng, Hàn Toại cạn lương, hai tướng phải bàn nhau rút quân về.

Năm 211, Tào Tháo lấy danh nghĩa thiên tử triệu Mã Đằng về triều. Mã Đằng bèn tìm kế phản Tào Tháo nhưng kế hoạch bại lộ, Mã Đằng và 2 con Mã Hưu, Mã Thiết bị Tào Tháo giết. Mã Đại là cháu Mã Đằng trốn về được báo cho Mã Siêu. Mã Siêu tức giận hợp cùng Hàn Toại và bộ tướng là Bàng Đức kéo 20 vạn quân báo thù cho cha. Quân Tây Lương chiếm được Trường An, rồi chiếm luôn ải Đồng Quan. tào Tháo kéo quân đến ải Đồng Quan bị Mã Siêu đánh bại, nhờ Hứa Chử cứu thoát, từ đó chỉ cố thủ. Mã Siêu cho quân tấn công liên tục nhưng gặp lúc mùa đông sắp đến, Hàn Toại bàn với Mã Siêu rút quân về. Tào Tháo nhân cơ hội đó thực hiện kế phản gián, khiến Mã siêu đánh Hàn Toại. Nhân lúc quân Tây Lương rối loạn, Tào Tháo phản công, đánh bại Mã Siêu. Mã Siêu cùng Bàng Đức, Mã Đại mở vòng vây chạy thoát.

Năm 213, Mã Siêu trốn về Lũng Tây rồi đem quân đánh chiếm Ký Thành. Mã Siêu trọng dụng Dương Phụ là tướng cũ của Ký Thành. Sau đó, Dương Phụ bất ngờ đánh úp Mã Siêu, lại gặp Hạ Hầu Uyên trợ giúp Dương Phụ nên Mã Siêu chống cự không lại, cùng Bàng Đức, Mã Đại đến Hán Trung đầu hàng Trương Lỗ.

Năm 214, Mã Siêu nhận lệnh của Trương Lỗ tiến đánh ải Hà Manh để cứu viện cho Lưu Chương đang bị Lưu Bị tấn công. Mã Siêu đến Hà Manh quan, đánh nhau một trận kinh hồn với Trương Phi, sau Lưu Bị nhờ Lý Khôi theo kế Khổng Minh đến dụ hàng Mã Siêu. Mã Siêu liền bằng lòng qui thuận, Lưu Bị đích thân đi đón rước, đãi vào bậc thượng tân. Cuối cùng, Mã siêu đem quân đến Thành Đô, bảo Lưu Chương ra hàng, Lưu Bị chiếm được Ích Châu, phong Mã Siêu làm Bình Tây tướng quân thống lĩnh toàn bộ kị binh.

Năm 219, Lưu Bị chiếm Hán Trung của Tào Tháo, sai Mã Siêu cùng Ngụy Diên đem quân truy kích Tào Tháo khi hắn rút chạy khỏi Hán Trung. Sau đó, Lưu Bị sai Mã Siêu trấn giữ Hán Trung, đề phòng quân Ngụy.

Năm 222, Mã Siêu bệnh mất, hưởng thọ 46 tuổi. Trước khi chết, ông viết thư cho Lưu Bị bảo rằng cả nhà ông bị Tào Tháo giết gần hết nên nhờ Lưu Bị chăm sóc cho em mình là Mã Đại là người cuối cùng của nhà họ Mã.

- Mã Siêu trong tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa

Trong tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Mã Siêu được miêu tả là một hổ tướng sức địch muôn người, nhưng "có khỏe mà không có khôn" nên không báo thù được cho cha đồng thời không tạo dựng được cơ nghiệp. Tác phẩm có nói đến trận chiến giữa Tào Tháo với Mã Siêu và hai trận đánh giữa Mã Siêu với Hứa Chử, Trương Phi cho thấy sức mạnh của ông.

- Mã Siêu đại chiến Hứa Chử

Trong trận chiến ở Đồng Quan, Mã Siêu nhiều lần suýt bắt được Tào Tháo nhưng lần nào Tào Tháo cũng nhờ có Hứa Chử cứu thoát. Từ đó, Tào Tháo và quân Ngụy ai cũng gọi Hứa Chử là "Hổ hầu". Mã Siêu kéo quân đến nghênh chiến. Hứa Chữ xin ra đánh Tào Tháo chấp thuận, bèn cho soạn chiến thư. Mã Siêu bảo quyết bắt được "con hổ điên" về xé xác. Hôm sau Mã Siêu đến thấy một tướng địch đứng cạnh Tào Tháo xông ra, mặt như ánh lửa, dáng điệu hung dữ, hét vang như sấm. Mã Siêu biết là Hứa Chủ bèn lao vào. Hai bên đánh nhau cả trăm hiệp chưa phân thắng bại. Hứa Chử liền chạy về, cởi bỏ giáp, trần trùng trục ra đánh tiếp, đánh trăm hiệp nữa Hứa Chữ vứt đao rồi giựt giáo đâm Mã Siêu. Cây giáo gãy đôi, mỗi người cầm một nửa đánh tiếp. Bên này Tào Hồng, Hạ Hầu Huyên ra đánh trợ lực, bên kia Bàng Ðức, Mã Ðại cũng ùa ra. Hai bên đánh loạn, Hứa Chử bị trúng hai mũi tên phải chạy, quân Tây Lương rượt theo, quân Tào đại bại. Mã Siêu về trận bảo với Hàn Toại chưa gặp ai liều mạng như Hứa Chử.

- Trận chiến tại Hà Manh Quan - Mã Siêu đại chiến Trương Phi

Mã Siêu và Trương Phi đại chiến tại Hà Manh QuanNăm 214, Mã Siêu cùng Bàng Đức, Mã Đại trốn thoát đến Hán Trung đầu hàng Trương Lỗ. Sau đó, Lưu Chương là thứ sử Ích Châu cầu cứu Trương Lỗ giúp đánh Lưu Bị. Mã Siêu bèn xin đi cứu Lưu Chương. Trương Lỗ cấp cho Mã Siêu 2 vạn quân cùng Dương Bách, Mã Đại kéo đến ải Hà Manh. Trương Phi nghe tin Mã Siêu kéo đến trước ải bèn xin Lưu Bị cho mình ra đánh nhau với Mã Siêu. Khổng Minh nói khích Trương Phi phải mời Quan Vũ tới mới chống cự được. Trương Phi liền viết quân lệnh trạng và được cử làm tiên phong, Ngụy Diên cũng được đi theo. Huyền Ðức lãnh hậu đội tiếp ứng. Quân hai bên gặp nhau, Dương Bách đánh cùng Ngụy Diên, Dương Bách thua chạy, Ngụy Diên trông thấy Mã Ðại lại ngỡ là Mã Siêu nên xông vào đánh lại giả thua, Ngụy Diên đuổi theo bị Mã Ðại quay lại bắn một mũi tên trúng tay, Ngụy Diên phải chạy về. Vừa lúc đó Trương Phi xông tên đánh bại Mã Đại. Lưu Bị ra lệnh thu quân, bảo Trương Phi dưỡng sức đánh Mã Siêu. Mờ sáng hôm sau, Mã Siêu đã ra trận. Huyền Ðức nhìn sang thấy Mã Siêu đội mão Sư Tử, thắt đai Hổ Phù, bào trắng giáp bạc lóng lánh, cầm giao giục ngựa đi lại như bay nên Lưu Bị thích lắm. Lưu Bị thấy Mã Siêu đang hăng cứ giữ Trương Phi lại không cho xuống, chờ tới quá trưa thấy bên trận địa Mã Siêu có phần rời rạc, mới cho Trương Phi xuống đánh. Mã Siêu nhận ra Trương Phi cầm giáo vẫy một cái, quân lui cả ra phía sau. Sau đó, hai tướng khiêu chiến với nhau rồi lao vào nhau như hai con hổ, quân sĩ hai bên chỉ biết đứng nhìn. Hai bên đánh nhau cả trăm hiệp mà chưa phân thắng bại, Lưu Bị bèn cho thu quân. Hai bên về trận địa nghỉ chốc lát rồi Trương Phi chỉ buộc một chiếc khăn lên đầu, xông ra thách Mã Siêu đánh nữa. Mã Siêu cũng hăm hở nhảy ra, rồi hai bên lại giao tranh hơn một trăm hiệp nữa, hai con ngựa đều mệt lừ mà hai tướng lại càng đánh càng hăng hơn trước. Lưu Bị lại ra lệnh thu quân. Hai tướng lại về trận mình nghỉ rồi Mã Siêu thách Trương Phi chong đuốc đánh ban đêm. Lưu Bị ngăn cản nhưng Trương Phi đang hăng máu nên tiếp tục ra trận. Thế là quân hai bên lại hò reo vang trời dậy đất, trăm cây đuốc được đốt lên, hai hổ tướng lại xông vào nhau tranh thủ một còn một mất, dưới ánh đuốc chập chờn rồi lại lóe sáng. Ðang đánh Mã Siêu nghĩ ra mặt mẹo, liền chạy, Trương Phi đuổi theo thì Mã Siêu ngầm rút cây trùy đồng bên mình mà vụt lại. Trương Phi tuy đuổi mà vẫn đề phòng nên tránh kịp cây trùy nặng cả ngàn cân. Trương Phi lại quay ngựa chạy về. Mã Siêu lại đuổi theo. Bất ngờ, Trương Phi bắn một phát, nhưng Mã Siêu cũng nhanh như chớp tránh thoát. Sau đó hai tướng tạm buông nhau ai về trận nấy. Về sau, Lý Khôi theo kế của Khổng Minh đến dụ hàng được Mã Siêu và cuối cùng Mã Siêu kéo đến Thành Đô bắt Lưu Chương đầu hàng, Lưu Bị chiếm được Ích Châu.

- Các chiến công của Mã Siêu:

Hoàng Trung [Hoàng Hán Thăng]


Hoàng Trung [黄忠, bính âm: Huáng Zhōng; Wade-Giles: Huang Chung], [148-220], là một vị tướng quân đội thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Hoàng Trung được miêu tả là một lão tướng đã gần 60 tuổi nhưng sức địch muôn người, đã lập nhiều công lao cho Lưu Bị và là một trong Ngũ hổ tướng của quân Thục cùng Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân và Mã Siêu.

Cuộc đời

Hoàng Trung, tự Hán Thăng [汉升], sinh năm 148, quê ở Nam Dương. Lúc đầu ông theo Lưu Biểu, cùng với Lưu Bàn [cháu Lưu Biểu] trấn thủ Trường Sa; về sau theo Hàn Huyền. Khi Lưu Bị đem quân đến lấy Kinh Châu, sai Quan Vũ đánh Trường Sa, chiếm được Trường Sa và tha không giết Hoàng Trung. Từ đó, Hoàng Trung theo về với Lưu Bị.

Năm 214, tướng Ngụy là Trương Cáp đem quân đến đánh cửa Hà Manh. Hoàng Trung và Nghiêm Nhan đem quân đánh, đẩy lùi được Trương Cáp và chiếm được núi Thiên Đăng là nơi trữ lương thảo của quân Tào.

Năm 217, Lưu Bị và Tào Tháo đánh nhau tại Hán Trung, Hoàng Trung chém chết Hạ Hầu Uyên, tướng tâm phúc của Tào Tháo tại núi Định Quân.

Năm 219, Lưu Bị lên làm vua, phong Hoàng Trung nằm trong Ngũ hổ tướng. Năm 220, Lưu Bị đem quân đánh Đông Ngô để trả thù cho Quan Vũ, Trương Phi. Hoàng Trung bị thương nặng, sau đó qua đời ở tuổi 72.

- Hoàng Trung trong Tam Quốc Diễn Nghĩa

Trận chiến tại Thiên Đăng Sơn

Hồi thứ 70, tướng Ngụy là Trương Cáp sau khi thất bại trước Trương Phi ở Ngỏa Khẫu Ải được Tào Hồng cấp 5.000 quân đến đánh cửa Hà Manh. Tin báo về Thành Đô. Gia Cát Lượng dùng kế khích tướng Hoàng Trung. Hoàng Trung xin cùng lão tướng khác là Nghiêm Nhan ra trận. Lưu Bị đồng ý. Các tướng ai nấy đều cười khẩy.

Hoàng Trung muốn chiếm núi Thiên Đăng là nơi cất giữ lương thảo của quân Tào nên nghĩ ra một kế. Hoàng Trung giả vờ thua quân Tào mấy trận liền, rút về cửa ải. Huyền Đức lo lắng, hỏi Khổng Minh. Khổng Minh bảo là mẹo của Hoàng Trung để quân địch sinh kiêu. Các tướng không tin. Lưu Bị sai Lưu Phong ra tiếp ứng.

Đến canh 2, Hoàng Trung dẫn 5.000 quân từ cửa ải kéo xuống. Quân Tào không phòng bị nên thua lớn, chết không biết bao nhiêu mà kể. Hoàng Trung đuổi đến sáng, cướp lại được nhiều trại sau đó lại thúc quân đuổi theo. Quân Tào rút về núi Thiên Đăng. Sau đó quân Tào trở lại phản công nhưng thất bại. Hàn Hạo, Hạ Hầu Đức bị giết. Quân Tào bỏ núi Thiên Đăng chạy về núi Định Quân. Huyền Đức nhân dịp đó khởi binh đến đánh Hán Trung, thưởng cho Hoàng Trung, Nghiêm Nhan rồi sai Hoàng Trung và Pháp Chính đem quân đánh núi Định Quân.

- Cái chết của Hoàng Trung

Năm 222, Lưu Bị dẫn 70 vạn đại quân đánh Đông Ngô để báo thù cho Quan Vũ, Trương Phi. 2 người con trai của Quan Vũ và Trương Phi là Quan Hưng và Trương Bào liên tiếp lập công nên Lưu Bị khen ngợi và bảo các tướng theo mình từ trước nay đã già cả hết, không còn làm được gì. Hoàng Trung nghe thế tức giận liền dẫn quân đến Di Lăng nghênh chiến quân Ngô. Hoàng Trung gặp Phan Chương, chém chết tướng Phan Chương là Sư Tịch, Phan Chương chống cự không nổi bỏ chạy. Quan Hưng, Trương Bào đến khen ngợi Hoàng Trung và khuyên ông quay về nhưng Hoàng Trung không nghe.Ðánh được vài hiệp, Phan Chương bỏ chạy, Hoàng Trung rượt theo, không ngờ bị Phan Chương bắn một mũi tên, Hoàng Trung né khỏi, rồi lại rượt theo nữa. Rượt được chừng vài dặm, xảy có tiếng chiêng trống nổi dậy, hai đạo binh mai phục ào tới , một phía là Chu Thái , một phía là Hàn Đương xông ra một lượt. Phía trước Phan Chương phủ vây Hoàng Trung vào giữa. Hoàng trung cố sức chống cự lại tiếp tục bị trúng tên, may nhờ có Quan Hưng, Trương Bào đến cứu. Lưu Bị nghe tin Hoàng Trung trọng thương thì đến thăm và nhận lỗi. Hoàng Trung bảo mình đã già, có chết cũng vừa, xin Lưu Bị bảo trọng long thể để chiếm Trung Nguyên. Đến nửa đêm, Hoàng Trung tắt thở. Lưu Bị đau buồn, sai đưa về Thành Đô chôn cất tử tế.

- Các chiến công của Hoàng Trung

  • Chém chết Hạ Hầu Uyên.
  • Đánh Tây Xuyên, Hán Trung.

Page 12

Gia Cát Lượng

Khổng Minh là một nhân vật rất quen thuộc với độc giả Việt. Đối với nhiều người đọc, Khổng Minh là một nhân vật đầy mưu lược, thông hiểu đạo lý, phù chính nghĩa trong tác phẩm "Tam Quốc diễn nghĩa" lừng danh. Tuy nhiên hiện nay ở Trung Quốc, dư luận có nhiều cách lý giải mới về Khổng Minh. Điều đó có thể do các giá trị cũ thay đổi, hoặc vì một lý do nào đó khác… Chúng ta có thể tự cảm nhận khi đọc bài viết này.

Tác giả của phần trích trong hai chương sách bình về Gia Cát Lượng được trích dưới đây là Mai Triêu Vinh, sinh năm 1970 ở Vũ Hán, Hồ Bắc, gốc là người Nam Xương, Giang Tây. Ông hiện là Tổng Giám đốc Nhà xuất bản Đại học Vũ Hán, chi nhánh Bắc Kinh. Vốn nổi tiếng bởi những cuốn sách gây sốc và bán chạy vào loại nhất. Mai Triêu Vinh đã viết rất nhiều tác phẩm và hầu hết đều gây được sự chú ý của người đọc.

Các tác phẩm của ông bao gồm: Tiến hóa luận: câu chuyện mạnh được yếu thua; 12 quy luật suy vong của các triều đại Trung Quốc; Lược sử nhân loại: Chúng tôi có 300 vạn năm; Siêu đế quốc: giải mã những vương triều cường thịnh Trung Quốc; Nhà đại cải cách Ung Chính: thực lục về việc phản đối lợi ích của tập đoàn; Bình luận về 7 đại gian hùng trong lịch sử Trung Quốc;… Hầu hết những tác phẩm của ông đều mang tính chất phản đề, "nói ngược”. Và cũng vì những cuốn sách này, người ta đã coi Mai Triêu Vinh là nhà bình luận lịch sử xã hội sắc sảo.

Gần đây, cuốn sách Mai Triêu Vinh bình luận về Gia Cát Lượng đã gây xôn xao dư luận Trung Quốc. Lần đầu tiên một học giả đã trên giấy trắng mực đen công khai tuyên bố Gia Cát Lượng là kẻ ngụy quân tử, đầy thủ đoạn, giả nhân giả nghĩa nhằm đạt bằng được dã tâm chính trị của mình. Cuốn sách thực sự là một cú sốc lớn bởi lẽ lâu nay Gia Cát Lượng vẫn tồn tại như một điển hình về sự mưu trí tuyệt đỉnh.

Ý kiến về cuốn sách do vậy rất trái ngược. Người tung hô, cho rằng đây là kiến giải mới mẻ, lập luận thuyết phục, là những phản đề đầy giá trị. Kẻ cho rằng đó chỉ là cách "làm tiền” lộ liễu… Đoạn trích dưới đây thuộc phần 12 chương II và phần thứ nhất chương III trong cuốn sách đó.

Trong thời kỳ Tam Quốc, Gia Cát Lượng được mọi người công nhận là kẻ "thông hiểu thần thánh”. Trong hồi thứ 49 Tam quốc diễn nghĩa nói đến việc ông mượn gió Đông, hỏa thiêu Xích Bích, đại phá 80 vạn quân Tào Tháo. Gia Cát Lượng tự kể: "Từng gặp đạo nhân, được truyền thụ kỳ môn độn giáp, có thể hô phong hoán vũ”. Nhưng thật ra đây chỉ là một mánh khóe nhằm lừa bịp Chu Du mà thôi.

Gia Cát Lượng chẳng qua đã lợi dụng sự mê tín của mọi người đối với thần thánh để giở trò huyễn hoặc. Công bằng mà nói, ông là người cực kỳ thông minh, giỏi nắm bắt cơ hội. Những gì ông làm thường rất giản đơn, nhưng ông ta che che đậy đậy, lúc ẩn lúc hiện khiến cho mọi người không biết đâu mà lần ra đầu mối. Những điều thực ra rất giản đơn, ông biết cách làm cho nó trở nên rắc rối, khó hiểu.

Mỗi khi Gia Cát Lượng điều binh khiển tướng, đều có một chút gì đó thần bí. Không phải chỉ đơn giản trao túi gấm cho tướng lĩnh, mà còn sẵn sàng lắng nghe những kháng nghị của họ. Điều này làm cho các tướng lĩnh cũng như binh sĩ không hiểu rõ ràng toàn bộ diễn biến của chiến cục. Thuộc hạ chỉ còn biết "y kế” mà hành sự. Tác dụng của việc làm như thế là khiến cho mọi người có cảm giác thần bí về Gia Cát Lượng, trở thành một quân cờ trong tay ông, không nắm được toàn bộ chiến lược nên thiếu hẳn tinh thần hợp tác. Hai mặt này hiển nhiên sự nguy hại của cái sau lớn hơn so với cái trước rất nhiều.

Vô vị nhất là việc mượn gió Đông. Khi mọi người đồng tâm đồng sức kháng Tào, Gia Cát Lượng lại lợi dụng một chút hiểu biết về thiên văn của mình để giở mánh khóe lừa bịp ba quân. Đăng đàn làm phép, làm trò huyễn hoặc, thần thánh hóa bản thân mình để đạt được mục đích chính trị. Khoa trương công lao của bản thân, cướp đoạt công lao to lớn của Hoàng Cái và Chu Du, tựa hồ thắng lợi trong trận hỏa thiêu Xích Bích hoàn toàn là do việc Gia Cát Lượng làm phép mà đem lại. Bao nhiêu khó nhọc vào sinh ra tử của các tướng lĩnh và hàng vạn binh sĩ trở thành một vở kịch trên sân khấu.

Một tướng như Gia Cát Lượng đã khiến cho sự nghiệp của Thục Hán gặp rất nhiều gian truân. Trận Đương Dương chính là một ví dụ. Đương nhiên nếu đọc Tam quốc diễn nghĩa mà chỉ thấy miêu tả Triệu Vân xả thân cứu A Đẩu, Trương Phi hét lớn lui quân Tào trước cầu Tràng Bản… Như thế chính là tác giả muốn che giấu sự bất tài của Gia Cát Lượng. Vốn là Tào Tháo truy kích thắng lợi, nhưng trong tác phẩm ngược lại, quân Lưu Bị ở đâu cũng chiếm được thượng phong. Thực tế trong trận Đương Dương, Gia Cát Lượng không hề giành được thắng lợi nào về mặt chính trị. Bởi vì lần này là đánh trực diện ông không có cách nào giở trò bịp bợm ma quỷ được. Cuối cùng không thể không nhắc tới câu nói thẳng thắn trong Tam Quốc chí Gia Cát Lượng truyện: "Tại Hạ Khẩu, Lượng nói: Việc rất gấp, hãy phục mệnh đi cứu Tôn tướng quân”.

Gia Cát Lượng giở trò quỷ thần, lừa dối chỉ là nhất thời, ông không thể lừa được cả đời.

Gia Cát Lượng gặp Lưu Bị khi Cửu Châu đang hỗn loạn, anh hùng khắp nơi nổi lên. Quân thần tương ngộ, như cá gặp nước. Nhưng không thể cùng quân Tào tranh thiên hạ đành vứt bỏ Kinh Châu, lui về Ba Thục, dụ dỗ cướp nước của Lưu Chương, giả liên minh với quân Ngô, cùng khổ giữ đất Kỳ Sơn, tiếm quyền ở những nơi xa xôi… đó là kế sách của những kẻ hèn mọn.

"Nhân giả, nghĩa cũng giả theo”

Con người có thất tình lục dục, khóc và cười vốn đối lập. Từ khi con người oa oa chào đời, âm thanh đầu tiên mang đến thế giới là "tiếng khóc”, tới khi con người đi hết cõi đời, âm thanh cuối cùng lưu lại dương gian cũng là "tiếng khóc”. "Khóc”, trên thực tế là một bản năng của con người. Khi buồn thương khóc, khi vui sướng cũng khóc. Khóc đã trở thành cách biểu hiện tình cảm nội tâm,

Khóc, thuở bé không phân biệt giới tính, bé trai bé gái đều có thể khóc bất cứ lúc nào, đến khi thành niên, khóc dường như trở thành độc quyền của nữ giới, đàn ông thì nhất định "có nước mắt nhưng không dễ để rơi”, phụ nữ khóc lại là "cành hoa lê mùa xuân điểm chút mưa”.

Khi đã thành gia thất, đàn ông có chuyện bực bội, cùng lắm chỉ có thể đạp cửa mà đi, uống say xỉn rồi về. Nhưng tuyệt đối không thể để rơi nước mắt đau khổ. Phụ nữ thì lặng lẽ rớt nước mắt, âm thầm sầu não. Thảo nào có người nói: trẻ con dùng nước mắt để đối phó với người lớn, phụ nữ lấy nước mắt để đối phó với đàn ông, còn đàn ông thì sao? Chỉ có thể dùng nước mắt để đối phó với thế giới! Trong tiếng khóc, họ giải toả áp lực, thách thức số phận.

Chuyện thiên hạ đâu chỉ "luận bàn" qua tiệc rượu!

Khóc và cười là một cặp biểu tượng tình cảm đối lập. Con người có thể khóc khi vui sướng, cũng có thể cười khi đau đớn. Tào Tháo gặp khó khăn cũng có khóc và cười. Chiến bại Xích Bích là giao lộ của tính mệnh. Nhưng tác giả không tập trung miêu tả vào mưu kế để thoát thân mà lại tập trung miêu tả ba lần họ Tào cười lớn trên đường tháo chạy.

Lần thứ nhất, ở "phía tây Ô Lâm”, Tào Tháo ngồi trên ngựa "ngửa mặt cười không dứt”, Tào nói; "Ta không cười người khác, chỉ cười Chu Du vô mưu, Gia Cát Lượng thiểu trí. Nếu là lúc ta dụng binh, ta sẽ cho một đội quân mai phục ở đây, như thế chẳng hơn ư?” Nói chưa dứt, Triệu Tử Long đột nhiên xông ra, khiến cho sự đắc chí của Tào Tháo phải nhanh chóng "hạ mã uy”.

Lần thứ hai, ở "Hồ Lô khẩu”, Tào Tháo ngồi dưới một khu rừng thưa, ngửa mặt cười lớn, lại chê Gia Cát Lượng, Chu Du trí mưu chưa đủ, kết quả là Trương Dực Đức xuất hiện làm cho ông ta hồn xiêu phách tán. Không chỉ tổn thất nghiêm trọng, đến cả ngựa xe, quân lương cũng bị cướp.

Lần thứ ba, trên "đường nhỏ Hoa Dung”, Tào Tháo lại cười Gia Cát Lượng, Chu Du là "loại vô năng”. Đang cười thì Vân Trường cầm đao đứng sừng sững trước mặt, ông ta cười không thành tiếng, chỉ còn biết cúi đầu cầu xin tha mạng.

"Ba lần cười” này trong tiểu thuyết có thể nói là tuyệt bút. Tuy có thể thấy Gia Cát Lượng dụng binh vô cùng kỳ diệu, nhưng Tào Tháo so với những người khác cũng rất đáng nể vì. Thân lâm cảnh hiểm, vẫn có thể cười, chế giễu đối thủ của mình thiếu trí tuệ cơ mưu. Nếu là người khác, chỉ e chạy thoát thân còn chẳng kịp, huống hồ trong những trường hợp như vậy. Đặc biệt là ba lần cười của ông ta, càng khiến cho người ta vỗ bàn mà khen là tuyệt bút. Quân ít ngựa thiếu, bản thân không còn lực để tiếp tục chiến đấu mà Quan Vũ thần dũng vô song, chém Nhan Lương, giết Văn Sú nếu như dùng biện pháp cứng rắn thì hung nhiều hơn cát.

Tục ngữ nói, kẻ thức thời mới là tuấn kiệt. Đến bước đường cùng, Tào Tháo đã dùng tình nghĩa để làm mềm lòng Quan Vũ, cầu xin được mở cho một con đường sống. Bởi vì ông ta trong quá khứ đã từng có ân với Quan Vũ mà Quan Vũ lại là con người lấy "nghĩa” làm đầu. Cuối cùng Tào Tháo đã tự mình hóa giải nguy nan. Có thể khuất phục được nhân tài ấy chính là đại trượng phu, cách xử sự với mọi người của Tào Tháo thể hiện điều đó.

Trong cuộc sống có khoái lạc, cũng có đau thương, bất tất phải cố ý tu sức cho bản thân mình. Chỉ cần dùng chân tâm, chân tính, chân cảm của bản thân thì có thể đối diện với cuộc sống, lớn tiếng mà khóc, lớn tiếng mà cười. Dùng cái chân tình biểu hiện cho chính mình, ấy mới có thể xem như là một con người…

Đối lập với cái gian hùng của Tào Tháo là cái "kiêu hùng” của Lưu Bị, cũng có cách xử lý mà không người nào làm được, ông ta dùng nước mắt để tranh thiên hạ. Lưu Bị thích khóc đến nổi tiếng.

Lưu Bị dưới sự trợ giúp của Từ Nguyên Trực, đóng quân Tân Dã, chiêu binh mãi mã, tích trữ lương thảo, khí tượng ngày một thịnh. Nhưng Tào Tháo đã bắt chước bút tích của Từ Mẫu đưa cho Nguyên Trực, khiến cho ông ta phải rời bỏ Lưu Bị. Lưu Bị khóc rằng: "Nguyên Trực đi rồi, ta sẽ không biết làm thế nào?”, rồi ngưng nước mắt mà ngóng theo. Từ Thứ vì điều này mà tâm tư nhiễu loạn, nước mắt lưng tròng, khi sang phía Tào Tháo từ đầu chí cuối không đưa ra một kế sách nào.

Lưu Bị ba lần đến lều cỏ, gặp phải lời từ chối khéo của Khổng Minh, khóc rằng: "Tiên sinh không xuất sơn, thiên hạ sẽ sống như thế nào?”. Lưu Bị nói đi nói lại, càng động đến tâm sự sâu kín, tâm tư trăm mối, lúc đó "nước mắt thấm ra tay áo, làm ướt hết cả vạt áo”.

Khi Lỗ Túc Đông Ngô đòi Kinh Châu, Lưu Bị lại khóc, dày vò những thủ hạ của Lỗ Túc không biết xử trí thế nào, cuối cùng không hoàn thành được nhiệm vụ.

Khi tin Quan Vũ bị sát hại truyền tới, Lưu Bị "thét lên một tiếng lớn, hôn mê ngã vật xuống đất”, lệ thấm ướt vạt áo, ba ngày không ăn. Biểu hiện huynh đệ tình thâm.

Lưu Bị từ đầu chí cuối đều dùng nước mắt để cảm động văn thần võ tướng, khóc để giành được một địa bàn lập nghiệp rồi cũng dùng khóc để có được vị trí vua đất Thục.

Là thủ hạ của một vị quân vương khóc rất nhiều, việc khóc của Gia Cát Lượng cũng rất có bản lĩnh. Chí ít việc khóc của ông ta cũng có thể cùng Lưu Bị tạo nên công trạng. Nhưng Lưu bị dù nói gì đi nữa, cũng có một chút vì quốc gia mà khóc. Còn việc khóc của Gia Cát Lượng cũng chỉ là kiểu mèo khóc chuột, mượn sự thương xót để giải hiềm nghi mà thôi.

Gia Cát Lượng đầu tiên là khóc Chu Du. Năm 36 tuổi, vị đô đốc thủy quân của Đông Ngô Chu Du đã bất hạnh tiêu vong, Gia Cát Lượng mang theo Triệu Tử Long và một số người khác nữa đến phúng viếng. Chỉ thấy Khổng Minh tới trước linh sàng Chu Du, bày lễ vật, tự rót rượu, đổ xuống đất rồi khóc lớn, vừa khóc vừa thuật lại Chu Du sinh thời anh hùng, văn tài võ lược, rộng lượng chí cao như thế nào, rồi giúp Tôn Quyền cát cứ Giang Đông, xây dựng sự nghiệp ra sao. Ông ta cực lực ca ngợi tấm lòng trung nghĩa, khí chất anh hùng của Chu Du. Đứng trước quan tài của Chu Du, ông đau đớn nói: "Hỡi ôi Công Cẩn, sinh tử vĩnh biệt!”. "Hồn phách có linh, xin chứng giám cho tấm lòng của tôi: từ đây trong thiên hạ, sẽ không tìm thấy đâu kẻ tri âm! Than ôi đau đớn thay!”. Ông ta nước mắt như suối, bi thương khóc lóc không dừng, thực là cảm động lòng người. Những người có mặt trong buổi hôm đó không ai là không bị nước mắt của ông ta làm cho cảm động, các tướng lĩnh không có ai không bị tình cảm của ông ta cảm hóa.

Gia Cát Lượng giống như đám tang mẹ, khóc lóc kêu gào. Các tướng lĩnh Đông Ngô đều bị tung hỏa mù. Họ nghĩ không ra rằng vì sao Chu Du chết. Không phải là người trước mắt họ, nói lời mà không giữ, chua ngoa cay nghiệt thì Chu Du đâu đã chết nhanh như vậy. Giờ đến đám tang khóc viếng, phân minh là không ai ăn hiếp Giang Đông cả, có ý muốn hạ thấp Chu Du, trình hiện trước thế nhân một giả tượng rằng: không phải là tôi, Gia Cát Lượng, thế này thế nọ mà là ông, Chu Du, nhỏ nhen, việc ông tức khí mà chết hoàn toàn không liên quan tới tôi. Ông xem ông chết mà tôi vẫn còn tới khóc viếng ông, ông phải nói tôi thật rộng lượng mới đúng! Đối với một người đã chết mà ông ta vẫn không từ bỏ, lòng dạ Gia Cát Lượng quả thật còn hơn lang sói.

Nghe nói loài cá khi ăn thực vật, có một loài có biểu hiện rất giống con người: chảy nước mắt. Loài cá quả thực là có biết chảy nước mắt, chỉ là chúng hoàn toàn khóc không phải vì thương tâm mà là do lượng muối dư thừa trong cơ thể nó bài tiết ra. Chức năng bài tiết của thận cá không được hoàn thiện như, trong cơ thể dư thừa quá nhiều muối, cần phải dựa vào một tuyến muối đặc thù để bài tiết. Tuyến muối trong cơ thể loài cá nằm rất gần vùng mắt của cá. Tuyến muối này có thể giúp loài cá tiêu giảm bớt lượng muối trong nước biển, từ đó mà nước biển nhạt đi. Vì thế, tuyến muối là dụng cụ làm nhạt nước biển của thiên nhiên.

Nước mắt của loài cá này hoàn toàn không phải là do tình cảm mà là một loại giả từ bi, giả thương tâm, giả cảm thông. Loại nước mắt này chỉ là một tuyến ở vùng phụ cận của mắt làm ra một trò đùa quái đản, chỉ cần khi cá ăn, loại tuyến phụ sinh bài tiết ra một loại dung dịch muối của tự nhiên. Trong cuộc sống loại ngụy quân tử giả từ bi này thật đáng mỉa mai!

Tiếng khóc "ghi dấu kinh điển” của Gia Cát Lượng chính là lần khóc chém Mã Tốc. Gia Cát Lượng ra Kì Sơn bắc phạt, ban đầu giành thắng lợi, giành được ba quận vùng Lũng Tây, thanh thế làm chấn động Ngụy quân. Đột nhiên có tin báo, Tư Mã Ý xuất quan, hành quân cấp tốc. Gia Cát Lượng liệu định chắc rằng Tư Mã Ý sẽ lấy Nhai Đình, chặn yết hầu của quân Thục. Vì thế muốn phái một thượng tướng danh tiếng đến trấn thủ ở Nhai Đình, không ngờ Mã Tốc muốn được nhận nhiệm vụ, cam kết "nếu như thất bại, chém đầu cả nhà”. Mã Tốc vốn là một thư sinh, bàn việc binh trên giấy còn khả dĩ, không hề có một chút kinh nghiệm thực chiến. Chỉ vì ông ta có sự giao hảo riêng với Gia Cát Lượng, lại là một nhân vật thuộc phái Kinh Tương. Chỉ vì cho ông ta một cơ hội kiến công lập nghiệp, Gia Cát Lượng đã không nghe lời mọi người mà đề bạt Mã Tốc. Kết quả, Mã Tốc sau khi tới Nhai Đình đã chống lệnh, không nghe lời can gián, lập trại ở trên núi, cuối cùng đã bị Tư Mã Ý trước chặn đường thủy, lại phóng hỏa đốt núi, tuy Thục quân mấy lần cứu viện nhưng rốt cục Nhai Đình vẫn mất.

Sau khi Nhai Đình thất thủ, Gia Cát Lượng phải sửa chữa cục diện thất bại của mình, thân là chủ tướng ông ta không thể đổ thừa trách nhiệm cho ai. Nhưng là một để bảo toàn danh dự cho bản thân, nên đã đem toàn bộ sai lầm trong cuộc chiến đó đẩy hết cho Mã Tốc, luôn miệng nói là thất bại Nhai Đình là một sự kiện trọng đại trong chiến tranh. Mẫ Tốc không cách gì đã trở thành vật hy sinh của ông ta. Gia Cát Lượng chém khi chém Mã Tốc có ba lần ông ta chảy nước mắt như loài cá.


Lần khóc thứ nhất là trách mắng sai lầm của Mã Tốc. Nói Nhai Đình là gốc của quân Thục, ngươi đã lấy sinh mạng cả gia đình để lĩnh trách nhiệm nặng nề đó, nay mất đất mất thành, tất sẽ bị xử chém. Lúc đó Mã Tốc cầu xin rằng sau khi giết chết ông ta có thể ban ân tha chết cho con ông ta, Gia Cát Lượng bị lời khẩn cầu của một người sắp chết làm cho cảm động, ông ta lập tức đáp ứng thỉnh cầu, đổng thời chảy nước mắt nói: "Ta và Nhữ Nghĩa [tên tự của Mã Tốc] là huynh đệ, con của ông cũng chính là con của ta, không cần dặn dò quá nhiều”. Ý là muốn Mã Tốc yên tâm mà đi.

Mã Tốc vốn có giao hảo với Gia Cát Lượng, nay vì lợi ích của bản thân, ông ta không thể không giết Mã Tốc. Giờ đối diện với đề xuất cuối cùng của một người cha cho con mình, lương tâm của ông ta cũng không hoàn toàn mất đi.

Lần thứ hai khóc là lần can gián của Tưởng Uyển. Trong cách nhìn của Tưởng Uyển: "Nay thiên hạ chưa định, mà giết người mưu trí, chẳng đáng tiếc lắm hay sao?”. Khổng Minh cũng biết rằng Mã Tốc cũng có chỗ khả dụng. Trước đây Mã Tốc đã vì Khổng Minh hiến kế hai lần và cả hai lần đều giành được thắng lợi lớn: Lần thứ nhất là bảy lần bắt Mạnh Hoạch, ông ta kiến nghị lấy công tâm làm đầu. Một lần khác là lợi dụng kế phản gián, gây xích mích trong quan hệ giữa Tào Duệ và Tư Mã Ý, kết quả là Tư Mã Ý bị biếm về quê. Gia Cát Lượng không phải không biết tài năng của Mã Tốc Mã Tốc không chết nhất định trở thành cánh tay đắc lực của ông ta, nhất định có thể giúp ông ta đối phó với một số người như Lý Nghiêm,… Nhưng ngày hôm nay nếu như không chết, rất có thể địa vị của ông ta trong tập đoàn Kinh Tương sẽ bị lung lay. Giết chết Mã Tốc cũng giống như chặt đứt một cánh tay của ông ta. Lúc đó nội tâm của ông ta cực kì phức tạp mâu thuẫn, làm sao ông ta không thương tâm cho được?

Lần thứ ba là sau khi nhìn thấy thủ cấp của Mã Tốc, Không Minh lại không nén nổi sự đau đớn nội tâm, khóc lớn không thôi. Lúc này Tưởng Uyển vẫn ngoan cường hỏi: "Nay kẻ ấu trĩ thường mắc tội, đã xử theo quân pháp, thừa tướng hà cớ gì phải khóc?”. Đây là lần đâu tiên Khổng Minh nghĩ tới thất bại do việc mình dùng người không đúng gây ra, và lại sai lầm này là không thể thông cảm được. Gia Cát Luợng từ sau khi Lưu Bị chết, gạt bỏ sự độc chiếm quyền bính của Lý Nghiêm, ….

Gia Cát Lượng khóc Chu Du, khóc Mã Tốc là giả nhân nghĩa lấy lòng người, vừa ăn cướp vừa la làng. Là một kẻ đầy mưu mẹo trên chính trường, ông ta rất giỏi vận dụng những biểu tượng để ngụy trang cho chính mình. Tào Tháo ba lần cười cũng có ba lần khóc. Ông ta khóc lần thứ nhất là khóc toàn gia đình mình bị Đào Khiêm giết chết, ai không thương cha thương mẹ, Tào Tháo khóc, có thể nói là khóc một cách thực tâm. Lần thứ hai khóc là khóc Điển Vi. Năm đó, Tào Tháo dẫn quân thảo phạt Trương Tú, bị trúng kế của Trương Tú, thân bị bao vây. Điển Vi sau khi mơ thấy cảnh đó, tỉnh dậy đã "ra sức hướng về hành quân”, đến chết cũng không lui, máu chảy đầy đất mà chết nhờ thế mà Tào Tháo thoát hiểm. Tào Tháo sau khi chỉnh đốn quân đội, đánh lui Trương Tú, lập tức làm lễ tế Điển Vi, tự thân mình khóc tế ông ta. Hai năm sau, Tào Tháo lại dẫn quân tới Uyển Thành tấn công Trương Tú, Tào Tháo đột nhiên khóc lớn, còn nói, ta từng đau đớn mất con trưởng, cháu yêu, nhưng ta chỉ khóc đại tướng Điển Vi của ta. Đây cũng là lần Tào Tháo khóc để lấy lòng người. Lần thứ ba khóc là khóc Quách Gia sau thất bại trong trận Xích Bích, "Nếu có Phụng Hiếu ở đây, ta đã không cô độc đến thế này”. Lần khóc này là để che đậy cho sai lầm của bản thân mình cũng là trách mắng bọn mưu sĩ vô năng, đương nhiên ông ta không quên rẳng Tuân Húc từng nhắc nhở ông ta về kế trá hàng, kế liên hoàn của Đông Ngô và cả chuyện gió Đông nữa nhưng là do Tào Tháo không nghe. Lần khóc này là sự che đây ngụy trang cho sai lầm của bản thân ông ta mà cũng là bộc lộ sự gian xảo giả dối của ông ta.

Tập Tạp Xỉ bình Gia Cát Lượng nói: "Vì thiên hạ chủ trì đại cục, muốn đại thu lực vật mà không lượng tài năng mà nhậm trọng trách, theo tài phó nghiệp; biết đó là một lỗi nặng, không tuân sự nhắc nhở của minh chủ, giết người hữu ích, thật khó mà gọi là người có trí được vậy”. Tập Tạp Xỉ cho rằng Gia Cát Lượng không đủ để gọi là người có trí nhưng ông ta không nhìn thấy rằng tuy Gia Cát Lượng tuy không phải là người có trí nhưng mà ông ta là bậc có mưu. Chỉ nhìn mấy lần ông ta dùng nước mắt để tạo ra cái thanh danh hiền thần hiếu tử cũng có thể thấy là đã đạt tới đỉnh cao của kẻ giết người không dao.

Trên thế giới vốn không có hận thù vô duyên vô cớ, cũng không có tình yêu vô duyên vô cớ. Là một con người có thất tình lục dục, phải sống trên trên cõi hồng trần tục thế, không cách nào thoát khỏi những hỷ nộ ai lạc do cuộc sống mang lại. Trong cuộc sống có khoái lạc, cũng có đau thương, bất tất phải cố ý tu sức cho bản thân mình chỉ cần dùng chân tâm, chân tính, chân cảm của bản thân thì có thể đối diện với cuộc sống, lớn tiếng mà khóc, lớn tiếng mà cười. Dùng cái chân tình biểu hiện cho chính mình, ấy mới có thể xem như là một con người.

Page 13

Điêu Thuyền

Vương Chiêu Quân, Tây Thi, Dương Quý Phi, Điêu Thuyền là tứ đại mỹ nhân của Trung Quốc, đều xếp vào hàng những thiên cổ giai nhân. Nhưng cuộc đời của những người đàn bà này vì đẹp nên có lắm hoạn nạn truân chuyên, và người ta thường đổ lỗi cho đó là « hồng nhan bạc mệnh 紅 顏 薄 命».

Riêng Điêu Thuyền, chẳng những được truyền tụng trong dân gian là người đàn bà có nhan sắc làm cho « mây mờ trăng lặn», mà còn được coi là một kỳ nữ thông minh, mưu lược làm điên đảo các anh hùng hào kiệt thời Tam Quốc, cả về sắc lẫn tài, như lời bình luận gia văn học Mao Tôn Cương, người thời Minh mạt

Thanh sơ từng nhận xét, nguyên văn :

十八 路 諸 侯 不能 殺 董 卓, 而 一 貂 蟬 足 以 殺 之, 劉 關 張 三 人, 不 能 勝 呂 布, 而 貂 蟬 一 女 子 能 勝 之, 以 衽 席 為 戰 場, 以 脂 粉 為 甲 胄, 以 盼 睞 為 戈 矛, 以 嚬 笑 為 弓 矢, 以 甘 言 卑 詞 為 運 奇 設 伏, 女 將 軍 真 可 畏 哉.

[Thập bát lộ chư hầu bất năng sát Đổng Trác, nhi nhất Điêu Thuyền túc dĩ sát chi, Lưu Quan Trương tam nhân bất năng thắng Lã Bố, nhi Điêu Thuyền nhất nữ tử năng thắng chi, dĩ nhẫm tịch vi chiến trường, dĩ chỉ phấn vi giáp trụ, dĩ phán lãi vi qua mâu, dĩ tần tiếu vi cung thỉ, dĩ cam ngôn ti từ vi vận kỳ thiết phục, nữ tướng quân chân khả uý tai !

-Dịch nghĩa : Mười tám lộ chư hầu, không giết nổi Đổng Trác. Chỉ một mình Điêu Thuyền giết nổi. Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi, không thắng nổi Lã Bố. Chỉ một mình Điêu Thuyền thắng nổi Lã Bố. Dùng chiếu giường làm chiến trường, dùng son phấn làm giáp trụ, dùng khoé mắt làm đao kiếm, lấy cái chau mày và nụ cười làm cung tiễn, dùng lời ngon ngọt nhỏ nhẹ mà bố trận, bầy binh, tướng quân thị mẹt quả đáng sợ thật!] [từ ngữ « Tướng quân thị mẹt » này là chữ của học giả Phan Kế Bính dịch từ chữ Hán « nữ tướng quân 女將軍» mà ra]

Tuy thế, nhưng đến nay, vẫn còn tồn tại những nghi vấn, và một số câu hỏi chung quanh nhân vật này.

Điêu Thuyền có phải là một nhân vật lịch sử hay chỉ là một nhân vật truyền thuyết hư cấu ? Điêu Thuyền có phải là vợ của Lã Bố không ?

Trong bài này, người viết xin mạn phép ghi lại một số những truyền thuyết về nhân vật này. Mà nhắc đến Điêu Thuyền, người ta không thể không nhắc đến thời kỳ Tam Quốc, bối cảnh lịch sử trong đó Điêu Thuyền được xuất hiện.

1-Cục diệnTam Quốc.

« Thời Tam Quốc bên Tầu nước ta có bà Triệu Ẩu ».

Đó là kiến thức sử học lớp đồng ấu được giữ lại trong trí nhớ của người viết khi còn nhỏ, về thời Tam Quốc và về nữ anh hùng ái quốc họ Triệu nổi lên chống laị sự đô hộ của Tôn Quyền ở Đông Ngô. Rồi lớn hơn một chút, khi đọc Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, người viết cũng như những người bạn đồng trang lứa, đọc Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa chỉ vì say mê muốn biết những nhân vật trong truyện, xem họ đánh nhau như thế nào, ai thắng ai thua, chứ chưa hoàn toàn chưa hiểu Tam Quốc là thời đại nào.

Thật ra Tam Quốc, theo sự phân định của các nhà sử học Trung Quốc, thì đó là thời kỳ bắt đầu từ năm 220 CN khi Tào Phi phế Hán Hiến Đế lên thay nhà Hán, thiết lập nước Ngụy [sử gọi là Tào Ngụy].

-Sau đó vào năm 221 CN, Lưu Bị xưng đế thành lập nước Hán [sử gọi là Thục Hán. ]

-Và năm 222 CN, Ngô Quyền xưng Ngô Vương, kiến lập nước Ngô [sử gọi là Tôn Ngô], tạo nên thế chân vac, Tam Quốc đỉnh lập. Năm 263 CN, nhà Tào Ngụy diệt nhà Thục Hán, trải 2 đời vua, tổng cộng 43 năm. Năm 265 CN, họ Tư Mã đọat ngôi nhà Tào Ngụy lập nên nhà Tây Tấn, chấm dứt thế chân vạc. Nhà Nguỵ trải năm đời vua, tổng cộng 46 năm.

-Năm 280 CN, nhà Tây Tấn diệt Ngô, thống nhất toàn quốc, kết thúc thời kỳ lịch sử Tam Quốc, tổng cộng 61 năm. Nhà Ngô trải qua 4 đời vua, tổng cộng 59 năm. Tính theo sự phân kỳ của các sử gia Trung Quốc. Nhưng trên thực tế, từ khi Giặc Khăn Vàng nổi lên vào năm 184 CN, thì nhà Đông Hán chỉ tồn tại trên danh nghĩa, toàn quốc bị lâm vào tình trạng quân phiệt cát cứ, đánh chiếm lẫn nhau. Đây chính là thời kỳ Tam Quốc được manh nha hình thành.

Trần Thọ, một sử học gia thời Tây Tấn, khi viết "Tam Quốc Chí", cũng ghi chép phần lớn những truyện các quân phiệt cát cứ, đánh chiếm lẫn nhau này vào sách của ông. Từ năm Trung Bình lục niên, tức năm 189 CN, Hán Linh Đế mất, Đổng Trác phế Thiếu Đế và lập Hiến Đế tỏ ra chuyên quyền tàn ác.

Năm 190, các châu quận ỏ Quan Đông tức các vùng đất phía đông Hàm Cốc Quan như Hà Nam, Sơn Đông, và mười tám lộ chư hầu nổi lên bầu Viên Thiệu làm minh chủ để thảo phạt Trác.

Đến năm 200 CN, xẩy ra trận chiến Quan Độ, Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu, dần dần thống nhất miền bắc. Năm 208 CN, Tào Tháo âm mưu thôn tính các thế lực quân phiệt cát cứ ở miền nam là Lưu Biểu, Tôn Quyền, Lưu Bị, nổ ra cuộc đại chiến Xích Bích. Hai thế lực nhỏ bé Tôn Quyền, Lưu Bị, bèn liên minh với nhau đánh bại được đại quân của Tào Tháo.

Sau khi thua trận Xích Bích, Tào Tháo rút quân về miền bắc, thanh toán các thế lực quân phiệt cát cứ Hàn Toại và Mã Siêu, thống nhất được lưu vực phía bắc sông Hoàng Hà. Còn Tôn Quyền thì phát triển thế lực của mình từ hạ du sông Trường Giang, đến địa khu Kinh Châu nằm ở trung du sông Trường Giang, đồng thời thôn tính Giao Châu của nước ta ở Lĩnh Nam. Riêng về Lưu Bị, sau trận chiến Xích Bích, chiếm được bốn quận ở nam bộ Kinh Châu, làm cơ sở dựng nước, rồi mở rộng thế lực đến Ích Châu, thôn tính đất đai của Lưu Chương.

Đến đây, cơ bản cục diện của thế chân vạc Tam Quốc được thành hình.

Đối với lich sử Trung Quốc, từ sau sự thống nhất của nhà Tần, Tam Quốc đánh dấu một thời kỳ phân liệt Một cuộc phân tranh nam bắc, đối kháng giữa hai lực lượng chính trị thuộc lưu vực sông Trường Giang và lưu vực sông Hoàng Hà.

Vì cuộc chiến tranh kéo dài liên miên, khiến cho kinh tế và xã hội bị phá họai nghiêm trọng. Nhưng sau khi các chính quyền Ngụy, Ngô, Thục, được thành lập, cũng có khá nhiều công tác kinh tế đuợc mở mang. Nói một cách khác, thời kỳ phân liệt Tam Quốc có cả hai mặt tiêu cực lẫn mặt tích cực. Chẳng hạn như nhà Ngụy mở mang đồn điền, xây dựng thủy lợi, khiến cho kinh tế bị phá họai ở vùng sông Hoàng Hà được khôi phục lại, các lưu dân không có nhà ở được định cư. Nhà Ngô thì mở mang và phát triển phía trung và hạ du sông Trường Giang. Còn nhà Thục Hán thì có nhiều công tác khai phá vùng tây nam Trung Quốc.

Nói đến Tam Quốc, cũng không thể không nhắc đến tác phẩm văn học Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa. Một tác phẩm văn học được xưng tụng là “đệ nhất tài tử thư”, đã được dịch ra nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Nhật, Đức, Nga, Ý, Ba Lan, Ấn Độ, Mã Lai, Nam Dương, Cao Ly, Lào, Thái Lan.

Và ở Việt Nam, từ năm 1889 đến 1907, chúng ta có 21 loại cố sự kịch bản liên quan đến Tam Quốc Diễn Nghĩa và 7 bản dịch khác nhau, qua nhiều người dịch khác nhau, kể cả một bản dịch chữ nôm viết tay trên giấy đó vào năm 1918, hiện được giữ gìn bảo quản tại thư viện trường Viễn Đông Bác Cổ ở Paris. Như vậy, chứng tỏ một điều là truyện “Tam Quốc diễn nghĩa” nói riêng và truyện “Tầu” nói chung, cũng đã có một thời hấp dẫn và làm say mê thế hệ cha anh chúng ta, chẳng khác gì như chúng ta cũng có một thời say mê các truyện “chưởng” của Kim Dung, Cổ Long ở Sài Gòn trước 1975 vậy.

2-Tam Quốc Diễn Nghĩa.

Trường biên lịch sử tiểu thuyết này nguyên toàn danh xưng là « Tam Quốc Chí Thông Tục Diễn Nghĩa », hoặc Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa. Cuốn tiểu thuyết này do La Quán Trung soạn vaò thời Minh Mạt Thanh Sơ. La Quán Trung đã căn cứ vào sách chính sử “Tam Quốc Chí” của Trần Thọ đờì Tây Tấn và do Bùi Tòng Chi chú, sách “Tam Quốc Chí Bình Thoại” đời Nguyên, và nhiều truyền thuyết, nhiều giai thoại trong dân gian, rồi tổng hợp, tu cải, chỉnh lý mà viết thành.

Tam Quốc Chí Diễn Nghiã có nhiều khắc bản khác nhau, mà bản lưu hành nổi tiếng hiện nay là bản do Mao Tôn Cương hiệu đính, gia công và phê bình rồi cho khắc in, thường gọi là « Mao bản » để phân biệt với các khắc bản khác. Bản này có sáu quyển gồm một trăm hai chục hồi.

Cố sự bắt đầu từ truyện Lưu Bị, Quan Vũ, và Trương Phi kết nghĩa vườn đào, đến Vương Tuấn bình Ngô, trải qua hơn một nửa thế kỷ. Tác giảc đã vẽ lại cho người đọc thấy rõ những cuộc đấu tranh quân sự giữa các sứ quân và tình hình chính trị phức tạp của thời kỳ Hán Mạt và Tam Quốc, đồng thời, thành công khắc hoạ ra được hàng loạt những nhân vật mang những hình tượng điển hình, rõ rệt như Tào Tháo, Gia Cát Lượng, QuanVũ, Trương Phi Tác phẩm có nhiều chương, tiết rất sống động, bóng bẩy. Như“Lưu, Quan, Trương Tam Anh chiến Lã Bố” “Tam cố thảo lư”, “Xích Bích chiến”. Toàn truyện có rất nhiều chi tiết khúc triết, kết cấu hoằng đại, nhưng bố cục rỏ ràng, mạch lạc, được vinh dự coi là “Đệ nhất tài tử thư”.

Truyện có cả thẩy 1191 nhân vật có danh có tính, chia ra:

- 436 võ tướng

-456 văn quan

-128 nhân vật là tôn thất, hoạn quan, cung phi.

-67 người thuộc các sắc tộc ngoài biên, như Tiên Ty, Khương.

-109 nhân vật thuộc các tam giáo cửu lưu.

Chủ đề của Tam Quốc Diễn Nghĩa lấy tư tưởng chính thống “tôn Lưu biếm Tào “, và coi cuộc nổi dậy Hoàng Cân là làm lọan, làm giặc, lấy trung hiếu tiết nghĩa làm tiêu chuẩn, và coi thuyết "Thiên hạ qui nhất", "hợp cửu tất phân, phân cửu tất hợp" là su thế tất nhiên của qui luật phát triển lịch sử. Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung có nhiều nhân vật như vậy, nhưng nhân vật nữ thì thật là hiếm hoi lác lác, có thể đếm trên mười đầu ngón tay, trong đó Điêu Thuyền được thuật laị một cách rất tinh tế, có thanh có sắc.

Lúc bấy giờ Đổng Trác, sau khi đem binh vào Lạc Dương, phế Thiếu Đế, lập Hiến Đế, rồi phóng hoả đốt cung thất, ép Hiến Đế dời về Trường An, tự lập làm Thái Sư, chuyên hoành bạo ngược, bị Tào Tháo hành thích, nhưng không thành. Sau việc Tháo hành thích Trác không thành, phải bỏ trốn đến Trần Lưu lo việc chống laị Trác. Rồ sau đó, mười tám lộ chư hầu, với hai ba chục vạn tướng sĩ, quân binh họp nhau thảo phạt Trác không thành. Lưu Bị, Quan Vân Trương, Trương Phi đánh nhau với Lã Bố, con nuôi của Trác, ở Hổ Lao Quan, tục gọi là “Tam anh chiến Lã Bố”, nhưng cũng không thắng nổi Bố. Anh hùng nam tử trong thiên hạ lúc đó đều bó tay không ai đủ sức giết Trác. Duy chỉ mình Điêu Thuyền, một người con gái 16 tuổi, không quản ngại nguy hiểm đến tính mệnh của mình, thâm nhập hổ huyệt, suy tính mưu kế, không dùng can qua mà hạ được Trác, cứu vãn được giang sơn nhà Hán đang ở cái thế mành treo sợi chỉ.

Nhưng cho đến nay, chung quanh chân tướng, diện mục, thân thế, và chung cuộc, của người con gái này vẫn còn ít nhiều mơ hồ mà các nhà nghiên cứu, cùng các sử gia Trung Quốc vẫn còn bàn cãi, chưa có kết luận.

A-Điêu Thuyền, Vương Doãn, Đổng Trác, và Lã Bố

Theo sử tịch, Vương Doãn là đại thần nhà Đông Hán. Doãn sinh năm 137 là người Kỳ Huyện, quận Thái Nguyên [nay thuộc tỉnh Sơn Tây], tự là Tử Sư. Lúc nhỏ có chí lớn, từng được Qúach Thái khen là kỳ tài. Năm 19 tuổi là thuộc lại ở trong quận, từng bắt và giết tên tiểu hoàng môn Triệu Tân, người trong phe bọn hoạn quan. Thời Hán Linh Đế, giữ chức Thứ Sử Dự Châu, trấn áp giặc Khăn Vàng. Hán Linh Đế qua đời, Vương Doãn bôn tang về kinh sư. Bấy giờ, Đại Tướng Quân Hà Tiến tính diệt trừ bọn hoạn quan, nên mưu với Vương Doãn, bổ Doãn làm Trung Lang chuyển sang làm lệnh doãn Hà Nam. Khi Hán Hiến Đế tức vị, Doãn được bổ làm Tư Đồ thay Dương Bưu. Và thường gọi là Vương Tư Đồ.

Tư Đồ nguyên là danh xưng của một chức quan, được thiết lập từ thời Tây Chu, trông coi việc trị dân, nắm giữ hộ khẩu, điền tịch, cùng thâu nạp thuế khoá. Đến nhà Tần, bãi bỏ chức Tư Đồ, và đổi là Thừa Tướng. Đến đời Hán Ai Đế laị đổi Thừa Tướng là Đại Tư Đồ. Khi Hán Hiến Đế tức vị, thì bỏ chữ « Đaị » chỉ còn Tư Đồ, là một trong Tam Công, chuyên về giáo dục.

Năm Thiệu Ninh nguyên niên, tức năm 189, Đổng Trác phế Hán Thiếu Đế Lưu Biện làm Hoằng Nông Vương, lập Trần Lưu Vương Lưu Hiệp lên làm vua, tức Hán Hiến Đế. Rồi giết Hà Thái Hậu. Tháng giếng năm sau, tức năm 190 Trác sai Lang Trung Lệnh Lý Nho đánh thuốc độc giết Hoằng Nông Vương Lưu Hiệp.

Tháng tư năm Sơ Bình nhị niên, tức năm 191, Đổng Trác về đến Trường An, bấy giờ Trác đã được phong làm Thái Sư, tước ở trên các chư hầu vương. Trác dùng em mình là Đổng Mân làm Tả Tướng Quân, cháu là Đổng Hoàng làm Trung Quân Hiệu Uý để nắm giữ quân quyền. Các tông tộc của Trác đều được ra làm quan. Ngay như một đứa nhỏ còn nằm trong tã cũng được phong hầu. Trác còn dùng 25 vạn dân phu cho tu sửa My Ổ cách Trường An 260 dặm. Thành quách cao thấp, dầy mỏng như thành Trường An, đặt tên là Vạn Tuế Thành. Bên trong tích tụ kim ngân, châu báu, và thóc lúa có thể dùng trong hai chục năm. Gia thuộc đều trú ngụ ở trong đó. Trác còn truyển lựa trong dân gian hơn tám trăm thiếu niên mỹ nữ đem vào đó. Trác vãng lai đi lại Trường An, hoặc nửa tháng một lần, hoặc một tháng một lần. Công khanh đại thần phải ra tận cửa Hoành Môn để đưa tiễn Trác. Một lần, có mấy trăm lính người Bắc Địa đên xin hàng. Trác lập tức ra lệnh giết ngay trước tiệc. Hoặc chật chân chặt tay. Hoặc bị khoét mắt, đục tai. Hoặc bỏ vào vạc dầu. Tiếng kêu la thảm khốc, chấn động một góc trời. Các quan thì ai nấy đều sợ rét run, còn Trác vẫn tự như cười nói đánh chén Bộ hạ có ai hơi làm phật ý, thì giết ngay tại chỗ. Pháp lệnh lại hết sức hà khắc. Phàm bách tính, quan lại, làm con bất hiếu, làm em không hoà thuận, làm thần tử bất trung, làm lại không thanh liêm, ngoài tội tử hình còn tịch thâu tài vật. Dân chúng trăm họ vị vu cáo chết oán vì pháp lệnnh của Trác nhiều vô kể.

Nhưng chính Trác lại làm nhiều điều bất nghĩa. Trác biết như vậy, nên sợ người bị ám sát. Mỗi lần ngoại xuất, và ngay tại trong nhà, thường dùng Lã Bố hộ vệ. Bố là người dũng mãnh, sức khỏe hơn người, được Trác, coi là nghĩa tử. Nhưng Trác là người nóng nẩy, thô bạo. Hơi bất như ý là nổi giận, không dằn được. Doãn thấy Đổng Trác chẳng những hagnh vi tham tàn bạo ngược, tàn nhẫn như vậy, lại có ý muốn soán đọat ngôi nhà Hán, Doãn bèn âm thầm tìm mưu để giết Đổng Trác. Nhưng trở ngại lớn chính là viên tướng dũng mãnh của Đổng Trác là Lã Bố, không có người địch nổi. Cuối cùng, để đạt mục đích, Doãn quyết định dùng Điêu Thuyền làm mỹ nhân kế để ly gián Trác với Lã Bố, và mượn tay Lã Bố để giết Đổng Trác.

Dưới đây, là một đoạn văn rất cảm động, thuật việc Vương Doãn vì lòng ái quốc, hạ mình cầu Điêu Thuyền giúp mình thi hành mỹ nhân kế, người viết xin trích dịch một đoạn :

“Một hôm Vương Doãn từ triều về, lòng bồn chồn đứng ngồi không yên. Đến tối, trời khuya trăng sáng, Vương Doãn một mình chống gậy tản bộ ra hậu viên, đứng dựa bên dàn hoa Trà Mi, ngửa mặt nhìn trời mà rơi lệ. Thình lình? Vương Doãn nghe có tiếng người thút thít thở dài từ phía đình Mẫu Đơn vọng lại. Vương Doãn bèn lén gót theo dõi. Té ra Điêu Thuyền, con hát ở trong phủ. Điêu Thuyền từ bé được đưa vào trong phủ của Vương Doãn, dậy bảo ca múa, tuổi vừa hai tám, sắc tài trọn vẹn, được Vương Doãn thương như con đẻ.

Vương Doãn đứng nghe một hồi lâu, rồi lớn tiếng mắng :

-Con tiện tỳ này có tư tình phải không ?

Điêu Thuyền sợ hãi quỳ xuống thưa:

-Tiện thiếp nào dám có tư tình gì.

Vương Doãn nói:

-Không có tư tình, sao đêm khuya thanh vắng lại ra đây mà than khóc ?

Điêu Thuyền nói:

-Xin đại nhân cho thiếp được rãi bầy gan ruột

Vương Doãn nói :

-Ngươi không được dấu, phải nói rõ cho ta biết !

Điêu Thuyền thưa

-Thiếp đội ơn đại nhân nuôi dưỡng, lại dậy nghề ca mua, thương yêu như con ruột, thiếp dù có tan xương nát thịt, cũng chẳng báo được muôn một. Ít ngày gần đây, thiếp thấy đại nhân âu sầu buồn bã, hẳn là truỵên về quốc gia đại sự, thiếp không dám hỏi. Đêm nay thấy đại nhân đứng ngồi không yên, thiếp vì thế cũng buồn rầu mà thở dài, chẳng ngờ bị đại nhân bắt gặp. Vậy nếu thiếp có thể giúp đại nhân việc gì để báo đáp ân sâu, dù có vạn tử, thiếp quyết không từ chối.

Vương Doãn đập cây gậy xuống đất, tỏ vẻ mừng rỡ nói:

-Ai ngờ cơ đồ nhà Đại Hán lại nằm ở trong tay con bé này ! Con hãy theo ta vào trong thư các.

Điêu Thuyền theo Vương Doãn vào trong thư các. Vương Doãn đuổi hết bọn tỳ nữ ra ngoài. Rồi mời Điêu Thuyền ngồi lên ghế, chắp tay khấu đầu vái lạy Điêu Thuyền.

Điêu Thuyền sợ hãi phủ phũ xuống đất thưa :

-Đại nhân cớ sao lại làm như vậy ?

Vương Doãn nói :

-Xin con hãy thương lấy sinh linh thiên hạ nhà Đại Hán !

Nói xong nước mắt trào ra như suối chảy :

Điêu Thuyền thưa :

-Tiện thiếp vừa rồi mới thưa, đại nhân có việc sai bảo, dù có vạn tử thiếp cũng không chối từ.

Vương Doãn lại quỳ xuống đất mà nói:

-Ngày nay trăm họ gặp nạn treo ngược như đi trên dốc. Quần thần nguy cấp như trứng nằm dưới đá. Không có con thì không ai cứu được. Tên giặc Đổng Trác đang muốn cướp ngôi. Văn võ trong triều không ai tìm được kế sách nào chống cự. Giặc Trác lại có thằng con nuối là Lã Bố, kiêu dũng dị thường. Ta thấy cha con nó đều là phường háo sắc. Nay muốn dùng kế liên hoàn. Trước đem con gả cho Lã Bố, sau lại hiến con cho Đổng Trác. Khi con vào phủ, hãy tuỳ nghi lập kế ly gián cha con chúng nó, khiến cho Lã Bố giết Đổng Trác, mới trừ được ác lớn. Việc phò dựng xã tắc, tái lập giang sơn, đều trông cậy vào sức của con. Chẳng hay ý con thế nào ?

Điêu Thuyền nói :

-Thiếp xin hứa với đại nhân, dù có vạn tử cũng không chối từ. Xin hãy đem thiếp mà hiến cho chúng ngay đi; thiếp sẽ tự có chủ kiến.

Vương Doãn lại nói :

-Con nên bảo mật, việc như tiết lộ, thì dòng họ ta sẽ bị diệt tộc.

Điêu Thuyền thưa :

-Xin đại nhân đừng bận lòng. Thiếp như không báo được đại nghĩa, thì xin chết dưới muôn vạn lưỡi đao.

Vương Doãn lạy tạ.

[Trích dịch từ Tam Quốc Diễn Nghĩa hồi thứ tám của La Quán Trung-Nhà xuẩt bản Minh Lương ở Hồng Kông ấn hành]

Sau đó, Điêu Thuyền được đưa vào phủ của Trác. Nàng bèn đem mày ngàì, mắt phụng, nụ cười, nét nhăn, mặt hoa da phấn, cùng với trí thông minh ưu việt của mình để ly gián Đổng Trác và Lã Bố, khiến cho Đổng Trác phải nổi cơn ghen, say máu vác kích đuổi theo Lã Bố để giết, làm náo loạn Phụng Nghi Đình. Cuối cùng đạt được mục đích của kế hoạch liên hoàn do Vương Doãn đề ra là :

Đổng Trác phải bị Lã Bố giết.

Còn Bố sau khi giết Trác thì đến ngay Mi Ổ, trước hết tìm Điêu Thuyền giữ lấy cho mình. Mục đích của Bố là chỉ có vậy.

Theo Lương Chương Cự, một sử gia đời Thanh, từng có nhận định cho rằng Vương Doãn hiến Điêu Thuyền cho Đổng Trác trong Tam Quốc Diễn Nghĩa để làm kế liên hoàn của La Qúan Trung, là không có thật trong chính sử. Và Điêu Thuyền nữa chỉ là một hình tượng văn học, do các tiểu thuyết gia, các nhà soạn kịch, đời sau tạo dựng ra.

Các sử thư chỉ ghi nhận là Vương Doãn có âm mưu với viên quan Tư Lệ Hiệu Uý Hoàng Uyển, Bộc Xạ Sĩ Tôn Thuỵ và Lã Bố để giết Trác như sau :

“Trác từng vì tiểu sự bất mãn đối với Lã Bố và rút kích ra để ném Lã Bố. Lã Bố nhờ quyền cước nhanh nhẹn nên tránh thoát, rồi quay người lại tạ tội với Trác. Nhờ thế Trác cũng nguôi giận. Nhưng Lã Bố từ đấy trong lòng ngấm ngầm oán hận Trác. Trác thường sai Bố bảo vệ các tì thiếp ở tiểu lâu. Lã Bố lợi dụng cơ hội liền tư thông với thị tì [hậu thế tương truyền là Điêu Thuyền], đâm ra lo sợ việc bị tiết lộ, trong lòng không yên.

Trước đó, quan Tư Đồ Vương Doãn, nhân là người đồng hương với Bố ở Tinh Châu, lại thấy Lã Bố là người dũng mãnh tráng kiện, nên dùng hậu lễ để tiếp nạp Lã Bố. Về sau đến nhà Vương Doãn, kể lại việc suýt bị Đỏng Trác giết. Lúc đó Vương Doãn đang cùng quan Bộc Xạ Tôn Sĩ Thuỵ âm mưu tìm kế hoạch để giết Trác, nên đem âm mưu đó nói cho Lã Bố biết, muốn Lã Bố làm nội ứng.

Nhưng Lã Bố bảo với Vương Doãn :

- Nhưng tôi với Trác từng nhận nhau là cha con, thì biết làm thế nào ?

Vương Doãn nói :

-Ông họ Lã, cùng với Đổng Trác làm gì có tinh cốt nhục. Khi Trác dùng kích ném ông, thì Trác có nghĩ đến tình phụ tử không ?

Lã Bố nghe thế, bèn nhận lời Vương Doãn ngay.

Sau này đích thân Lã Bố cầm đao đầm chết Trác ”

[Dịch theo bản Tam Quốc Chí của Trần Thọ-Nhà xuất bản Trung Ương Dân Tộc Học Viện]

Tam Quốc Chí của Trần Thọ cho thấy rõ ràng là Đổng Trác có một tỳ nữ, và Lã Bố trong lúc làm công việc canh gác tiểu lâu cho Đổng Trác, Lã Bố đã tư thông với người tỳ này, còn tên người tỳ nữ thì không đề cập đến. Và kết cuộc mối tư tình vụng trộm này giữa Lã Bố và người tì nữ đó ra làm sao, sử thư cũng hề đề cập đến.

Cùng với nhận định của sử gia Lương Chương Cự, sau này cũng có người cho rằng các tiểu thuyết gia, và các nhà soạn kịch đời Nguyên, nghĩa là sau Tam Quốc Chí của Trần Thọ cả chục thế kỷ, mới đem người tì nữ của Đổng Trác “diễn nghĩa” thành Điêu Thuyền, và biến Điêu Thuyền thành vợ Lã Bố.

-Theo sách “Tam Quốc Chí Bình Thoại” đời Nguyên thì Điêu Thuyền tự thuật về mình như sau :

“Tiện thiếp vốn họ Nhâm, tiểu tự là Điêu Thuyền, có chồng là Lã Bố, nhưng từ khi thất lạc ở phủ Lâm Thao, đến nay vẫn chưa gặp lại…. ”

-Còn theo tạp kịch “Cẩm Vân Đường Âm Định Liên Hoàn Kế” của tác giả vô danh thời Nguyên kể :

Điêu Thuyền họ Nhâm, tiểu tự là Điêu Thuyền, chồng là Lã Bố, vợ chồng thất lạc ở phủ Lâm Thao, đến nay chưa gặp lại nhau, và Điêu Thuyền từng có lờ inói : “Nhân Hán Linh Đế ra lệnh tuyển lựa cung nữ, nên mẹ tôi mới cho tôi cào trong cung, giữ việc quản lý loại mũ là Điêu Thuyền, vì thế tôi mới lấy tên chữ gọi là Điêu Thuyền. Sau Hán Linh Đế đem tôi ban cho Đinh Kiến Xương [ tức Đinh Nguyên]. Kiến Xương lại gả tôi cho Lã Bố làm vợ. Sau này khi giặc Khăn Vàng nổi lên làm loạn, vợ chồng tôi bị thất tán vì chiến tranh, nay không biết chồng tôi ở nơi nào.

Rồi đến cuối thời Minh mạt Thanh sơ, La Qúan Trung khi viết “Tam Quốc Diễn Nghĩa”, đệ nhất tài tử thư của Trung Quốc, chẳng những tổng hợp những tư liệu lịch sử nêu trên, mà còn gom góp những sự tích liên quan đến thời Tam Quốc lưu truyền trong dân gia, cùng các loại bình thoại, các tạp kịch, dựa vào cải biến Điêu Thuyền thành vợ của Lã Bố, cho Điêu Thuyền làm con nuôi Vương Doãn, giúp Vương Doãn hoàn thanh liên hoàn kế như kể ở hồi tám :

”Vương Tư Đồ xảo sử liên hoàn kế, Đổng Thái Sư đại náo Phụng Nghi Đình 王 司 徒 巧 使 連 環 計 董 太 師 大 鬧 鳳 儀 亭”.

Mà sau này, Trương Quang Tiên, người Việt Nam đầu tiên đã phỏng theo hồi thứ tám này, để viết thành vở cải lương Hồ Quảng nổi tiếng là “Phụng Nghi Đình” diễn ở Sài gòn năm 1926, và chúng tôi đã trích dịch một đoạn của hồi này, như đã thuật ở trên.

Lã Bố có vợ tên là gì, trong sử thư cũng không ghi rõ, nhưng thuật là Lưu Bị có gặp vợ Lã Bố. Trong “Tam Quốc Chí-Lã Bố truyện” phần chú dẫn “Anh hùng ký” ghi nhận rằng Lã Bố có một người vợ. Theo chú dẫn thì năm Hưng Bình nhị niên, tức năm 195, Lã Bố bị Tào Tháo đánh bại ở Cự Dã, phải chậy về hướng đông nhờ cậy Lưu Bị, rất kính trọng Lưu Bị, có lần Lã Bố bảo với Lưu Bị rằng :

-Tôi với ông đều là người biên địa [ tức Bố là người Ngũ Nguyên, còn Bị là người Trác Quận. Ngũ Nguyên và Trác Quận thời Han bị coi là biên địa]. Tôi thấy nhân mã ở Quan Đông [tức vùng phía đông Hàm Cốc Quan] muốn nổi lên giết Đổng Trác, tôi nay đã giết Trác xong rồi chậy về hướng đông, nhưng chư tướng Quan Đông không ai chịu dung nạp tôi, mà lại có ý muốn giết tôi.

Sau đó mời Bị vào trong trướng, thỉnh Bị ngồi trên giường của vợ, và gọi vợ ra bái kiến Lưu Bị, còn Bố cung kính rót rượu tiếp đãi, xưng hô với Bị là anh em. Nhưng Bị thấy Bố nói năng không phải phép, ngoài mặt thì đồng ý, mà trong bụng không thích”

[Trích dịch từ Tam Quốc Chí Bản bạch thoại-Nhà Xuất Bản Trung Ương Dân Tộc Học Viện]

Sau đó Bố tập kích đánh úp Lưu Bị, tự xưng là Thứ Sử Từ Châu, cát cứ một phương, thế lực dần dần lớn mạnh, trở thành kình địch ở phiá đông của Tào Tháo. Tháng 10 năm 198, Tháo xuất quân Đông chinh Lã Bố, phá Bành Thành [nay thuộc Từ Châu tỉnh Giang Tô], rồi tiến quân xuống Hạ Bì. Bố đánh trận nào thua trận ấy, nên đóng cưả thành cố thủ. Tháo liên tiếp tấn công, nhưng không hạ nổi, sau nghe mưu kế của Tuân Du, và Quách Gia, đào sông Tứ Thuỷ và Nghi Thủy lấy nước yểm thành. Hơn một tháng sau, tướng của Bố là Tống Nghiã mở cưả thành ra hàng. Tháo hạ lệnh đánh gấp. Bố buộc phải đầu hàng và bị Tháo thắt cổ chết.

Kết thúc chiến dịch Hạ Bì

Cũng trong sử thư “Tam Quốc Chí-Lã Bố Truyện” ở phần chú dẫn “Anh Hùng Ký”có những đoạn nhắc đến người vợ của Lã Bố :

Năm Kiến An nguyên niên tháng sáu, tức năm 196, vào lúc nửa đêm, bộ tướng của Lã Bố ở Hà Nội là Hách Manh làm phản, đem quân đột nhập vào nội phủ trị sở của Lã Bố, khi đến bên ngoài tiểu lâu của Nghị Sự Sảnh, cùng nhau hô hoán tiến hướng tiểu lâu tấn công, nhưng vì tiểu lâu kiên cố vững chắc, quân của Hách Manh không phá nổi. Bố không biết kẻ làm phản là ai, vội vã kéo người vợ còn chưa kịp mặc quần áo và vấn khăn, trốn vào nhà cầu tiêu trèo tường đào thoát, chạy vào trong doanh của Cao Thuận.

Các nhà bình thoại, các nhà soạn kịch, và tiểu thuyết gia đời sau dựa vào đoạn này, cho rằng vợ Lã Bố là Điêu Thuyền, tạo thành cái nghi án đến nay vẫn không giải quyết được.


B-Quan Công và Điêu Thuyền

Ngoài cái nghi án Điêu Thuyền có phải là vợ Lã Bố không, còn có một nghi án nữa về kết cục vận mệnh của Điêu Thuyến. Trong truyền thuyết dân gian và các hý khúc tạp kịch của Trung Quốc từ đời Minh đến đời Thanh, tồn tại hai thuyết trái ngược nhau về cái chết của Điêu Thuyền, và đều có liên can đến một nhân vật lịch sứ lẫy lừng thời Tam Quốc, sau được cả trăm triệu người Trung Hoa, từ vua chúa, quan quyền, đến người dân thôn dã tôn kính sùng bái, thờ làm thần. Đó là :

Quan Đại Vương tức Quan Vũ

1-Thuyết thứ nhất là :Quan Vũ giết Điêu Thuyền

Quan Đại Vương 關 大 王 hay Quan Thánh Đế 關 聖 帝, tức Quan Vũ, là Đại tứớng nhà Thục Hán đời Tam Quốc, tự là Vân Trường, người Giải Huyện tỉnh Hà Đông [nay thuộc tỉnh Sơn Tây], oai mãnh cương cường. Cuối thời Đông Hán, Quan Vũ lưu vong đến Trác Quận, rồi theo Lưu Bị khởi binh phò Hán. Năm Kiến An ngũ niên, tức năm 200, Tào Tháo đánh bại Lưu Bị, Quan Vũ bị Tháo bắt cầm tù, nhưng được Tháo rất kính nể và hậu đãi, "lên ngựa tặng vàng, xuống ngựa tặng bạc", phong làm Hán Thọ Đình Hầu, nhưng Quan Vũ "thân tại Tào mà tâm thì tại Hán", cuối cùng thì trở về với Lưu Bị.

Năm 214 CN, Quan Vũ trấn thủ Kinh Châu. Năm 219 CN, vây đánh bộ tướng của Tào Tháo là Tào Nhân ở Phàn Thành và phá Vu Cấm, nhân vì không phòng bị mặt sau, bị Tôn Quyền tập kích Kinh Châu, thua trận bị giết. Quan Vũ được người Trung Hoa thần hóa, thờ cúng, tôn là Quan Thánh Đế, Quan Công, Quan Đại Vương.

Trong sách "Tam Quốc Chí -Thục Thư-Quan Vũ truyện" của Trần Thọ, người đời Tấn có truyện kể về ông. Sau ông lại được La Quán Trung người thời Minh, trong "Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa" được tiểu thuyết hóa với nhiều giai thoại, nhiều mầu sắc thú vị.

Quan Vũ, một người khi sống coi tiền tài như rác rưởi, mà sau khi chết lại được người Tàu đặc biệt tôn thờ là Tài Thần. Tại sao?Theo truyền thuyết, thì vua nhà Thanh là Càn Long mới đăng cơ, thường nghe đằng sau mình có tiếng người đi dép lẹp kẹp, mới quay đầu lại hỏi :"Ai theo sau bảo giá trẫm vậy", thì có tiếng đáp "Nhị đệ Quan Vân Trường".

Càn Long là một ông vua từ ngoài vaò xâm chiếm nước Trung hoa, mà lại nhận là anh em vơí Quan Vũ, chẳng qua cũng là mưu tính muốn mượn oai danh của Quan Vũ để thần hoá mình và hoá giải bớt sự chống đối của dân chúng. Sau đó Càn Long bèn phong cho Quan Vũ là Tài Thần, và từ đó trên cửa của miếu thờ Quan Vũ người ta thiếp mấy chữ :"Hán vi văn võ đế, Thanh phong Phúc Lộc Thần -漢 為 文 武 帝 清 封 福 祿 神"

Quan Vũ còn được coi là thánh tổ, của mấy chục ngành nghề như nghề làm đầu bếp, nghề cắt tóc, nghề cầm đồ, nghề đồ tể, nghề bán thịt, nghề thầy võ, nghề thầy tướng, nghề đậu hũ v. v. . . . Thành ra, vào các quán ăn, các thương điếm, ở đâu chúng ta cũng thấy người Tầu có bàn thờ Quan Công cả.

Người Trung Hoa thần hoá và phong vị hoá Quan Vũ qua nhiều giai thoại truyền khẩu và bằng những hý khúc, tạp kịch khác nhau. Trong đó có truyền thuyêt, đồng quan điểm coi Điêu Thuyền là vợ Lã Bố, cho là Điêu Thuyền bị Quan Công giết trong một đêm trăng, « Quan Đại Vương nguyệt hạ trảm Điêu Thuyền » .

Truyền thuyết này kể rằng :

Sau khi Lã Bố thua trận bị Tào Tháo thắt cổ chết. Lưu Bị chiếm được Điêu Thuyền, thấy Điêu Thuyền đẹp như hoa tựa ngọc, có ý luốn lấy nàng làm vợ . Còn Trương Phi thấy Điêu Thuyền cũng hồn siêu phách tán.

Riêng Quan Công nhìn thấy tâm lý của hai người bạn kết nghĩa sinh tử với mình như thế, mới lên tiếng bảo với Trương Phi rằng :

-Chẳng ngờ tam đệ mà cũng yêu thích mỹ nhân nhỉ !

Thì Trương Phi đáp :

-Điêu Thuyền đẹp thế này, lấy đai ca mới thật xứng đôi !

Lưu Bị trong lòng thật muốn lấy Điêu Thuyền làm vợ, nhưng không tiện nói ra, mới giả ý nói :

-Nhị ca chưa có gia đình, hay là để cho nhị ca lấy vợ đã.

Quan Vũ vội vã từ chối ngay :

-Đệ không cần đâu, đệ không cần đâu.

Lưu Bị lại gán cho Trương Phi, nhưng Trương Phi cũng không tiện nói ra, lại cố ý nhượng lại cho Lưu Bị. Cả ba anh em nhượng đi nhượng lại, nhất thời không anh chịu nhận lãnh Điêu Thuyền làm vợ. QuanVũ vốn không phải là người ham nữ sắc, biết được tâm tư tình cảm của Lưu Bị và Trương Phi như vậy, bụng bèn bảo dạ : Đổng Trác, Lã Bố nhân vì sủng ái Điêu Thuyền mà thân bại danh liệt, sự nghiệp tiêu tan. Như nay, đại ca và tam đệ bị nữ sắc làm say mê quyến dũ, làmột điều không tốt. Nếu như đại ca và tam đệ vì một người đàn bà làm thương tổn hoà khí, rồi vì đắm say Điêu Thuyền, đại ca không lo tiến thủ nữa, khi đó có hối thì cũng muộn rồi. Người con gái này không thể lưu lại được. Nghĩ thế, Quan Vũ quyết định phải giết Điêu Thuyền.

Tối hôm đó, Quan Vũ sách cây Thanh Long Yển Nguyệt Đao 青 龍 偃 月 刀, còn gọi là Lãnh Diễm Cứ 冷 艷 鋸, nặng tám mươi hai cân, là võ khí mà Quan Vũ thường dùng khi lâm trận, đến gọi Điêu Thuyền ra. Dưới ánh trăng sáng, Điêu Thuyền trông càng lộng lẫy, nhan sắc càng rực rỡ hơn. Quan Vũ vốn là người cứng cỏi cương nghị, nhưng nhìn thấy Điêu Thuyền, lòng cũng trùng lại. Song tự nhủ, chính cái nhan sắc tiêu hồn này, nếu lưu lại dương thế, sẽ di hoạ cho đại ca và tam đệ. Ta cần phải giết đi ngay.

Điêu Thuyền thấy Quan Vũ cầm đao tiến đến, thì toàn thân run rẩy sợ hãi, trông như phù dung gặp bão, lê hoa gặp gió, ẻo lả như dương liễu, càng khiến cho người ta phải động lòng thương hoa tiếc ngọc. Quan Vũ cũng không còn đủ dũng khí nữa. Ông nhắm mắt lại. Tay ông buông rơi cây đao. Cây Thanh Long Yển Nguỵêt Đao này, đã từng giúp ông hạ nhiều địch thủ, vô tình rơi xuống, chém trúng Điêu Thuyền. Thế là ô hô, hương tiêu phách tán, kết thúc cuộc đời của kẻ hồng nhan bạc mệnh.

Những nhà nghiên cứu về truyền thuyết « Quan Vũ giết Điêu Thuyền », đã cho rằng truyền thuyết này được lưu truyền trong dân gian rất trễ. Sở dĩ như vậy, là vì từ sau vương triều nhà Tống, Quan Vũ chẳng những được liệt nhập vào hàng thần nhân, lại còn được tôn sùng là « đế », là phu tử, là thánh nhân, được nhân dân trăm họ thờ cúng, thì theo tâm lý tập quán của dân chúng, nhân vật như vậy không thể bị luỵ vì nữ sắc. Ngay đến cả La quán Trung, khi thâu thập những cố sự trong dân gian, những tạp kịch, hý khúc, cũng rất cẩn thận, không đề cập đến giai thoại này trong tiểu thuyết nổi tiếng « Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa » của ông .

Chính trong cái tâm lý thần hoá Quan Vũ mà cố sự « Quan Vũ giết Điêu Thuyền » được đẻ ra. Những người tôn sùng Quan Vũ, muốn Quan Vũ phải triệt để Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Dũng, Tín. Muốn ông phải xa lánh sắc dục và tiền tài. Và vì là « thần », nên hành vi của ông phải ở trên cả « anh hùng ».

Trong khi Lưu Bị và Trương Phi, thấy nhan sắc của Điêu Thuyền thì hồn phách điên đảo, tuy lòng đều ham muốn, nhưng lại hư nguỵ nhường đi nhường lại cho nhau. Chỉ duy có Quan Vũ, nẩy ra ý tưởng muống giết Điêu Thuyền để trừ hoạ căn, bảo vệ tiền trình và thanh danh cho những người anh em kết nghĩa. Nhưng trước nhan sắc diễm tuyệt của Điêu Thuyền, Quan Vũ cũng phải động lòng thương sót. Nhắm mắt buông đao. Để đao rơi xuống, vô tình kết quả tính mệnh của Điêu Thuyền, tránh cho Quan Vũ cái tiếng xấu là tàn nhẫn giết một người con gái yếu đuối, hà huống đó lại là người đã lập kỳ công cứu vãn vương triều nhà Đông Hán.

Sang đến đời nhà Nguyên, cố sự « Quan Vũ giết Điêu Thuyền » được quảng bá rất rộng rãi. Lại có cả tạp kịch « Quan Đại Vương nguỵêt hạ trảm Điêu Thuyền 關 大 王 月 下 斬 貂 蟬 » nhưng không rõ gốc từ sách nào. Đến đời Minh, trên vũ đài hý khúc, lại rầm rộ xuất hiện những kịch bản nói đến việc Quan Vũ chém Điêu Thuyền. Có kịch bản giải thích sở dĩ Quan Vũ phải chém Điêu Thuyền, vì Quan Vũ cho rằng Điêu Thuyền là loại người « vô nghiă bất lương », một gái hai chồng, hại nhân ngộ quốc. Nhưng một bậc anh hùng cái thế, như « Quan Đại Vương », mà nỡ xuống tay giết một người con gái diễm kiều, liễu yếu đào tơ, cũng chẳng đem lại vinh quang thêm gì cho Quan Vũ, mà trái lại làm cho người ta đồng tình thương sót Điêu Thuyền.

Nên ngoài kịch bản « Quan Đại Vương nguyệt hạ trảm Điêu Thuyền », trong truyền thuyết dân gian, còn có kịch bản nói về cái chết của Điêu Thuyền, « Điêu Thuyền chi tử 貂 蟬 之 死 », nhưng chết một cách khác. Chết một cách tự nguyện.

Tác giả của bản kịch này là Long Học Nghĩa. Họ Long cũng dựa vào bối cảnh của việc Thất Thủ Hạ Bì, tức truyện Tào Tháo tháo nước sông Tứ Thuỷ để đánh Lã Bố, nhưng lại thuật khác đi là Điêu Thuyền có lòng ái mộ Quan Vũ, xin với Quan Vũ nói với Tháo rút nước ra để cứu vớt sinh linh trăm họ ở trong thành.

Kết quả khiến cho Quan Vũ không còn thiên kiến ghét Điêu Thuyên nữa . Trái lại, đối với phẩm chất cao thượng biết ưu dân mẫn quốc của nàng, lại có cảm tình và sinh lòng ái mộ. Nhưng Lưu Bị thì sợ Quan Vũ mê đắm nữ sắc, nên lấy danh nghĩa đem lễ vật tặng đêm tân hôn để nhắc nhở Quan Vũ đừng quên cái bổn phận « Phò Hán Hưng Lưu ». Đặt Quan Vũ ở giữa hai tình cảm phải chọn lựa : Tình yêu và tình bạn kết nghĩa.

Cuối cùng tình cảm của Quan Vũ đã nghiêng về tình bạn kết nghĩa nhiều hơn. Ông đã thả Điêu Thuyền. Cho Điêu Thuyền tự do ra đi. Nhưng người con gái này trước cảnh nhà tan cửa nát, chồng vừa bị Tào Tháo thắt cổ chết, đất trời mang mang ly loạn.

Biết đi về đâu.

Điêu Thuyền chỉ còn biết ôm nỗi đau khổ mà khóc lóc, rổi đem hoàn cảnh và tâm sự dãi bầy với Vũ. Sau đó cầm đao tự kết liễu đời mình.

Kết thúc cuộc đời một thiên cổ giai nhân và kết thúc vở hý kịch về « Cái chết của Điêu Thuyền ». Trong kịch bản này, tuy đơn thuần nói lên tình cảm khuynh mộ giữa Quan Vũ và Điêu Thuyền, cùng nguyên nhân cái chết của Điêu Thuyền là do Quan Vũ lấy việc Phò Hán Hưng Lưu làm trọng mà cắt đứt tình cảm với nàng, đưa nàng đến chỗ tự vẫn. Vai trò của Quan Vũ trong vở kịch xem ra bớt tàn nhẫn hơn, so với kịch bản « Quan Đại Vương nguyệt hạ trảm Điêu Thuyền ».

Tuy như vậy, trong truyền thuyết dân gian, vốn sẵn thông cảm với Điêu Thuyền, cho rằng những kịch bản vừa nêu trên vẫn chưa giải thích minh bạch về cái chết của Điêu Thuyền. Dù nàng chết cách nào. Cũng vẫn là tàn nhẫn và bất hạnh. Vì thế, trái ngược lại với giai thoại « Quan Đại Vương nguyệt hạ trảm Điêu Thuyền », trong dân gian còn có một huyền thoại khác là : « Quan Công nghĩa thích Điêu Thuyền 關 公 義 釋 貂 蟬»

2-Thuyết thứ hai : Quan Công nghĩa thả Điêu Thuyền

Tình tiết của thuyết thứ hai này được thuật như sau đây :

Sau khi Tào Tháo đánh bại và thắt cổ Lã Bố chết, đem Điêu Thuyền giao cho Quan Vũ coi giữ. Một mưu sĩ bèn bàn vơí Tào Tháo là đem Điêu Thuyền tặng cho Quan Vũ, để Quan Vũ vì luyến mê nữ sắc mà hết ý chí tranh đấu, đồng thời khiến cho Lưu Bị và Trương Phi bị bất mãn, tạo thành ly gián kế giữa ba anh em kết nghiã đồng tử này.

Tào Tháo y kế thi hành. Nhưng không ngờ, Quan Vũ là người không ham nữ sắc, cự tuyệt không nhận. Vì thế, Tào Tháo bèn hạ lệnh xử tử Điêu Thuyền.

Điêu Thuyền nghe tin ấy, cả ngày khóc lóc thê thảm. Quan Vũ cảm thấy phiền não, mới gọi Điêu Thuyền đến bảo :

- Nhà ngươi trước đã ở vớí Đổng Trác, sau lại lấy Lã Bố. Con gáí mà lấy hai lần chồng, là một điều không tốt đẹp, còn khóc nỗi gì ?

Điêu Thuyền nói :

-Thưa Quan tướng quân, đấy đâu phải tội của thiếp, mà do Vương ân công muốn nhờ thiếp để thi hành kế liên hoàn. Thiếp đem tấm thân trinh bạch, vì nước trừ hại, công đã chẳng có, ngược lại nay còn bị kết tội xử tử. Như thế há chẳng phải là một điêù đáng thương tâm hay sao ?

Quan Vũ nghe Điêu Thuyền trả lời như vậy, cũng thấy Điêu Thuyền là người vô tội, trong lòng bỗng nẩy sinh trắc ẩn, muốn thả tự do cho Điêu Thuyền. Nhưng Điêu Thuyền tứ cố vô thân, không nơi nương dựa, nên bầy tỏ với Quan Vũ là sau khi được thả, thì xin tìm đến một am nhỏ trong só rừng nào đó để ẩn cư xuống tóc quy y.

Quan Vũ thấy Điêu Thuyền tỏ ý như vậy, thì lấy một ít vàng và hai bộ quần áo tặng cho Điêu Thuyền, rồi bảo nàng mau trốn đi gấp. Điêu Thuyền cảm tạ Quan Vũ đã vì nghĩa mà thả nàng, nhưng lúc ra khỏi cửa, thì chợt nghĩ rằng mình thân gái yếu đuối làm sao có thể đào thoát ra khỏi quân doanh thành trì ở đây, huống chi quan ải dặm trường gian nan hiểm trở, thực khó mà qua nổi.

Bấy giờ, Quan Vũ đã quyết tâm hết lòng cứu Điêu Thuyền. Ông bèn bảo Điêu Thuyền cải trang thành một binh sĩ cưỡi ngựa lẫn trong đám kỵ binh, và tự mình dẫn đội kỵ binh ra khỏi cửa thành, vì thế không ai dám ngăn trở gì, giúp cho Điêu Thuyền ra đi một cách thuận lợi. Quan Vũ đưa Điêu Thuyền đến tận cửa am goị là Tĩnh Từ Am dưới chân núi, sau đó mới quay ngựa trở về.

Chẳng ngờ, về đến nửa đường, Quan Vũ gặp Trương Phi vác cây sà mâu đi đến tìm Điêu Thuyền để giết. Nguyên lai, Trương Phi khi biết tin Tào Tháo đem tặng Điêu Thuyền cho Quan Vũ, thì sợ Điêu Thuyền làm ô danh giá anh hùng cái thế của người anh kết nghiã với mình, bèn nẩy sinh ra ý nghĩ đi tìm ĐiêuThuyền để giết . Nhưng Quan Vũ chặn giữ Trương Phi lại, rồì đem sự thật giảng giải cho Trương Phi rõ. Sau này, cả Lưu Bị lẫn Tào Tháo khi nghe truyện Quan Vũ vì nghiã thả Điêu Thuyền, đều khen ngợi Quan Vũ là bậc chân anh hùng, không ham nữ sắc.

Quan Vũ là một nhân vật có thật trong lịch sử Trung Quốc. Ông vốn không có liên hệ nào với nhân vật Điêu Thuyền. Những truyền thuyết hay hý khúc hư cấu trên đây, dù « giêt hay tha Điêu Thuyền », đều phát xuất từ tâm lý dân gian, phản ánh hai thái độ đốí với nữ sắc của Quan Công :

-Một là, muốn Quan Vũ phải giết Điêu Thuyền, để chứng tỏ ông là người anh hùng không tham nữ sắc.

-Hai là, muốn QuanVũ tha Điêu Thuyền, còn nếu không thế, Quan Vũ chưa đủ là người nhân ái, trọng nghiã, chưa đủ tư cách « thánh nhân »

Hay đúng ra, bi kịch Điêu Thuyền, phản ánh đúng cái quan niệm nam tôn nữ ty, nam giớí trọng hơn nữ giớí ở thời kỳ phụ hệ cực thịnh của xã hội phong kiến Trung Hoa, trong đó caí tư tưởng « trọng nam khinh nữ » « chồng chuá vợ tôi », coi đàn bà như một món đồ chơi. Có quyền khinh khi vuì dập. Thích thì giữ. Không thích thì bỏ. Vứt đi. Hoặc làm vật đôỉ chác, như Nhâm Thành Vương Tào Chương, con Nguỵ Văn Đế Tào Tháo, chẳng từng đem vợ ra đổi để lấy ngựa đó sao. Chẳng thế mà, trong hý khúc, người ta đã đặt vaò miệng Quan Vũ lời nói: «Con gái mà lấy hai lần chồng, là một điều xấu hổ hết sức, còn khóc nôĩ gì ". Lời nói này, há chẳng phải là biểu lộ cái quan niệm « nam tôn nữ ty » của tư tưởng phong kiến hủ lậu, đanh ác đó sao ? Chỉ có nam giới mới có quyền năm thê bẩy thiếp, còn đàn bà phải « Tiết hạnh khả phong 節 行 可 封». Hai đời chồng sẽ bị coi là một điều xấu.

Ngoài cái tư tưởng trọng nam khinh nữ, giới sĩ phu trí thức phong kiến Trung Quốc thuở xưa, và ít nhiều gì lây lan cả ở Việt Nam nữa, còn cho rằng người đàn bà đẹp là nguồn gốc của những nhiễu nhương loạn lạc ;rồi đưa ra những tiêu chí rõ rệt như « hồng nhan hoạ thuỷ 紅 顏 禍 始 ”, hoặc « nữ sắc vong quốc女 色 亡 國”, cho rằng người đàn đẹp đưa đến sự suy sụp tiêu vong của đất nước, như trường hợp Bao Tự nhà Chu, Dương Qúy Phi đời Đường. Còn như thấy người đàn bà nào gặp cảnh trầm luân đau khổ, nếu có đem lòng thương sót thì bảo đó là « hồng nhan bạc mệnh 紅 顏 薄 命”.

Đó là số trời. Chứ chẳng phải giới mày râu tu mi chúng tôi gây ra đâu. Như trường hợp của Thuý Kiêù. Ta hồ ! Thân phận của ngươì đàn bà ngày xưa sao khổ đến thế. Kể cả có may mắn khi được làm thân phận của một con « cò », thì cũng chỉ là :

Con cò lặn lội bờ sông gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.

Làm trọn cái bổn phận người vợ thờ chồng và nuôi chồng.

Cơ cực lắm thay.

Người viết xin kết thúc bài viết mua vui naỳ bằng nửa câu ca dao trên đây, để bầy tỏ sự đồng tình thông cảm với những người phụ nữ từng bị khinh miệt vì cùng chung hoàn cảnh và vận mệnh với Điêu Thuyền, dù chỉ là một hình tượng văn học.

[ Phạm Xuân Hy – Paris 16-11-2OO7 - 24H 23]

Chú Thích:

Điêu Thuyền

貂 蟬

Điêu, còn gọi là “Điêu thử 貂 鼠, ”ta dịch là chuột Điêu, là động vật có vú, thân nhỏ mà dài, bốn chân ngắn, tai có hình tam giác, thính giác rất bén nhậy, sinh sản ở vùng đông bắc Trung Quốc. Lông con điêu cực kỳ nhẹ và ấm, rất quý dùng làm nguyên liệu để làm áo cừu 裘, một lọai áo mặc mùa đông.

Có nhiều loại điêu khác nhau như thuỷ điêu 水 貂, tử điêu 紫 貂. Điêu ăn thị thỏ rừng, mèo rừng, chim, chuột. Có loại ăn cá, ăn trái cây, rau cỏ.

Cổ xưa, “điêu” được dùng làm trang sức cho nhiều vật dụng, và còn nhiều từ ngữ chữ Hán liên quan đến con vật này, trong đó có từ ngữ :

-Điêu thuyền quán 貂 蟬 冠 [Mũ Điêu Thuyền].

Vào thời nhà Hán, mũ đội của quan võ gọi là Võ Biện Đại Quán 武弁大冠, các viên quan Thị Trung và Trung Thường Thị, là những vị quan tiếp cận nhà vua để lo phục dịch và để vua hỏi, trên mũ của họ đội thường dát thêm hoàng kim, và gắn cánh con ve sầu [thiền vũ 蟬 羽], cùng sức thêm đuôi con điêu [điêu thử貂 鼠] để cho văn vẻ đẹp đẽ, mũ loại này được gọi là là mũ “Triệu Huệ Văn 趙 惠 文”. Vì thế, trong văn chương người ta dùng từ ngữ “điêu thuyền”, để chỉ người đại quan hiển quý, như nhà thơ Lục Du từng có câu :

Trường An điêu thuyền đa,

Tử khứ thuỳ phúc hoàn

長 安 貂 蟬 多

死 去 誰 复 還

[Đất Trường An có nhiều quan to, nhưng chết rồi chẳng thấy ai trở lại].

Sang đến nhà Tấn, Tư Mã Viêm sau khi kiêm tính ba nước Ngụy, Thục, Ngô. Nội bộ nhà Tấn mâu thuẫn kịch liệt, quan lại sinh hoạt sa xỉ, chính trị hủ bại. Bấy giờ Triệu Vương Tư Mã Luân, con thứ chín của Tư Mã Ý, lạm phong quan tước, chỉ cần là vương thân bộ thuộc, ngay cả tôi đòi bộc dịch, cũng được phong tước vị, trở thành quan to. Vì thế Tấn Thư mới có câu :« mỗi triều hội điêu thuyền doanh toạ - 每 朝 會 貂 蟬 盈 坐 - Mỗi khi triều hôị, chỗ ngồi đầy những đaị quan ». Thời bấy giờ, các bậc đại quan đêù đôị loaị mũ trên có trang sức bằng những cánh chuồn bằng vàng, và gắn thêm đuôi con điêu thử, gọi là «điêu thuyền quán 貂 蟬 冠 », tức mũ điêu thuyền.

Tiếng Việt chúng ta cũng có một loại mũ goị là « mũ cánh chuồn », là loại mũ có hai cánh gài vào như cánh chuồn cuả các quan văn đội, nhưng ngườì viết không rõ xuất xứ có liên hệ vớí loại « mũ điêu thuyền » không ?

Ngoài ra, còn có câu tục ngữ « cẩu vĩ tục điêu 狗 尾 俗 貂 », để châm biếm việc dùng cái xấu nối tiếp cái tốt, ví như đuôi con điêu thử hiếm quý bị thay thế bởi đuôi cuả con chó.

Thanh Long Yển Nguyệt Đao 青 龍 偃 月 刀

Thanh Long Yển Nguyệt Đao là tên gọi một loại binh khí mũi nhọn, một nửa là hình bán nguỵêt, thuộc loại Đại đao, có cán dài, trên đao có khắc hình con rồng. Yển nguyệt, có nghĩa là cong như nửa đường cung của mặt trăng. Yển Nguỵệt Đao 偃 月 刀 xuất hiện vào đời Đường, Tống, được dùng trong việc luyện tập, và để hiển thị sự trang nghiêm hùng tráng, chứ không phải để dùng trong chiến đấu. Theo chính sử thì binh khí Quan Vũ dùng để chiến đấu ra trận mạc, là mâu 矛 và kích 戟, và bội đao 佩 刀. Nhưng trong tiểu thuyết Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa của La Quan Trung, ở hồi thứ nhất thuật là “ Quan Vũ đánh một con đao năng tám chục cân, đặt tên là Thanh Long Yển Nguyệt Đao, sau lại gọi là Lãnh Diệm Cứ, còn Trương Phi thì đúc Bát Sà Mâu [thật ra là Trượng Bát Điểm Thương Mâu].

Người Tầu là một dân tộc đa tôn giáo. Đa thần. Họ thờ từ hòn đá, đến cây cối, động vật như con rùa, con ếch, con rắn và cả vật dụng nữa…Quan Công được họ tôn sùng thờ phụng, nên những vật dụng thiết thân của ông như con ngựa Xích Thố, và cây Thanhg Long Yển Nguyệt Đao, cũng được người Tầu thần hoá, và tôn thờ. Dẫu răng loại đao này xuất hiện sau đời Tam Quốc.

Có câu truyện thuộc loại truyền thuyết thuật về việc đúc cây Thanh Long Yên Nguyệt Đao như sau :

1-Quan Vũ muốn làm chi mình một con đao thật vùa ý, nên cho mời mây vị thuộc bậc thầy về nghề lò rèn để thảo luận. Các bậc sư phụ về nghề rèn đều đồng ý là dùng đao là oai hơn cả. Thời bấy giớ, đao có năm đẳng cấp gọi là :

1-Thiết Đao 鐵 刀 2-Cương Đao 鋼 刀 3- Nhu Cương Đao 柔 鋼 刀 4- Thanh Cương Đao 青 鋼 刀 5- Bảo Đao 寶 刀.

Vì các đẳng cấp của đao khác nhau, nên phương pháp luyện các loại đao trên không giống nhau. Mao thiết 毛 鐵, tức sắt thô luyện lâu ngày thành cương 鋼, tức thép, thép luyện trong lửa lâu ngày thành nhận韌, tứcmột loại thép thuần tuý nhưng mềm và giai, sau đó lại luyện thêm nữa cho thép trở nên màu xanh, trở nên bảo đao. Nhưng người thường chỉ có thể luyện thành Cương Đao, hay Thuần Cương Dao. Còn loại Thanh Cương Đao và Bảo Đao thì rất khó luyện thành.

Một tay thợ rèn giỏi, một đời có thể luyện được mấy trăm cây đao, nhưng khó có thể đánh nổi một Thanh Cương Đao. Còn ý Quan Vũ thì nhất định phải có một con Bảo Đao, lại còn nói:

-Dù tốn kém bao nhiêu tiền tôi cũng trả, nhưng nhất định phải là loại Bảo Đao.

Vì thế, Quan Vũ ngày ngày cơm rượu hầu hạ mấy vị bậc thầy rành nghề thợ rèn, nên được vác vị này đem hết tinh thần, tâm sức ra để làm. Sau hơn một tháng, đúc được hơn một chục con Đại Đao, nhưng chẳng con nào vừa ý, ngay như thuộc loại Nhu Cương Đao, độ cứng cũng chưa đạt được. Do đó đành phải huỷ bỏ, đánh những con khác.

Lại sau hơn một tháng, thì luyện được một Thanh Cương Đạo. Nhưng nào ngờ, Quan Vũ vẫn chưa vừa ý, yêu cầu luỵện tiếp.

Các bậc sư phụ của nghề rèn đều thưa với Quan Vũ :

-Thanh Cương Đao thuộc lại trân bảo hiếm có trên đời, có thể chém sắt thép dễ dàng. Chứ Bảo Đao thì chúng ttôi chưa hề thấy ai luyện được. Còn luyện tiếp nữa, chẳng biết có thành công không.

Các bậc sư phụ của nghề rèn đành phải tiép tục luyện tiếp theo ý của Quan Vũ. Thế rồi sau một tháng, một buổi sáng trăng, một thanh đại đạo vừa thành hình được rút từ lò luyện ra để tôi vào nước, bỗng thấy một tia hào quang bay vút lên không trung, chém trúng vào một con rồng xanh, máu tươi nhỏ xuống, rơi vào thân cây Đại Đao, khiến bật ra những thanh âm như tiếng sấm. Mọi người đều sợ hãi. Bỏ chạy tứ xứ.

Khi Quan Vũ nghe thấy vậy, ra xem, thì thấy cây Bảo Đao dựng ở mặt đất. Hào quang sáng lạn. Cây Bảo Đao này có hình cong bán nguyệt, lại dùng máu rồng xanh tôi luyện, nên được đặt tên là “Thanh Long Yển Nguyệt Đao”

Chẳng qua đây cũng như nhiều truỳên thuyết khác về các nhân vật lịch sử Trung Quốc, nhằm mục đích tăng thêm cường độ thần hoá Quan Vũ mà thôi. Và cũng như Quan Vũ, đao cũng trở thành một thần vật và được đem thờ cùng với chủ nhân của nó.

Cân 斤

Tự điẻn tiếng Việt có giaỉ thich là “Cân là tên gọi thông thường của kilogram”, và chính người viết cũng có thói quen : “Bán cho tôi một cân thịt” với nghiã là một ki lô thịt. Nhưng chữ cân 斤có nguồn gốc là chữ Hán Việt, còn chữ kí lô có nguồn gốc của chữ Pháp là kilogramme, nghiã của hai chữ naỳ khác nhau.

1-Cân 斤theo giáp cốt văn là một chữ tượng hình, theo cổ thơì cân 斤 là một cái rìu có cán, đâù trên nhọn.

2-Cân 斤 còn là một đơn vị trọng lượng mà các nước Đông Nam Á sử dụng, ước lượng khoảng 605 khắc 克 một chút. [Khắc bằng một gramme]

Đến năm 1929, thì Trung Quốc qui định là một cân nặng bằng 500 khắc 克. Ngoài một cân còn bằng 16 lạng vì thế mơí có câu nói là “người tám lạng kẻ nưả cân”

Trần Thọ 陳 壽

Trần Thọ sinh năm 233 CN, sử gia và tản vân gia thời Tây Tấn, tự là Thừa Tộ, ngươpì An Hán [nay thuộc Nam Sung tỉnh Tứ Xuyên]. Trần Thọ lúc nhỏ hiếu học, học trò của Tiêu Chú, làm Quan Các Lệnh Sử, nhân vì không chịu khuất phục theo hoạn quan Hoàng Hạo, nên nhiều lần bị khiển trách và cách chức. Sau khi nhà Nguỵ diệt nhà Thục, Trần Thọ theo về nhà Tấn, được Trương Hoa kính nể tiến cử, lần lượt đưuợc bổ nhậm làm Trứ Tác Lang, Trị Thư Thị Ngự Sử. Sau khi nhà Tấn diệt Ngô, Trần Thọ tập hợp các sử sách công và tư để viết “Tam Quốc Chí” được Trương Hoa khen là có chỡ hơn hẩn Tu Mã Thiên, cùng Ban Cố, và người đương thời xưng tụng là “Lương sử chi tài”. Còn Hạ Hầu Trạm viết “Ngụy Thư” khi đọc đến Tam Quốc Chí của Trần Thọ bèn huỷ bản cảo của mình đi. Ngoài ra, Trần Thọ còn soạn "Cổ Quốc Chí", và "Ích Đô Kỳ Cựu Truyện". Trần Thọ mất năm 297 CN

La Quán Trung 羅 貫 中

La Qúan Trung tên là Bổn, hiệu là Hồ Hải Tán Nhân, là Thông tục tiểu thuyết gia trứ danh thời Minh mạt, không rõ sống và chết năm nào. Ông sống ước chừng vào khỏang thời gian Nguyên Thuận Đế và Minh Thái Tổ. Ông là người Thái Nguyên [ nay thuộc thành phố Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây], nhưng lại có thuyết noiứ ông là người Tiền Đường [nay thuộc thành phố Hàng Châu tỉnh Triết Giang].

La Qúan Trung là người quả giao, không hợp thế tục, chỉ có người bạn vong niên là Gỉa Trọng, tác giả "Lục Qủy Bạ Tục Biên". Ông sống trong một thời đại động loạn, từng ôm chí phò tá đế vương để lập công nghiệp. Trong "Tam Quốc Diễn Nghĩa" ông từng mỳ hoa Lưu Bị trở thành một vị minh chủ phong kiến, không làm những công việc hại người ích ta, và trong "Triệu Thái Tổ Long Hổ Phong Vân Hội", ca tụng Triệu Khuông Dẫn thành một vị hòang đế hết lòng lo nghĩ đến sự cùng khổ của người dân, điều đó cho thấy ông chịu ảnh hưởng của tư tưởng nho gia rất nhiều.

Có thuyết cho rằng ông từng là môn khách của Trương Sĩ Thành, và là sư phụ của Thi Nại Am, cùng họat động sáng tác với Thi Nại Am.

Ngoài ba tác phẩm hý kịch "Triệu Thái Tổ Long Hổ Phong Vân Hội", "Tam Bình Chương Tử Khốc Phỉ Hổ Tử", "Trung Chính Hiếu Tử Liên Hoàn Gían", La Quán Trung còn là tác giả của năm cuốn thông tục tiểu thuyết là "Tam Quốc Chí Thông Tục Diễn Nghĩa", "Tùy Đường Chí Truyện", "Tàn Đường Ngũ Đại Sử Diễn Nghĩa", "Tam Toại Bình Yêy Truyện", "Phấn Trang Lâu", trong đó "Tam Quốc Chí Thông Tục Diễn Nghĩa " là thành công nhất, được xếp vào hàng « Đệ nhất tài tử thư » La Qúan Trung là một nhà viết tiểu thuyết thông tục kiệt xuất trên văn đàn Trung Hoa. Những sáng tác phổ biến kiến thức lịch sử Trung Quốc của ông có một tác dụng hết sức trọng đại.

Mao Tôn Cương 毛 宗 崗

Mao Tôn Cương sinh tốt bất tường, là nhà phê bình văn học nổi tiếng cuối thời Minh mạt Thanh Sơn, tự là Tự Thuỷ, hiệu là Kiết Am, người Trường Châu [nay thuộc Tô Châu tỉnh Giang Tô]. Cha ông là Mao Luân, một người đồng hương với Kim Thánh Thánh, cũng có đôi chút tiếng tăm về văn chương, nhưng đường thi cùng quẫn khó khăn nên không ra làm quan. Đến tuổi trung niên, nhãn lực bị kém, nên chỉ bàn về Tỳ Bà Ký và Tam Quốc Chí để làm vui.

Riêng về Mao Tôn Cương, cũng có đôi chút tiếng tăm về văn học, nhưng cũng chưa từng ra làm quan, và theo gót cha đem nguyên bản Tam Quốc Chí Diễn Nghiã của La Quán Trung tu đính, chỉnh đốn hồi mục, sửa laị văn từ, lọc bỏ những luận tán, gạn lọc những truyện vụn vặt, cải hoán những bài thơ, thành bản Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa một trăm hai chục hồi, hoàn thành vào đầu năm Khang Hy và lưu hành đến ngày nay, và thường được gọi là Mao Bản.

Mao bản Tam Quốc Chí Diễn Nghiã, cố nhiên là do công của cả hai cha con họ Mao, nhưng người đời thường phần nhiều chỉ nhắc đến Mao Tôn Cương. Và tất nhiên, trong quá trình tu cải, Mao Tôn Cương đã dựa vaò “Tư Trị Thông Giám”, để cao hơn nưã quan niệm phong kiến chính thống là “Tôn Lưu Biếm Tào”. Về thủ pháp phê bình và nghệ thuật, tuy phỏng hiệu và tôn thờ Kim Thánh Thán làm thầy, nhưng cũng có những sáng tạo độc đặc của riêng cá nhân ông.

Đối với giới phê bình văn học Trung Quốc, Mao Tôn Cương có nhiều cống hiến quan trọng và chiếm một địa vị trọng yếu.

Thập bát lộ chư hầu cát cứ chống Đổng Trác:

1-Thái Thú Viên Thuật chiếm cứ Nam Dương. 10-Thái Thú Khổng Dung chiếm Bắc Hải

2-Thứ Sử Hàn Phức chiếm cứ Ký Châu 11- Thái Thú Trương Siêu chiếm Quảng Lăng

3-Thứ Sử Khổng Trụ chiếm cứ Dự Châu 12-Thứ Sử Đaò Khiêm chiếm Từ Châu

4-Thứ Sử Lưu Đại chiếm cứ Duyện Châu 13-Thái Thú Mã Đằng chiếm Tây Lương

5-Thái Thú Vương Khuông chiếm cứ Hà Nội 14-Thái Thú Công Tôn Toản chiếm Bắc Bình

6-Thái Thú Trương Mạc chiếm Trần Lưu 15-Thái Thú Trương Dương chiếm Thượng Đảng

7-Thái Thú Kiêù Maọ chiếm Đông Quận 16-Thái Thú Tôn Kiên chiếm Trường Sa

8-Thái Thú Viên Di chiếm Sơn Dương 17-Thái Thú Viên Thiệu chiếm Bột Hải

9- Tướng quốc Bão Tín chiếm Tế Bắc 18-Tào Tháo [chưa có đất]

Sách tham khảo:

  • Tam Quốc Chí Diến Nghiã cuả La Quán Trung
  • Tam Quôc Chí của Trần Thọ do Buì Tòng Chi chú [bản bạch thọai]
  • Tam Quốc Chí Từ Điển
  • Tam Quốc Phong Vân cuả Hưá Bàn Thanh
  • Hâụ Hán Thư cuả Phạm Diệp
  • Trung Quốc Lịch Sử Vị Giải Chi Mê
  • Trung Nghiã Xuân Thu của Mai Tranh Tranh
  • Trung Quốc Cổ Điển Tiểu Thuyết Hý Khúc Taị Quốc Ngoại của Vương Lệ Na.

Page 14

Triệu Vân

Triệu Vân [168-229], tự là Tử Long, là một vị tướng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Hoa. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục, với Lưu Bị là vị hoàng đế đầu tiên. Ông được phong chức Hổ uy Tướng quân và đứng thứ ba trong Ngũ Hổ Tướng của nhà Thục, bao gồm: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung và Mã Siêu.

Triệu Vân cao khoảng 1,92 m [6,3 bộ], mày rậm mắt to, uy phong lẫm liệt, giỏi võ nghệ và có tài thao lược. Ông theo về với Công Tôn Toản trong một lần cứu Công Tôn Toản thoát chết. Sau đó, Triệu Vân được xếp dưới quyền trực thuộc của Lưu Bị, người mà khi ấy chỉ là bộ tướng của Công Tôn Toản, giữ chức Phiêu kỵ tướng quân. Lưu Bị có vài nghìn kỵ binh, và Triệu Vân được điều đến trong hàng ngũ này. Từ đó ông quan hệ rất gắn bó với Lưu Bị. Lưu Bị phái Triệu Vân bí mật tuyển mộ thêm quân để tăng cường cho đội quân trực thuộc của mình. Kể từ đây Triệu Vân chính thức bỏ Công Tôn Toản theo phò Lưu Bị.

Năm 208, Lưu Bị giao tranh với Tào Tháo thất bại và bị đuổi chạy qua Trường Bản. Trong trận Trường Bản thì Triệu Vân đã liều mạng sống bảo vệ gia quyến Lưu Bị, cứu được con trai Lưu Bị là Lưu Thiện [A Đẩu], tạo nên điển tích Triệu Tử Long một ngựa cứu ấu chúa nổi tiếng đến ngày nay.

Sau Đại chiến Xích Bích, Triệu Vân góp công lớn giúp Lưu Bị dành được phần nam Kinh Châu, và trở thành một trong những tướng lĩnh quan trọng trong tập đoàn Lưu Bị, được phong chức “đại tướng quân”. Khi Lưu Bị dẫn quân vào Ích Châu, ông đã giao cho Triệu Vân phòng thủ căn cứ chính ở Công An với tư cách “lưu dẫn tư mã”.

Về sau này, ông còn tiếp tục lập thêm nhiều chiến công hiển hách khác cho nhà Thục.

Năm 229, Triệu Vân bị bệnh mất ở Hán Trung, quân sĩ nước Thục vô cùng nuối tiếc. Ông được Lưu Thiện truy phong làm “Thuận Bình hầu” năm 261.

Các chiến công của Triệu Vân:

Cứu con trai Lưu Bị trong trận Trường Bản, chém hơn 50 tướng của Tào Tháo.

Truy kích Tào Tháo ở trận Xích Bích.

Đánh Tây Xuyên, Hán Trung.

Đánh tộc người Man.

Được biết đến như một chiến binh vĩ đại, Triệu Vân hội tụ đủ các bản chất của những anh hùng trong thời đại ông. Mặc dù Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung chỉ đặc biệt miêu tả Triệu Vân võ công cao cường, thực ra ông còn đáng được ngưỡng mộ bởi tài thao lược khôn khéo, lòng trung thành tận tụy và tính cách thẳng thắn, sự dũng cảm phi thường. Chính Triệu Vân đã dám đứng ra can gián Lưu Bị tiến đánh Đông Ngô để trả thù bằng những lý do sáng suốt.

Page 15

Lưu Bị cũng là người háo sắc như Tào Tháo?

Nếu Khổng Minh là biểu tượng cho chữ Trí, Quan Vũ là biểu tượng của chữ Nghĩa thì Lưu Bị luôn được người đời xưng tụng là con người chí Nhân, chí Thiện. Nhưng ở mặt trái của biểu tượng ấy, phải chăng Lưu Bị vẫn là một con người theo nghĩa bình thường nhất, nghĩa là cũng nhát gan và háo sắc?

Bốn lần chạy bỏ vợ con

Lưu Hoàng Thúc là một cái tên lừng danh thiên hạ thời Tam Quốc, một đại anh hùng "chia ba thiên hạ”. Nhưng chúng tôi lại thấy rằng, trong quá trình dựng xây đại nghiệp của mình, vị hoàng thúc này cũng gặp không ít những thất bại, trải qua cuộc sống đầy gập ghềnh, trớ trêu. Trong những lần thất bại ấy, chúng tôi cũng thấy rằng hoàng thúc đã bốn lần có hành động không được xứng tầm với một đại anh hùng, "vứt bỏ vợ con, chạy lấy thân mình”.

Lần thứ nhất là vào năm Kiến An nguyên niên [năm thứ nhất], khi đó Lưu Bị vừa từ trong tay Đào Khiêm tiếp nhận ấn soái Từ Châu. "Viên Thuật tới tấn công tiên chủ, tên chủ chống lại ở Hu Di, Hoài Âm,…”, Lưu Bị đành để Trương Phi ở lại phòng thủ Hạ Phi, tự thân đem quân chống lại viên Thuật. Kết quả Tào Báo cấu kết với Lã Bố tấn công, "Bố bắt vợ con tiên chủ làm tù binh”. Lưu Bị không còn cách nào, chỉ còn cách đồng ý giảng hòa cùng Lã Bố, hy vọng Lã Bố giữ lời hứa, "Bố bèn thả vợ con [Lưu Bị] về”.

Có thể khẳng định là, người vợ này tuyệt không phải là Cam, Mi phu nhân thường được nhắc tới. Bởi vì căn cứ vào Tam Quốc chí - Mi Trúc truyện, khi Lã Bố tập kích Hạ Phi, Lưu Bị thua chạy tới Hải Tây thì Mi Chúc mới "dâng em gái của mình để làm vợ tiên chủ”. Do đó Mi phu nhân tuyệt đối không thể bị Lã Bố bắt làm tù binh được. Lại căn cứ theo Tam Quốc chí – Cam hoàng hậu truyện: "Cam hoàng hậu của tiên chủ, người ở đất Bái. Khi tiên chủ đến Dự Châu, trú ở đất Bái mới nạp làm thiếp”.

Điều này cho thấy, Cam phu nhân được gả cho Lưu Bị khi ông ở Dự Châu, thời gian đó vào khoảng năm Kiến An thứ hai hoặc thứ ba, còn muộn hơn cả thời gian lấy Mi phu nhân. Do đó có thể thấy, trong lần thất bại này, người vợ này chính là người vợ đầu tiên.

Nhưng trong Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung lại đem người vợ được nhắc đến trong lần thất bại này của Lưu Bị nói thành Mi, Cam phu nhân. Tại sao như vậy? Bởi vì trong sử sách người vợ đầu này không được mảy may nhắc tới. La Quán Trung một mặt để tránh những tình tiết gấy rối loạn cốt truyện, đồng thời cũng không muốn trong tác phẩm của mình nói quá nhiều đến cuộc sống đời tư của Lưu Bị vì thế mới dứt khoát đem sự kiện đã được lịch sử ghi chép này gán lên Cam, Mi phu nhân.

Tới năm Kiến An thứ ba, do cuộc tấn công của Lã Bố ở Từ Châu, Lưu Bị chỉ còn biết đóng quân ở đất Tiểu Bái. Trong thời gian này Lưu Bị những muốn tập hợp lực lượng tìm Lã Bố trả thù. Không ngờ rằng lần tái chiến này lại tiếp tục gặp phải thất bại đành chạy đến chỗ Tào Tháo. Tào Tháo đối đãi ông ta cũng chẳng bạc, phong ông ta làm Dự Châu mục. Nhưng Lưu Bị không cam tâm, chuẩn bị tới huyện Bái để thu thập tàn quân, những mong rửa mối nhục cũ. Tào Tháo cũng ủng hộ, cấp cho Lưu Bị quân lương, phái quân đội theo ông ta tìm Lã Bố phục thù.

Kết quả là Lưu Hoàng Thúc không chịu thua kém ai đã bị bại dưới tay bộ tướng của Lã Bố là Cao Thuận. Cao Thuận "lại bắt được vợ con tiên chủ đưa về cho Lã Bố”. Cuối cùng chính Táo Tháo phải thân chinh "Tào công tự mình thân chinh, giúp tiên chủ vây Lã Bố ở Hạ Phi, bắt sống được Bố”, lúc đó mới có thể đem vợ con về. Lần này người bị bắt làm tù binh đương nhiên là hai vị phu nhân Cam, Mi. Còn như người vợ trước có trong số đó không thì cũng khó mà biết được. Bởi vì chúng ta không biết được tên tuổi của người này cũng không biết bà có còn sống hay không.

Tam Quốc diễn khi viết về sự việc này đại thể là dựa trên sự thực lịch sử nhưng trong tình tiết thì có một điểm rõ ràng bị thay đổi: Cam, Mi phu nhân hai người không bị Lã Bố bắt sau đó mới về bên Lưu Bị mà trước đó do Trần Khuê và Mi Chúc đoạt Từ Châu, đem hai vị phu nhân về hội ngộ cùng Lưu Bị.

Sau đó hai năm, đến năm Kiến An thứ 5, Lưu Bị không cam tâm dưới trướng Tào Tháo, mượn cơ hội Viên Thuật mâu thuẫn với Tào Tháo mà đánh chiếm Hạ Phi vốn đã thuộc về Tào Tháo. Tào Tháo không thể tha thứ bèn đem quân đánh Bị. Hoàng thúc lần này lại thêm một lần mất mặt. Chưa giao chiến, chỉ mới thấy cờ quân Tào đã hoảng sợ không còn con đường lựa chọn nào khác "bỏ dân mà chạy”. Kết quả là Tào Tháo lại "bắt được thê tử của tiên chủ, đồng thời bắt sống cả Quan Vũ”.

Chúng ta biết đều biết "ba điều kiện” của Quan Vũ với Tào Tháo rồi "qua 5 cửa chém 6 tướng” chỉ là sự hư cấu của nhà tiểu thuyết. Trong sử sách khi nói về việc Quan Vũ bỏ Tào Tháo đi tìm Lưu Bị không hề nói rõ là có mang theo hai vị phu nhân hay không. Nhưng chúng ta đều biết rằng, Lưu Bị khi ở Kinh Châu là ở cùng gia đình, còn sinh ra A Đẩu. Cứ xem thái độ đối đãi của Tào Tháo với Lưu Bị và Quan Vũ thì đủ rõ, Tào Tháo đã cùng thả Quan Vũ và "vợ con tiên chủ”.

Lần cuối cùng là vào năm Kiến An thứ 13, trong chiến dịch Trường Bản, Lưu Bị "Bỏ vợ con, cùng Gia Cát Lượng, Trương Phi, Triệu Vân,… khoảng hơn mười người ngựa bỏ chạy”. Cam phu nhân và A Đẩu may mắn được Triệu Vân bảo vệ mới thoát khỏi kiếp nạn. Trong các sử tịch không thấy nhắc đến Mi phu nhân, rất có thể đã thiệt mạng trong chiến dịch này.

Như vậy, Lưu Bị bốn lần li tán cùng gia đình, trong đó, Lã Bố bắt hai lần, Tào Tháo bắt hai lần. Truy nguyên nguồn gốc của sự tình dường như đều liên quan đến Tào Tháo. Trong cả quá trình tồn tại Tam quốc, kháng Tào là hành động kiên quyết nhất của nhân vật cũng không khiến người ta thấy kì lạ. Rốt cục việc trả thù đoạt vợ, cướp con khó ai mà có thể coi nhẹ được.

Mọi người thường ca ngợi Lưu Bị trăm lần thất bại cũng không khuất phục, chính bản thân Lưu Bị cũng xác nhận như vậy. Nhưng mà từ thái độ đối xử với vợ con như vậy hoàn toàn có thể cho rằng đó là "bỏ cái nhỏ để lấy cái lớn”, cũng có thể nói là chỗ khiếm khuyết trong nhân tính con người này, đúng sai cong thẳng ra sao, hoàn toàn do bạn làm chủ.

Ham thích khoái lạc: bắt vợ khỏa thân so cùng người ngọc

Việc này phải bắt đầu từ hồi thứ 25 "Đóng Thổ sơn Quan Công giao ước ba điều Cứu Bạch Mã Tào Tháo giải trùng vây”: Quan công dẫn binh vào Hạ Phi, thấy nhân dân yên ổn, liền đi vào phù tìm hai chị, Cam, Mi hai phu nhân khi nghe nói Quan công tới vội vàng ra nghinh đón. Công ở dưới thềm bái vào nói: "Làm cho hai chị phải thất kinh, thực là tội của mỗ vậy. Hai phu nhân liền hỏi: "Hoàng thúc nay ở đâu?”. Công đáp: "Hiện không rõ”. Hai phu nhân hỏi tiếp: "Nay nhị thúc định thế nào?” Công đáp: "Quan mỗ ra thành tử chiến bị vây khốn ở Thổ sơn, Trương Liêu khuyên tôi đầu hàng, tôi bèn đặt ra ba điều cùng ước hẹn. Tào tháo đã đồng ý, nên lui binh cho tôi vào trong thành. Tôi chưa được biết ý của hai chị thế nào chưa dám tự quyết. Hai phu nhân liền hỏi: "Ba việc thế nào?”. Quan công đem ba việc ở trên mà nói lại một lần. Cam Phu nhân nói: "Đêm qua quân Tào vào thành, ta nghĩ ắt sẽ chết; ai ngờ chúng không hề động tới, một tốt cũng không bước vào cửa. Nay thúc đã quyết rồi hà tất phải hỏi hai chúng ta? Chỉ sợ sau này Tào Tháo không dung cho thúc thúc đi tìm Hoàng thúc thôi” Công đáp: "Hai chị yên tâm, Quan mỗ đã có cách”. Hai phu nhân nói "Thúc đã có tự quyết, phàm việc gì không phải hỏi hạng nữ lưu như chúng tôi”.

Trong Tam Quốc diễn nghĩa, thường thường Cam, Mi hai phu nhân cùng được tác giả giới thiệu đi kèm với nhau. Những người hiểu Tam Quốc, đối với quá trình sáng nghiệp của Lưu Bị có một ấn tượng về Lưu Bị, đó là: Đánh được thì đánh, không đánh được ắt chạy thoát thân thục mạng, tính mệnh của vợ, của con đều quên sạch. Riêng nói về trình độ chạy trốn, tần suất và cả sự nhếch nhác thì ngay đến cả tổ tiên của mình là Lưu Bang cũng phải chấp nhận là "hậu sinh khả úy”. Cũng chính bởi thế mà Cam, Mi phu nhân phải chịu biết bao nhiêu nỗi khổ của cảnh lưu lạc khốn cùng. Ngay trong đoạn "một ngựa vượt ngàn dặm” của Quan Công cũng là để hộ tống hai người chị dâu của mình.

Như đoạn nói chuyện giữa Cam, Mi phu nhân đối với Quan Công có thể thấy Cam, Mi phu nhân tuyệt đối là sảng phẩm của tư tưởng đạo đức luân lý của Nho gia. Qua lời "phàm việc gì không phải hỏi hạng nữ lưu như chúng tôi” và "Nay thúc đã quyết rồi hà tất phải hỏi hai chúng tôi?” có thể thấy hai người là những người nhu mì, nhưng lại hoàn toàn thiếu chủ kiến. Trước tất cả mọi việc, thậm chí ngay cả sự sống chết của bản thân họ đều do người đàn ông nắm giữ. Những hình tượng phụ nữ như thế là một dạng kí hiệu tồn tại trong Tam quốc diễn nghĩa. Ý nghĩa mà họ mang theo trong tác phẩm văn học vì thế rất nhỏ bé, rất khó để lại ấn tượng gì trong lòng người đọc.

Nhưng những nhân vật này trong chiến dịch Trường Bản lại có một sự cải thiện rất đáng kể. Đặc biệt là hình ảnh cảm động của Mi phu nhân trong hồi thứ 41 của Tam quốc diễn nghĩa, Lưu Huyền Đức mang dân qua sông, Triệu Tử Long một ngựa cứu chủ.

Quân Tào trùng trùng vây khốn Lưu Bị, trong thời khắc giữa sự sống và cái chết, Triệu Vân tìm thấy Mi phu nhân bị trọng thương. Đối diện với có hội sống sót duy nhất đó, cô nhất định không chịu lên ngựa mà nói với Triệu Vân một cách đầy nghĩa khí rằng: "Thiếp gặp được tướng quân, A Đẩu có cơ hội sống rồi. Hy vọng tướng quân có thể thương xót phụ thân của A Đẩu nửa đời long đong chỉ có mình nó là cốt nhục. Tướng quân có thể bảo vệ đứa con này, dẫn nó đến gặp phụ thân, thiếp có chết cũng không ân hận”.

Mi phu nhân vì bảo vệ sự sống cho đứa con không phải do minh sinh ra sẵn sàng nhảy xuống giếng mà chết. Cô không mảy may nghĩ đến tính mệnh của bản thân khiến Triệu Vân đứng giữa vòng vây của quân Tào nỗ lực không ngừng, cứu được tiểu chủ nhân. Vì thế mà được tiểu thuyết ca ngợi: Dùng cái chết để bảo tồn dòng giống họ Lưu, Đấng nam nhi còn thua người phụ nữ trượng phu này. Sự đáng kính của người con gái anh hùng can đảm vì đại nghĩa, hiền đức mạnh mẽ này khác hẳn với sự nhu nhược yếu đuối của Lưu Bị ở trên. Đọc đến đoạn này, độc giả không khỏi cảm thấy rung động. Tinh thần vì đại nghiệp của chồng mà cam tâm tình nguyện hy sinh này khiến cho nhiều đấng mày râu không khỏi thẹn thùng.

Nhưng tình tiết này chỉ là sự hư cấu của nhà tiểu thuyết. Trên thực tế việc Triệu Vân cứu A Đẩu cực kỳ giản đơn. Tam Quốc chí – Triệu Vân truyện chỉ chép là: "Vân mình mang A Đẩu, bảo vệ Cam phu nhân, cùng tránh được nạn”. Còn việc có phải Mi phu nhân cứu được A Đẩu không, chúng ta cũng khó mà biết được nhưng rất có khả năng là cô đã chết trong chiến dịch này. Trong sự chau chuốt nghệ thuật của nhà tiểu thuyết La Quán Trung, hình tượng của Mi phu nhân mới trở nên sinh động và giàu ý nghĩa như chúng ta đã thấy. Đối chiếu với sự thật lịch sử, chúng ta mới thấy hết sự vi diệu của ngòi bút của La tiên sinh.

Kỳ thực khi Mi phu nhân còn sống, Mi phu nhân là thê [vợ cả] còn Cam phu nhân là thiếp [vợ bé], địa vị bao giờ cũng thấp hơn. Nhưng trong Tam Quốc diễn nghĩa mỗi lần nhắc đến đều nói "Cam, Mi hai vị phu nhân” là vì Cam phu nhân sinh hạ Lưu Thiện ở Kinh Châu. Điều này trở thành nguyên nhân khiến Cam phu nhân được đề cao hơn. Cũng vì sinh được con trai kế nghiệp làm hoàng đế nên vị trí của Cam phu nhân trong lịch sử cũng vượt xa Mi phu nhân, sách sử cũng vì thế mà ghi chép nhiều hơn.

Cam phu nhân là một mỹ nữ nổi tiếng thời kỳ Tam Quốc. Sinh ra trong một gia đình nghèo hèn, từ nhỏ Cam thị đã được một người xem tướng nói rằng: "Cô gái này sau này sẽ phú quý vô cùng, được một vị quý nhân nâng đỡ”. Sau khi Lưu Bị khởi binh tại Dự Châu đã nạp Cam thị làm thiếp. Sau đó mấy người vợ cả của Lưu Bị đều đều qua đời, Cam phu nhân vì thế mà trở thành vợ cả. Sau khi Lưu Bị đến Kinh Châu nhờ cậy Lưu Biểu, sinh hạ được A Đẩu. Khi đại quân của Tào Tháo truy đuổi quân của Lưu Bị tại Trường Bản Đương Dương, Lưu Bị bèn vứt bỏ vợ lớn lẫn vợ bé. Hoàn toàn dựa vào một tay Triệu Vân bảo vệ, Cam phu nhân mới thoát khỏi kiếp nạn. Nhưng hồng nhan thì bạc mệnh, sau chiến dịch Xích Bích không lâu, Lưu Bị vừa mới ổn định thì cô "hương tan ngọc nát”, gặp bạo bệnh mất ở tuổi 24. Cả đời Cam phu nhân theo Lưu Bị chạy đông chạy tây, trôi giạt nghèo khổ tương phản hoàn toàn với dự đoán của người xem tướng thuở nhỏ. Cả đời cô ấy chưa từng được hưởng một chút hạnh phúc nào.

Tương truyền dung mạo của Cam phu nhân khi trưởng thành không giống với những phụ nữ bình thường khác. Mười tám tuổi đã trở thành mỹ nữ rất được Lưu Bị mê đắm. Lưu Bị thường để cô cùng ở trong trướng lụa, đứng ở ngoài trời mà nhìn, Cam thị giống như tuyết trắng ngưng tụ dưới ánh trăng vậy.

Ở Hà Nam có người nịnh hót Lưu Bị, dâng tặng một tượng ngọc cao ba thước [khoảng 1m], Lưu Bị đem tượng ngọc này để cạnh Cam phu nhân, thường bắt Cam phu nhân trong đêm phải bỏ hết y phục để so sánh với người ngọc ở bên. Lưu Bị chơi đùa Cam phu nhân không khác gì pho tượng bằng ngọc, thường nói: "Điều quý của ngọc là ở chỗ nó có thể so với cái đức của người quân tử. Hơn nữa lại có thể đẽo tạc thành nhân hình thì khó mà bỏ đi được”. Sự thanh khiết, nồng ấm của Cam phu nhân và tượng ngọc không có sự phân biệt, mọi người nhìn không biết đâu là người ngọc, đâu là Cam phu nhân. Vì thế Cam phu nhân rất muốn phá hủy tượng ngọc. Bà từng khuyên Lưu Bị rằng: "Trước đây Tử Hãn không lấy ngọc làm quý, sách Xuân Thu vì thế mà khen ngợi. Hiện tại Ngô và Ngụy đều chưa diệt được, làm sao có thể vui chơi mà quên chí của mình. Phàm là thứ gì sinh ra dâm cảm đều không nên dùng”. Lưu Bị nghe những lời đại nghĩa của Cam phu nhân mới bỏ tượng ngọc.

Những điều tạo nên hình ảnh tốt đẹp về Cam phu nhân này cũng chính là những tư liệu mà nhà tiểu thuyết muốn sử dụng. Nhưng vì một hình ảnh Lưu Bị rất thích vui chơi hưởng lạc này lại đi ngược với mong muốn xây dựng một hình tượng một chủ công anh minh nhân từ của La Quán Trung vì thế không được sử dụng. Điều này, có thể thấy rõ là xuất phát từ việc phục vụ cho phong cách thống nhất của tác phẩm.

Tổng quan mà xét cuộc đời của Cam, Mi phu nhân và vận mệnh của Mi phu nhân cũng có một chút tựa hồ tốt đẹp: từ thiếp lên địa vị một phu nhân, sau khi chết được Lưu Bị phong làm Hoàng Tư phu nhân. Đến khi hậu chủ Lưu Thiện tức vị đã phong bà thành Chiêu Liệt hoàng hậu, để bà hợp táng cùng Lưu Bị. Nhưng mà sự tôn vinh này cũng chỉ là nhờ có Lưu Thiện, con của bà, chẳng qua là "phú quý nhờ con” mà thôi.

Đến như Mi phu nhân thì số phận quả thực là bất hạnh. Xét cho cùng thì khi Lưu Bị gặp nạn lấy bà, bà vẫn là chính thất nhưng khi Lưu Bị làm hoàng đế thì không còn đoái hoài gì đến bà nữa. Tam Quốc chícủa Trần Thọ cũng không lập cho bà một truyện riêng mà chỉ đề cập đến bà trong một câu của Mi Trúc truyện [Trúc dâng em gái của mình làm phu nhân của tiên chủ]. Có thể nói rằng, lúc còn sống thì gian khổ, khi chết lại im hơi lặng tiếng.

Thật ra điều này cũng không lấy gì làm lạ, ngay trong Tam Quốc diễn nghĩa Lưu Bị đã từng nói rằng: "Anh em như tay chân, vợ con như quần áo vậy thôi” mà y phục thì hoàn toàn có thể tùy tiện vứt bỏ. Bởi vì "quần áo rách, có thể may cái mới, chân tay bị chặt làm sao mà nối được đây?”. Điều đáng nói là đến hồi thứ 54 Tam Quốc diễn nghĩa, sau khi Cam, Mi phu nhân đã chết có đoạn chép: "Huyền Đức từ ngày mất Mi phu nhân, ngày đêm phiền não không thôi”. Xem thấy rõ rằng, Lưu Bị không thể không có vợ ở bên mình được. Thế mới biết khi có thì không biết trân trọng đến khi mất rồi lại thương tiếc khôn nguôi.

Lưu Bị mới là người "thanh lý” Quan Vũ

Phạm Viết Đào

Trong Tam Quốc diễn nghĩa, La Quán Trung mô tả khi nghe tin Quan Vũ bị Đông Ngô bắt giết, Lưu Bị nhiều lần khóc ngất đi và thề sẽ cử binh đánh báo thù cho Quan Vũ mặc cho nhiều tướng khuyên can. Một thủ lĩnh, cầm trong tay binh hùng tướng mạnh như Lưu Bị, đẩy người em kết nghĩa đánh liều mạng vào nơi nguy hiểm, khi bị vỡ trận lại không hề cắt cử quân đi cứu, cho dù trên danh nghĩa, có thể đi mà không cứu được, để cho sự biến xảy ra rồi mới kêu khóc như đàn bà phỏng có tin được?! Việc Quan Vũ bị nguy khốn, Lưu Bị phải biết tin trước hàng tháng trời? Bỏ mặc Quan Vũ tự xoay xở sống chết với quân Ngô, quân Tào, có đúng chỉ là dã tâm của Gia Cát Lượng như chủ kiến của Chu Tử Ngạn và một số học giả Trung Quốc khác đã lên tiếng?

Vào thời điểm đó, Gia Cát Lượng mới giữ chức Quân sư trung lang tướng, giống với công việc của " Nhà thầu tư vấn thiết kế” trong các dự án đầu tư thời hiện đại. Mọi quyết sách chắc chắn nằm trong tay Lưu Bị, Lưu Bị mới là chủ đầu tư, chủ tài khoản của mọi "dự án” khởi binh của nhà Thục Hán. Vào thời điểm phát binh đánh Uyển Thành hoàn toàn khác với giai đoạn bảy lần khởi binh ra Kỳ Sơn sau này của Gia Cát Lượng.

Khi tiến hành các chiến dịch Bắc phạt, Gia Cát Lượng đã được phân cấp, với chức danh Thừa tướng, Gia Cát Lượng thật sự là "chủ đầu tư dự án”, còn hậu chủ Lưu Thiện chỉ sắm vai "chủ quản đầu tư”...Do đó, trách nhiệm về thất bại trong chiến dịch đánh Uyển Thành dẫn đến Quan Vũ bị giết, không thể đổ lên đầu Gia Cát Lượng. Cũng giống như trách nhiệm về 7 lần ra Kỳ Sơn và lần cuối chém chết Nguỵ Diên sau này thuộc về Gia Cát Lượng chứ không thể quy cho hậu chủ Lưu Thiện. Theo chúng tôi nếu Gia Cát Lượng là kẻ "chủ mưu”, là người úm Lưu Bị trong vụ để mất Kinh Châu thì làm sao có thể sống nổi với Lưu Bị được, sau này làm sao Lưu Bị còn phó thác con côi? Chúng tôi đồ rằng, "Dự án đầu tư” phát binh đánh Uyển Thành cho dù do tư vấn lập nhưng đã được bàn tính kỹ, được đích danh Lưu Bị phê duyệt cẩn thận. Khi triển khai dự án này, Lưu Bị đã tính toán kỹ hết các khả năng của cả 3 phương án: thành công mỹ mãn, hoà vốn, gặp rủi ro và thua thảm bại... Một con người già nửa đời cầm quân không thể không so đo tính toán thiệt hơn. " Doanh nhân” Lưu Bị cũng đã rà tính hết tất cả đáp án của các phương án "kinh doanh” kể cả xấu nhất: nếu gặp rủi ro cháy túi thì sẽ tìm cách thu lãi ở "quả” khác, coi như một cú thăm dò thị trường. Phát động chiến dịch quân sự đánh Uyển Thành, Lưu Bị đã có các tính toán sau đây:

1/ Về nội trị :

Khi mới khởi nghiệp, nhà Đông Hán đang ở thời kỳ loạn ly, do đó Lưu, Quan, Trương kết nghĩa với nhau, dựa vào nhau để cùng tồn tại, cùng mưu sự nghiệp lớn. Khi Lưu Bị đã chiếm được Kinh Châu và thu thêm cả Tây Thục thì mối quan hệ Lưu, Quan, Trương từ quan hệ "huynh đệ” chuyển qua quan hệ "vua tôi”, có trên có dưới, giữ nghĩa nhưng phải theo lễ: khuôn phép chứ không còn xuế xoà anh anh, tôi tôi, "ăn cùng mâm, ngủ cùng chiếu” như thuở hàn vi. Đây chính là nguyên nhân mà khi thành đạt nhiều hoàng đế đã chém chết đại thần, những người cũng mình đồng cam cộng khổ trong thời nằm gai nếm mật. Không nói đâu xa, ông tổ của Lưu Bị là Hán Cao Tổ, khi thành đế nghiệp thì diệt luôn Hàn Tín, Trần Bình và bao đại thần khác...

Qua Tam Quốc diễn nghĩa và qua nhiều sử sách cho thấy: Quan Vũ là kẻ kiêu ngạo, cuồng vọng, cậy khoẻ, không coi ai ra gì. Khi đã trở thành hoàng đế, Lưu Bị chắc chắn không khỏi có lúc khó chịu, bị mất mặt vì cá tính giang hồ, thảo khấu đó của Quan Vũ. Chưa nói trong trận Xích Bích, Quan Vũ không lập được công cán gì, giao cho đi đánh chặn Tào Tháo, kẻ thù không đội trời chung của Lưu Bị, vì " nể nang” với tình xưa nghĩa cũ mà tha cho Tào Tháo chạy thoát. Tuy Lưu Bị không xử Quan Vũ theo quân lệnh nhưng chắc chắn trong bụng không ưa gì Quan Vũ.

Khi Lưu Bị vào Tây Thục giao cho Quan Vũ cai quản 9 quận Kinh Tương và 4 quận mới thu về, đáng lẽ được như vậy Quan Vũ phải nhũn nhặn, biết điều, biết ơn huynh trưởng: đối đãi với mình như vậy cũng là hậu. Được ngồi một chỗ "thơm”, chỉ việc đánh cờ, giữ nhà lại không biết thân biết phận còn "tinh tướng”, tỏ thái độ đòi hỏi, suy bì hơn kém với Mã Siêu, Hoàng Trung, khi nghe tin họ có tên trong danh sách được phong Ngũ hổ đại tướng ngang hàng với mình; lúc đầu Quan Vũ có ý định từ chối không nhận. Lưu Bị muốn làm nên đế nghiệp phải dựa vào nhiều người, cho dù Quan Vũ có " thâm niên” theo Lưu Bị hơn, nhưng thử hỏi với những gì Quan Vũ đã làm, được thêm chức lại có quyền, hơn hẳn các tướng khác mà còn chưa chịu thì "huynh” biết xử với "đệ” và các tướng lĩnh khác như thế nào? Theo chúng tôi đó là bất đắc ý nhứ hai của Lưu Bị đối với Quan Vũ.

Đã không bỏ công sức ra nhiều mà lại còn đòi được ngồi ”mâm trên” thì "huynh” cũng phải cho "đệ ” biết thế nào là lễ độ, cho đệ thử một mình cầm quân ra đối địch với quân Tào xem sao, xem đệ có ngông nghênh được không. Cử Quan Vũ mang 3 vạn quân đi đánh Uyển Thành là một việc làm quá sức đối với Quan Vũ. Với việc này, Lưu Bị nhằm mục đích dạy cho Quan Vũ biết lễ độ với mình, biết điều hơn, không "gây gổ” với đám Hoàng Trung, Mã Siêu, Triệu Vân... Đừng tưởng ông anh chú đánh được Ích Châu và Hán Trung ngon xơi lắm. Nếu đệ tài, giỏi, đánh được Uyển Thành thì hoan nghênh đệ, đệ xứng đáng đứng sau huynh và đứng trên đám tướng lĩnh khác; nếu không làm được thì đệ phải biết lễ độ, không được tinh tướng, ra vào, nói năng phải khuôn phép, đừng có động tý lại đỏ mặt lên, lại vuốt râu mà xưng ta đây. Bây giờ huynh là vua của thiên hạ chứ đâu có còn anh anh, tôi tôi với riêng đệ. Huynh không bảo được đệ làm sao bảo được đám quần thần trăm người trăm bụng...

2/ Về ngoại giao:

Sau khi thu phục được Ích Châu, Hán Trung, buộc Tào Tháo phải bỏ của chạy lấy người, cộng với 13 quận Kinh Tương, thế và lực của Bị đã trở nên cực lớn khiến cho cả Ngô, Nguỵ phải kiêng dè. Bản thân Lưu Bị không thể không ngộ nhận, choáng về khả năng và sức lực của mình. Mặt khác tham vọng lãnh thổ, bành trướng đất đai là loại tham vọng không có điểm dừng. Đánh Uyển Thành vừa là "bài thi” Lưu Bị đưa ra để "sát hạch” Quan Vũ, ngoài ra còn là một phản ứng thử thời vận của Lưu Bị. Một con người như Lưu Bị không bao giờ thoả mãn với những gì có trong tay như Lưu Biểu, Lưu Chương, Trương Lỗ... Nếu quả thật "vận số” nhà Hán một "thương hiệu” mà Lưu Bị đang "kinh doanh” đang có hiệu quả, đang "vào cầu”, còn có thể ăn nên làm ra thì biết đâu, phá xong Uyển Thành, quân Tào Tháo nao núng, nhân cơ hội này thôn tính luôn Trung Nguyên. Thời cơ, thời vận không thử, không phiêu lưu làm sao biết được, làm sao đến được... Bao năm Lưu Bị chỉ biết chạy dài và phòng thủ, giờ Lưu Bị chuyển sang "lối đá Hà Lan”, tấn công và gây sức ép toàn sân, hết thảy mọi vị trí, hễ khoan thủng được chỗ nào là ào luôn vào mũi đó...

Sau khi bình xong Tây Thục, Lưu Bị từng giao kèo với Lỗ Túc sẽ trả lại Kinh Châu cho Tôn Quyền, Lưu Bị không muốn trả, tất nhiên Quan Vũ cũng không đời nào chịu buông cái mảnh đất béo bở mà mình đang cai quản. Quan Vũ luôn "cà khịa” với Tôn Quyền, với Lỗ Túc là bởi nếu minh ước này được tuân thủ thì Quan Vũ mất chỗ. Về phía Tôn Quyền thì sau khi đã nhịn nhục gả em gái của mình cho Lưu Bị hơn em mình mấy chục tuổi, mong dùng gái trinh "hối lộ” Lưu Bị mà lấy lại được thêm mấy thước đất cho bõ công cất quân ra đánh nhau với Tào Tháo trong trận Xích Bích và khỏi mất mặt với đám quần thần. Không lấy lại được đất, Tôn Quyền cho bắt em gái về. Mất vợ, Lưu Bị cắt luôn tình giao hảo, minh ước liên minh Ngô Thục này coi như chỉ còn trên giấy. Như vậy khi phái Quan Vũ đánh Uyển Thành, Lưu Bị chắc chắn cũng đã lường trước việc khả năng Tôn Quyền trở mặt đánh úp Kinh Châu; thế tại sao Lưu Bị vẫn cho tiến hành chiến dịch phiêu lưu quân sự này?

Phát động chiến dịch Uyển Thành, một mũi tên Lưu Bị bắn ra nhằm tới nhiều mục đích: Thử thời vận, nếu Tào Tháo đến thời mạt vận thì chơi luôn Tào Tháo; nếu Quan Vũ không làm nên công cán gì thì đây là bài học để dạy cho gã "hãnh tướng” này biết lễ độ; nếu Tôn Quyền thừa cơ bỏ trống Kinh Châu, xông sang "đánh trộm” thì Lưu Bị sẽ có cớ cử đại quân sang nói chuyện phải trái với Tôn Quyền. Quân của Lưu Bị bây giờ đang rỗi, đang sung, đang "ngứa ngáy” chân tay. Nếu không đánh được Nguỵ thì nhất quyết Thục phải quay sang tìm cớ "chơi” Ngô. Chín quận tám mươi mốt châu Giang Nam cũng đáng để Lưu Bị cử binh sang thăm hỏi lắm. Theo chúng tôi đó chính là tính toán, là "tim đen” của Lưu Bị. Về phương diện này những "chí lớn” như Lưu Bị và Gia Cát Lượng ắt đã gặp nhau khi quyết định chiến dịch phiêu lưu quân sự đánh Uyển Thành. Như vâỵ Quan Vũ là một con tốt được Lưu Bị và Gia Cát Lượng ném qua hà, một thứ " tiền đạo cắm” của Lưu Bị xua qua để thử phản ứng, thử thời vận và còn để nhử mồi đao binh... Một vấn đề khi con tốt này gặp nguy nhưng sao cả Lưu Bị lẫn Gia Cát Lượng đều tịnh không có một hành động ứng cứu tượng trưng nào? Gia Cát Lượng ngoảnh mặt đi thì đã rõ, vậy còn "tình nghĩa vườn đào” đối với Lưu Bị chẳng lẽ đã quên? Theo chúng tôi, Lưu Bị chủ trương "thanh lý” con tốt Quan Vũ bởi lợi ích thì ít mà đãi ngộ thì không chừng nào cho vừa. Lưu Bị thí tốt Quan Vũ để có cớ phát động một chiến dịch quân sự lớn nói chuyện phải trái với Đông Ngô. Như vậy "dự án” này sẽ là tiền đề cho một "dự án” khác lớn hơn. Mặt khác nếu Lưu Bị có cử binh đi cứu Quan Vũ thì khi cứu được về Lưu Bị cũng phải chặt đầu Quan Vũ. Bởi lúc này là quan hệ vua tôi chứ không lơ mơ anh anh tôi như trước đây: quân thua chém tướng. Vào triều thì phải đi theo bước của cung phi, một kẻ đầu nóng, tim nóng, ngông ngạo như Quan Vũ thì khó lòng bảo toàn được thủ cấp. Nếu Lưu Bị cứ tiếp tục giữ quan hệ xuề xoà, huynh huynh đệ đệ với một ông mãnh như Quan Vũ thì làm sao sai phái các tướng khác dốc lòng dốc sức.

Khi xưa sau trận Hoa Dung, Quan Vũ tha cho Tào Tháo, nếu là tướng khác thì khó lòng giữ được mạng sống; Lưu Bị cho qua bởi nếu chém Quan Vũ sẽ làm tổn thương đến cái gọi là tình nghĩa anh em trong nội bộ quân mình, là chiêu thức mà Lưu Bị đang cần giương cao để chiêu binh, mãi mã, thu phục nhân tài. Vào thời điểm đó, Lưu Bị đang trong thế thắng và đang cần người do đó chém tướng là điều khó lòng làm công tác tư tưởng với ba quân. Sau trận Uyển Thành, để Tôn Quyền "thịt” Quan Vũ, về chính trị thuận cho Lưu Bị và "được giá” về quân sự vì có cớ cử binh phạt Ngô.

Tào Tháo và Tôn Quyền kẻ sớm người muộn cuối cùng đều đã nhận ra độc chiêu này của Lưu Bị. Do đọc, tính ra nước cờ hiểm này, hiểu rõ tim đen, hiểu rõ thế, lực lẫn cuồng vọng của Lưu Bị nên để đối phó với 3 vạn quân của Quan Vũ, Tào Tháo đã cử năm cánh quân đi cứu viện cộng thêm 10 vạn quân đi sau tiếp ứng, vừa để diễu võ dương oai, vừa nhằm đập tan từ trong trứng cuồng vọng nhòm ngó lãnh thổ của Lưu Bị. Kết cục Quan Vũ đã bị quân Tào đánh cho tơi tả. Do hiểu được cuồng vọng của Lưu Bị và mối quan hệ giữa Lưu Bị và Quan Vũ nên Tào Tháo đã không cho quân truy tới cùng mà nhường chiến công truy sát Quan Vũ, anh hùng nổi tiếng một thời cho Lã Mông, Phan Chương. Đám Trương Chiêu của Tôn Quyền cuối cùng cũng hiểu rõ nước cờ " thí tốt” của Lưu Bị nên mới khuyên mang thủ cấp Quan Vũ nộp Tào Tháo. Tháo biết tỏng âm mưu này nên đã cho làm đám tang cho Quan Vũ còn hậu hơn, đình đám hơn những tướng lĩnh của mình khi chết trận...

Tóm lại cử Quan Vũ xuất binh đánh Uyển Thành là một "dự án cấp nhà nước” đã được Lưu Bị "lập trình phê duyệt” sẵn; Tào Tháo là "nhà doanh nghiệp” lớn nên đã xúc tác, "đầu tư cổ phiếu” cho " dự án” này sớm được triển khai...

Mối quan hệ "kết nghĩa vườn đào thề cùng sống chết” của 3 anh em Lưu, Quan, Trương được người Trung Quốc nhắc tới nhiều suốt gần 2000 năm qua như một thứ khuôn mẫu về tình nghĩa thuỷ chung, sống chết có nhau của những con người cùng chí hướng. Qua những gì diễn ra trong mối quan hệ giữa Lưu Bị và Quan Vũ, theo chúng tôi thứ tình nghĩa "anh anh, em em” này chỉ tinh khiết ở chốn vườn đào, hoặc khi họ còn chung với nhau mái lếu tranh, đang cùng nhau trên đường thiên lý đỏ lửa gian truân. Mỗi khi kẻ đã là vua và người đã thành tôi thì xin chớ có mơ hồ, ai an phận nấy; ai không biết yên chỗ của mình, lộn xộn vượt qua giới hạn thì chỉ có thể nói chuyện với nhau bằng mạng sống... Qua thân phận của Quan Vũ, người em kết nghĩa của Lưu Bị, hậu thế thấy được cái ngọn cờ giả nhân giả nghĩa mà Lưu Bị giương lên đó không chỉ đã che mắt, mê dụ được khối người đương thời mà còn làm cho biết bao bậc thức giả Trung Hoa gần 2000 năm nay vẫn còn xúm vào xây đền, đúc tượng...

Qua vở "kinh” kịch Quan Vũ bị giết ở Uyển Thành, hậu thế nếu nghiên cứu kỹ sẽ có điều kiện hiểu sâu thêm các "đại gia” thời Tam Quốc đã kết nghĩa đồng minh, đã chơi với nhau và đánh lộn nhau như thế nào...

Page 16

Dương Hựu [Dương Hỗ]

Dương Hỗ [chữ Hán: 羊祜; 221-278] còn gọi là Dương Hộ hay Dương Hựu, tên tự là Thúc Tử, người Nam Thành, Thái Sơn, Thanh Châu[1], là nhà chiến lược, nhà quân sự, nhà chính trị và nhà văn nổi tiếng cuối thời Tam Quốc, đầu Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông có vai trò vô cùng quan trọng trong việc trù bị cho công cuộc thôn tính nhà Đông Ngô, thống nhất Trung Quốc.

Dương Hỗ sinh ra trong một gia đình danh môn sĩ tộc, đến ông ta là đời thứ 9 làm quan 2 vương triều Đông Hán – Tào Ngụy, luôn có người nhận lương bổng trên 2000 thạch, đều nổi tiếng thanh liêm.

Ông nội Dương Hỗ là Dương Tục cuối đời Hán nhậm chức thái thú Nam Dương; cha là Dương Đạo làm thái thú Thượng Đảng nhà Tào Ngụy; mẹ là con gái đại danh nho đời Hán, Tả trung lang tướng Sái Ung; chị gái là Dương Huy Du được gả cho Tư Mã Sư [được Tấn Vũ Đế phong làm Cảnh Hiến hoàng hậu]; anh trai cùng mẹ Dương Thừa mất sớm, anh trai khác mẹ Dương Phát cũng mất khi Dương Hỗ vừa trưởng thành.

Năm Dương Hỗ 12 tuổi, Dương Đạo mất, ông vô cùng đau xót, để tang lâu hơn lệ thường. Dương Hỗ cũng phụng sự chú là Dương Đam rất kính cẩn. Trong một lần dạo chơi ở bờ sông Vấn, có một ông già nói với ông rằng: "Đứa trẻ này có tướng tốt, chưa đến 60 tuổi ắt lập được công lớn cho đất nước.” Ông già nói xong thì đi mất, không rõ người ở đâu.

Sau khi trưởng thành, Dương Hỗ bác học đa tài, sành văn chương, giỏi biện luận mà nổi tiếng. Ông có phong tư tiêu sái, mình dài 7 thước 3 tấc, dung mạo đẹp đẽ. Quận tướng Hạ Hầu Uy cho rằng ông không phải người thường, đem con gái của anh cả Hạ Hầu Bá gả cho.

Dương Hỗ dược tiến cử làm Thượng kế lại, quan châu 4 lần mời ông nhận các chức Tòng, sự, Tú tài, Ngũ phủ[2]. Do lúc này trong nội bộ giai cấp thống trị Tào Ngụy đang diễn ra cuộc tranh giành quyền lực giữa 2 tập đoàn họ Tào và họ Tư Mã, mà Dương Hỗ đối với 2 phe đều có quan hệ thân mật, nên ông không nhận lời. Người Thái Nguyên là Quách Dịch sau khi gặp ông, đã nói: "Đây là Nhan Tử thời nay vậy!”

Năm Chính Thủy đầu tiên [240] đời Ngụy chủ Tào Phương, Tào Sảng chiếm được ưu thế, mời Dương Hỗ và Vương Thẩm ra làm quan, Vương khuyên ông nhận lời, Dương Hỗ lại nói: "Nương tựa người ta, sao dễ như vậy!” [chữ Hán: 委质事人,复何容易, Hán Việt: ủy chất sự nhân, phục hà dung dịch].

Năm Chính Thủy thứ 10 [249], Tư Mã Ý phát động sự biến lăng Cao Bình [chữ Hán: 高平陵之变, Hán Việt: Cao Bình lăng chi biến], tiêu diệt Tào Sảng và đồng đảng của ông ta. Cha vợ Dương Hỗ là Hạ Hầu Bá chạy vào nước Thục, Vương Thẩm cũng vì thế mà bị bãi miễn. Vương nói với ông: "Lẽ ra nên nghe theo lời ngài.” Dương Hỗ an ủi ông ta: "Việc này không biết trước được!” Dương Hỗ chính là loại người sáng suốt nhìn thấy trước sự việc, nhưng không tùy tiện nói ra.

Hạ Hầu Bá hàng Thục, thân thuộc sợ liên lụy, phần lớn đều cắt đứt quan hệ với gia đình ông ta, chỉ có Dương Hỗ đến an ủi gia thuộc, chăm sóc thân nhân, gần gũi giúp đỡ còn hơn ngày thường.

Mẹ và anh cả Dương Phát nối nhau qua đời, Dương Hỗ chịu tang hơn 10 năm. Suốt thời gian này, cuộc sống của ông hết sức giản dị, như một bậc đại nho.

Năm Chính Nguyên thứ 2 [255] đời Cao Quý Hương công Tào Mao, Tư Mã Sư bị bệnh mất, Tư Mã Chiêu chấp chính, mời Dương Hỗ làm quan. Dương Hỗ không nhận lời, vì thế triều đình cho công xa đến đón ông làm Trung thư thị lang, không lâu sau thăng làm Cấp sự trung Hoàng môn lang. Khi ấy Ngụy đế Tào Mao yêu thích văn học, nhiều người muốn lấy lòng nên đua nhau dâng lên thơ phú, người Nhữ Nam là Hòa Địch vì thế mà làm trái ý bề trên nên bị quở trách. Dương Hỗ tuy ở trong đám sĩ đại phu, nhưng giữ mình chính trực, không a dua theo mọi người, nên được nhưng người hiểu biết trong triều đặc biệt tôn trọng.

Thời Trần Lưu vương Tào Hoán, Dương Hỗ được phong Quan nội hầu, thực ấp 100 hộ. Dương Hỗ không muốn tiếp tục làm thị tòng cho một ông vua bù nhìn, nên xin được ra ngoài, sau đó được đổi sang làm Bí thư giám.

Tư Mã Chiêu lập ra "ngũ đẳng tước chế”, Dương Hỗ được phong làm Cự bình tử, thực ấp 600 hộ. Bấy giờ Chung Hội rất được sủng ái, nhưng ông ta lại rất hay đố kỵ. Vì thế Dương Hỗ đối với Chung, chỉ dám "kính nhi viễn chi”. Sau khi Chung Hội bị giết, Dương Hỗ nhậm chức Tướng quốc Tòng sự trung lang, cùng với tâm phúc của Tư Mã Chiêu là Tuân Úc nắm giữ cơ mật.

Cuối thời Tào Ngụy, Dương Hỗ được điều sang làm Trung lĩnh quân, coi giữ hoàng cung, thống lĩnh Ngự lâm quân, kiêm quản chính sự trong ngoài.

Tháng 12 năm Hàm Hi thứ 2 [tháng 1/266], Tư Mã Viêm lên ngôi, kiến lập vương triều Tây Tấn, sử gọi là Tấn Vũ Đế. Dương Hỗ vì có công phù lập, được tiến hiệu làm Trung quân tướng quân, gia phong Tán kỵ thường thị, tiến tước quận công, thực ấp 3000 hộ. Dương Hỗ sợ việc này khiến cho bọn quyền thần Giả Sung,… ganh ghét, nên cố từ chối phong công, chỉ nhận tước hầu, do đó, tước cũ Cự Bình tử được tiến phong làm hầu, giữ chức Lang trung lệnh, được phép cắt đặt 9 loại chức quan, phu nhân của ông còn được ban ấn thụ.

Tấn Vũ Đế lại hạ chiếu phong Dương Hỗ làm Thượng thư hữu bộc xạ, Vệ tướng quân, ban cho doanh binh riêng. Bấy giờ Vương Hữu, Giả Sung, Bùi Tú là bề tôi của triều trước, danh cao trọng vọng, Dương Hỗ đối với bọn họ hết sức khiêm nhường.

Năm Thái Thủy thứ 5 [269], Tấn Vũ Đế điều Dương Hỗ làm Kinh Châu chư quân đô đốc, giả tiết, vẫn giữ Tán kỵ thường thị, Vệ tướng quân… như cũ. Sau khi nhậm chức, Dương Hỗ phát hiện hình thế Kinh Châu- Khi ấy, Kinh Châu là vùng đệm giữ 2 nước Tấn – Ngô- rất không ổn định, chẳng những trăm họ sinh hoạt không được yên lành, mà quân đội đóng đồn cũng không đủ lương thực.

Dương Hỗ trước tiên dồn sức phát triển Kinh Châu trên một số phương diện:

Mở rộng trường lớp, chấn hưng giáo dục, an ủi trăm họ, kêu gọi người ở xa đến;

Đối đãi chân thành với người nước Ngô, phàm những người đến đầu hàng, đều có thể tự do quyết định việc đi ở;

Cẩm chỉ việc phá hủy dinh thự cũ. Phong tục bấy giờ, quan chết trong dinh thự của mình, người kế nhiệm cho rằng đất này không lành, sẽ cho dỡ bỏ dinh thự cũ, xây dựng cái mới. Dương Hỗ cho rằng sống chết có mạng, không phải do nơi ở, hạ lệnh nhất loạt nghiêm cấm;

Quan trọng nhất là dùng kế hay khiến nước Ngô dỡ bỏ quân đội đồn trú ở Thạch Thành. Thạch Thành cách Tương Dương 700 dặm, quân Ngô thường xâm phạm biên cảnh, tạo thành sự uy hiếp rất lớn đối với Tương Dương. Nước Ngô dỡ bỏ quân đội ở Thạch Thành, Dương Hỗ không còn lo lắng nữa, chia quân làm 2, một nửa làm nhiệm vụ tuần phòng, một nửa làm ruộng. Năm ấy, toàn quân khai khẩn hơn 800 khoảnh ruộng. Trước khi Dương Hỗ đến, quân đội đến 100 ngày lương cũng không có, sau khi ông đến, lương thực đủ dùng trong 10 năm.

Tấn Vũ Đế biểu dương công tích của ông, hạ lệnh thủ tiêu chức đô đốc Giang Bắc, phong Dương Hỗ làm Trung lang tướng, phụ trách chỉ huy toàn bộ quân đội Hán Đông – Giang Hạ.

Dương Hỗ ở trong doanh trại, thường xuyên khoác áo da, thắt đai lưng rộng, không mặc giáp. Sĩ tốt làm thị vệ cho ông không quá 10 người. Ông còn thích câu cá, săn bắn, thường hay bỏ dỡ công vụ. Có một buổi chiều tối, ông muốn ra ngoài, Quân tư mã Từ Dận cầm kích giữ chặt cửa doanh nói: "Tướng quân coi sóc ngàn dặm, sao lại xem nhẹ! An nguy của tướng quân, cũng là an nguy của quốc gia vậy. Hôm nay Dận chết đi, thì cửa này mới mở ra cho ngài!” Dương Hỗ thay đổi sắc mặt, liên tiếp xin lỗi, từ đó rất ít khi ra ngoài.

Không lâu sau, Dương Hỗ được gia phong Xa kỵ tướng quân, còn được nhận đặc ân Khai phủ Nghi đồng tam tư. Dương Hỗ dâng biểu từ chối nhưng triều đình không chấp nhận.

Năm Thái Thủy thứ 6 [270], tướng Ngô là Lục Kháng đến Kinh Châu nhận chức đô đốc. Dương Hỗ một mặt tăng cường tiến hành bố trí quân sự, một mặt bí mật kiến nghị với Tấn Vũ Đế: Phạt Ngô tất phải tận dụng điều kiện thuận lợi của thượng du Trường Giang, xây dựng thủy quân ở Ích Châu.

Tháng 9 năm Thái Thủy thứ 8 [272], Tây Lăng [3] đốc Bộ Xiển dâng thành hàng Tấn, Lục Kháng đưa quân vây Tây Lăng. Tấn Vũ Đế lệnh cho Dương Hỗ và Ba Tây giám quân Từ Dận cùng đưa quân chia đường tấn công Giang Lăng [4] và Kiến Bình [5], theo 2 mặt đông tây hòng phân tán binh lực của Lục Kháng, còn Kinh Châu thứ sử Dương Triệu sẽ cứu viện Bộ Xiển ở Tây Lăng. Nhưng Lục Kháng đã phá hoại đường xá ở bắc Giang Lăng, khiến cho 5 vạn quân Tấn thiếu lương, gặp nhiều khó khăn, lại thêm thành Giang Lăng kiên cô không dễ công phá. Dương Hỗ đóng quân ở dưới thành không thể tiến thêm. Dương Triệu binh ít lương thiếu bị Lục Kháng đánh bại. Bộ Xiển thành mất, cả họ bị giết. Quan viên hữu tư tấu lên đàn hặc, đòi miễn quan Dương Hỗ. Kết quả, Dương Hỗ vì việc này bị biếm làm Bình Nam tướng quân, Dương Triệu cũng bị biếm làm dân thường.

Sau trận Tây Lăng, Dương Hỗ cho rằng: thế lực của nước Ngô tuy đã suy thoái, nhưng thực lực vẫn còn, đặc biệt Kinh Châu lại có loại tướng lĩnh ưu tú như Lục Kháng chủ trì việc quân, chiến tranh bình Ngô không thể nóng lòng.

Dương Hỗ thực hiện chiến thuật tằm ăn lá, đưa quân chiếm lấy khu vực có vị trí chiến lược ở phía đông Kinh Châu, xây nên 5 tòa thành. Rồi dựa vào khu vực này, giành lấy đất đai nhà cửa, cướp đi tài sản của người Ngô. Vì vậy khu vực phía tây Thạch Thành dần dần bị quân Tấn chiếm lấy, người Ngô kéo nhau đến hàng.

Tại biên giới Kinh Châu, Dương Hỗ đối với trăm họ và quân đội nước ngô bày tỏ những điều tín nghĩa, mỗi lần cùng người Ngô giao chiến đều thương lượng trước về thời gian, không hề bất ngờ tập kích. Đối với bộ tướng có chủ trương đánh lén, Dương Hỗ cho họ uống rượu say, không để họ nói tiếp.

Có bộ hạ ở biên giới bắt được 2 thiếu niên là con trai của tướng lĩnh nước Ngô, sau khi biết tin, Dương Hỗ lập tức lệnh cho người đưa 2 thiếu niên trở về. Về, sau, tướng Ngô là Hạ Tường, Thiệu Hiệt đến quy hàng, cha của 2 chàng trai cũng đưa bộ hạ đến hàng. Tướng Ngô Trần Thượng, Phan Cảnh xâm phạm, Dương Hỗ bắt giết đi, sau đó lại hậu táng, nhằm khen ngợi hành vi tử tiết của họ. Con cháu của 2 người đến nghênh tang, Dương Hỗ dùng lễ trả về. Tướng Ngô Đặng Hương xâm phạm Hạ Khẩu, Dương Hỗ treo thưởng bắt sống ông ta, sau khi bắt được lại thả ra. Đặng Hương cảm ân, đưa bộ hạ đến hàng.

Bộ đội của Dương Hỗ hành quân vào đất Ngô, thu lấy hoa màu, lúa gạo làm quân lương, nhưng mỗi lần như vậy đều căn cứ vào số lượng mà dùng lụa để bồi thường. Khi săn bắn, Dương Hỗ ước thúc bộ hạ, không cho vượt sang bên kia biên giới, nếu quân Tấn bắt được chim thú mà người Ngô bắn bị thương, đều đem trả lại.

Dương Hỗ thực hiện phép "công tâm” rộng rãi, người Ngô yêu mến và khâm phục, vô cùng tôn trọng ông, không gọi tên tục , mà gọi là "Dương công”. Lục Kháng biết rất rõ việc làm của Dương Hỗ, thường răn bảo tướng sĩ: "Người ta chuyên làm việc đức, mình chuyên làm việc bạo, thì đã không đánh mà tự thua vậy!” Dương Hỗ và Lục Kháng thường có sứ giả qua lại. Lục Kháng ca tụng đức hạnh và độ lượng của Dương Hỗ dẫu "Nhạc Nghị và Gia Cát Lượng cũng không hơn được”. Một lần Lục Kháng mắc bệnh, cho người đến xin thuốc Dương Hỗ. Dương Hỗ lập tức phái người mang thuốc đến, tướng Ngô sợ bên trong có âm mưu, khuyên Lục Kháng đừng uống, ông ta không nghi ngờ, còn nói: "Dương Hỗ không phải người hạ độc kẻ khác!”

Dương Hỗ tại biên cảnh, danh tiếng lẫy lừng, còn ở trong triều, lại chịu vùi dập. Ông trung trinh ngay thẳng, ghét ác như thù, chí công vô tư, nên phải chịu sự đố kỵ, căm ghét của bọn Tuân Úc, Phùng Đảm… Cháu bên ngoại của ông là Vương Diễn, từng gặp ông trò chuyện, ngôn từ đẹp đẽ, hùng biện thao thao. Dương Hỗ không xem ra gì, Vương Diễn phủi áo bỏ đi. Dương Hỗ nói: "Vương Di Phủ dựa vào danh tiếng mà ngồi ở ngôi cao, làm hư hỏng nền nếp lề thói, là loại người này vậy!” Trong trận Tây Lăng, Dương Hỗ từng muốn chém Vương Nhung theo quân pháp. Vì vậy, Nhung – Diễn đều oán hận ông, thường hay đàm luận, sàm tấu công kích ông. Người đương thời nói: "Nhị Vương đương quốc, Dương công vô đức!”

Tháng 10 năm Hàm Ninh thứ 2 [276], Tấn Vũ Đế cải phong Dương Hỗ làm Chinh Nam tướng quân, khôi phục những chức vụ đã bị biếm trước đây, bao gồm cả đặc ân Khai phủ Nghi đồng tam tư, được phép chọn quan viên phụ tá.

Ngay từ đầu, Dương Hỗ đã cho rằng muốn phạt Ngô phải nhờ đến thượng du Trường Giang. Khi ấy nước Ngô có câu đồng dao: "A Đồng ơi A Đồng, ngậm dao mà vượt sông, không sợ lính trên bờ, chỉ sợ rồng dưới nước” [chữ Hán: 阿童复阿童,衔刀浮渡江,不畏岸上兽,但畏水中龙, Hán Việt: A Đồng phục A Đồng, hàm đao phù độ giang, bất úy ngạn thượng thú, đãn úy thủy trung long]. Dương Hỗ nghe được, càng tin chắc việc phạt Ngô phải dựa vào thủy quân. Khi ấy, Ích Châu thứ sử Vương Tuấn được triệu về làm Đại tư nông, Dương Hỗ phát hiện Vương Tuấn có thể đảm nhiệm trọng trách, hơn nữa tên lúc nhỏ của ông ta là A Đồng, ứng với câu đồng dao. Nhưng Vương Tuấn lại có nhiều hiềm khích trong triều, Dương Hỗ phải cực lực khẳng định tài năng quân sự của ông ta, chủ trương đáp ứng những yêu cầu của ông ta, để ông ta phát huy tài năng. Dương Hỗ dâng mật biểu, được Tấn Vũ Đế chấp thuận, giữ Vương Tuấn ở lại coi sóc việc quân Ích Châu, gia phong làm Long Tương tướng quân, bí mật lệnh cho ông ta đóng chiến thuyền, chuẩn bị phạt Ngô. Bản thân Dương Hỗ cũng lệnh cho bộ tướng huấn luyện sĩ tốt, sửa sang vũ khí.

Trải qua 7 năm luyện binh và chuẩn bị các thứ vật chất, thực lực của quân Tấn ở Kinh Châu đã vượt xa quân Ngô. 2 năm sau, Lục Kháng bênh mất, nội bộ của nước ngô dưới sự cai trị tàn bạo của Tôn Hạo trở nên mâu thuẫn dữ dội. Dương Hỗ không để lỡ thời cơ, lập tức dâng biểu xin phạt Ngô.

Khi tấu sớ được dâng lên, đa số triều thần do bọn Giả Sung, Tuân Úc,.. cầm đầu, lấy lý do biên giới tây bắc bị người Tiên Ti xâm phạm, chưa thể tính đến đông nam để phản đối, chỉ có thiểu số như Độ chi thượng thư Đỗ Dự, Trung thư lệnh Trương Hoa tán đồng. Vào lúc quân Tấn thua trận ở các châu Tần, Lương…, Dương Hỗ dâng biểu lần thứ 2, cho rằng chỉ cần dẹp yên Trung Nguyên thì ngoại tộc không dám nổi loạn, nhưng vẫn có rất nhiều người phản đối. Ông thấy việc khó thành, ngửa mặt lên trời mà than rằng: "Việc trên đời không như ý, là do muốn 10 mà làm 7, 8. Trời đã cho mà không nhận, chỉ khiến cho đời sau than tiếc mà thôi.”

Năm Hàm Ninh thứ 3 [277], Hạ Khẩu đô đốc Tôn Thận của nước Đông Ngô xâm phạm biên cảnh, cướp đi trên ngàn dân thường ở Dặc Dương, Giang Hạ. Dương Hỗ không phái binh đuổi theo. Tấn Vũ Đế phái người đến điều tra, còn muốn dời trị sở của Kinh Châu. Dương Hỗ cho rằng Giang Hạ cách Tương Dương đến 800 dặm, vừa biết tin giặc đến thì giặc đã đi khỏi cả ngày rồi, không thể cứu viện cũng không thể đuổi theo; giặc vào từ mọi hướng và đến bất kỳ chỗ nào, nếu cứ di dời trị sở để ngăn giặc thì không biết phải di dời bao nhiêu lần. Triều đình đành bỏ qua việc này.

Tháng 8 Hàm Ninh thứ 4 [278], Dương Hỗ bệnh nặng, xin được về triều, được phê chuẩn, ông trở về Lạc Dương. Vừa khi ấy, chị ông là Cảnh Hiến Dương hậu qua đời, ông rất đỗi đau lòng. Tấn Vũ Đế hạ chiếu, mệnh cho ông vào gặp, còn cho phép ông ngồi xe để lên điện, không phải quỳ lạy, còn được nhà vua hành lễ. Dương Hỗ ngồi bên cạnh hoàng đế, lại một lần nữa trần thuật chủ trương bình Ngô. Sau đó, vì bệnh tình của Dương Hỗ ngày càng trầm trọng, không thể vào triều, Tấn Vũ Đế phái Trung thư lệnh Trương Hoa thường xuyên đi lại thăm nom, hỏi han phương lược bình Ngô. Trương Hoa rất tán đồng Dương Hỗ, nên ông nói rằng: "Hoàn thành được chí ta, chính là ngài đó!”

Ban đầu Tấn Vũ Đế muốn Dương Hỗ gượng bệnh chỉ huy cuộc chiến bình Ngô, nhưng bệnh tình ngày một trầm trọng nên ông từ chối, nhân đó tiến cử Đỗ Dự thay thế mình.

Tháng 11 Hàm Ninh thứ 4 [278], Dương Hỗ qua đời, thọ 58 tuổi.

Sau khi Dương Hỗ về triều, Tấn Vũ Đế hạ chiếu lấy 5 huyện của Thái Sơn là Nam Vũ Dương, Mưu, Nam Thành, Lương Phụ, Bình Dương làm quận Nam Thành, phong Dương Hỗ làm Nam Thành hầu, được phép cắt đặt quan chức, cấp bậc tương đương với quận công. Dương Hỗ nhất định từ chối, Tấn Vũ Đế đành phải đồng ý. Dương Hỗ mỗi lần thăng tiến, đều từ chối rất thành khẩn, nên đức danh vang xa, khắp nơi ngưỡng mộ, sĩ đại phu đều nói ông xứng đáng ngồi ở vị trí tể phụ.

Tấn Vũ Đế muốn cậy nhờ Dương Hỗ chủ trì cục diện ở đông nam, nhiều lần mời ông vào triều bàn chuyện. Dương Hỗ làm quan của 2 triều, nắm giữ cơ mật, nhiều việc lớn nhỏ phải làm theo ý kiến của ông, nhưng Dương Hỗ lại không hề mưu cầu quyền thế lợi lộc, những bản thảo hay kiến nghị của ông đều bị đốt bỏ, nên người đời không biết nhiều về ông; người được ông tiến cử đều không biết ai tiến cử mình. Người đương thời vì vậy phê bình ông sống quá kín đáo.

Con rể của Dương Hỗ khuyên ông sắp đặt thân tín bên mình để bảo vệ, ông im lặng. Về sau, Dương Hỗ nói với các con trai rằng: "Việc này có thể nói là biết 1 mà không biết 2. Làm bề tôi mà lấy tư lợi đi ngược công nghĩa, là kẻ gian thần vậy. Các con phải ghi nhớ lấy lời cha!”

Dương Hỗ từng gởi thư cho em họ là Dương Tú, trong thư nói: "Khi nào làm xong việc ở biên cương, sẽ khăn áo về quê tìm một khu đất nhỏ làm phần mộ. Tôi từng nói kẻ sĩ ở ngôi cao, sao có thể không bị người ta trách mình tham lam. Sơ Quảng chính là thầy tôi đó!”

Triêu đình ban cho Dương Hỗ đặc ân Khai phủ [mở phủ riêng, được chọn dùng quan viên và thị vệ hầu hạ trong phủ] đã nhiều năm, nhưng Dương Hỗ đều khiêm nhường, không chịu chọn dùng thuộc hạ cho mình.

Dương Hỗ rất yêu thích sông núi, khi còn ở Kinh Châu vào ngày trời đẹp, nhất định muốn lên Hiện Sơn, uống rượu ngắm cảnh, ngâm vịnh vui chơi, hết ngày vẫn không muốn về. Có một lần ông nhìn cảnh núi non đẹp đẽ, bỗng nhiên than thở, nói với bọn Tòng sự trung lang Trâu Trạm: "Từ khi có vũ trụ, đã có núi này. Những người hiền đạt đã đến đây, lên núi ngắm cảnh này, như tôi và các ông có rất nhiều! Nay đều như khói tan đi, không còn ai nhớ đến, khiến cho người ta thấy ngậm ngùi. Trăm năm sau nếu còn nhớ đến, hồn phách [của tôi] sẽ lên chơi núi này lần nữa!” Trâu Trạm nói: "Công đức của ngày rộng lớn như bốn biển, thanh danh của ngài sẽ như núi này lưu truyền hậu thế. Chỉ có nhưng người như bọn Trạm mới đúng như lời ngài nói!”.

Dương Hỗ mất, mọi người đều thương xót. Tấn Vũ Đế mặc tang phục mà khóc lớn, khi ấy trời rét đậm, nước mắt của Vũ Đế đọng lại trên râu, đều hóa thành băng cả. Trăm họ Kinh Châu vào ngày họp chợ, nghe tin Dương Hỗ mất, khóc lớn mà bãi chợ, đường lớn hẻm nhỏ đều có tiếng thương khóc, liên miên không dứt. Tướng sĩ nước Ngô ở biên giới cũng vì Dương Hỗ mà rơi nước mắt. Nhân đức của ông cảm động cả trời đất.

Tấn Vũ Đế ban cho Dương Hỗ Đông Viên bí khí, một bộ triều phục, tiền tang lễ 30 vạn, 100 xúc vải, rồi hạ chiếu truy tặng Dương Hỗ làm thị trung, thái phó, giữ tiết như cũ.

Dương Hỗ một đời thanh liêm kiệm phác, áo mặc đều dùng vải, nhận được bổng lộc, đều đem phân phát cho họ hàng, khen thưởng tướng sĩ, vì thế trong nhà không dư dả tiền bạc. Dương Hỗ lâm chung dặn lại không cho đem ấn thụ hầu tước nhập quan. Dương Tú bẩm lên nguyện vọng của Dương Hỗ, xin được chôn ở phần đất của tổ tiên, Vũ Đế không đồng ý, đặc biệt ban cho 1 khoảnh đất gần khu vực hoàng lăng, ở ngoài thành chừng 10 dặm, còn ban cho thụy hiệu là "Thành”. Khi đội ngũ tống táng lên đường, Vũ Đế tự mình đến cửa nam Đại Tư Mã tiễn đưa. Cháu ngoại Dương Hỗ là Tư Mã Du dâng biểu, thuật lại lời của vợ ông không muốn an táng chồng theo nghi lễ hầu tước, Vũ Đế hạ chiếu đồng ý, nhằm đề cao danh tiết của Dương Hỗ.

Trăm họ Tương Dương vì muốn kỷ niệm ông, ở nơi Dương Hỗ khi còn sống rất thích đến chơi là Hiện Sơn, đã lập một tấm bia, bên cạnh dựng một tòa miếu, bốn mùa khói hương không dứt. Vì mọi người nhìn thấy bia đá đều rơi nước mắt, Đỗ Dự mới gọi đây là "Đọa Lệ bi”. Người Kinh Châu kỵ húy Dương Hỗ, đem chữ "Hộ” có nghĩa là nhà cửa đổi thành chữ "Môn” [vì người Giang Nam đọc 祜 là Hộ], đem chữ "hộ tào” đổi thành "từ tào”.

Sau khi ông mất được 2 năm, Tấn diệt Ngô, quần thần chúc mừng Tấn Vũ Đế, Vũ Đế rơi nước mắt nói: "Đây là công lao của Dương thái phó!” Rồi đem công lao bình Ngô viết thành sách, đem đốt ở miếu của Dương Hỗ để cáo cho ông biết. Lại theo lệ cũ của nhà Hán đối với Tiêu Hà, gia phong phu nhân của ông là Hạ Hầu thị làm Vạn tuế hương quân, thực ấp 5000 hộ, hàng vạn xúc lụa, hàng vạn hộc ngũ cốc.

Dương Hỗ khi còn sống đã viết "Lão tử truyện” và một số tác phẩm khác, được lưu truyền rộng rãi nhưng ngày nay đều không còn. Ông ngâm vịnh ở Hiện Sơn, đều dùng thi phú do mình tự sáng tác, đáng tiếc không rõ tại sao lại không được lưu truyền.

Dương Hỗ cũng viết một lượng lớn biểu, sớ, tiên, khải, lưu truyền đến nay còn: 《nhượng khai phủ biểu》, 《nhượng phong Nam Thành hầu biểu》, 《thỉnh phạt Ngô sớ》, 《tái thỉnh phạt Ngô biểu》, 《tái thỉnh phạt Ngô sớ》, 《hạ thái tử tiên 》, 《Giả Sung lưu thủ khải 》, 《Vương Tuấn lưu thủ Ích Châu biểu 》, 《cải Bình Dương vi Tân Thái biểu》. Dương Hỗ còn viết một số thư tín, này còn lại: 《Giới Tử thư》, 《dữ tòng đệ Tú thư》, 《dữ Ngô đô đốc Lục Kháng thư》…

Dương Hỗ là người biên soạn chủ yếu các sách "Tấn lễ”, Tấn luật”.

1. Nay là Dương Lưu, Tân Thái, Sơn Đông

2. 5 loại quan chức thời cổ đại, không nhất định là những chức quan nào

3. Nay là Nghi Xương, Hồ Bắc

4. Nay là Giang Lăng, Hồ Bắc

5. Nay là huyện Vu, Tứ Xuyên.

Page 17

Tôn Thượng Hương [Tiếng Trung Quốc phồn thể: 孫尚香, giản thể: 孙尚香; bính âm: Sūn Shàngxiāng] hay Tôn phu nhân [孫夫人] là con gái duy nhất của Tôn Kiên. Bà có 5 người anh trai trong đó anh cả là Tôn Sách và anh hai là Tôn Quyền. Bà từng được gả làm vợ Lưu Bị.

Năm 209, Tôn Thượng Hương được gả cho Lưu Bị nhằm giữ vững mối hòa hiệp trong liên minhNgô-Thục. Vào lúc đó, bà mới hơn 20 tuổi. Do cả hai bà vợ trước đó của Lưu Bị đều đã mất, Tôn Thượng Hương dần dần kiểm soát nhà và con [Lưu Thiện] của Lưu Bị.

Tôn Thượng Hương lần đầu tiên ra mắt trong “Tam Quốc diễn nghĩa” đã bị Lỗ Túc mượn cớ. Lỗ Túc đã hiến kế với chúa công Tôn Quyền cho Lưu Bị kết hôn với công chúa “cực kỳ hữu dụng, có hàng tá người hầu luôn mang theo đao bên mình, trong phòng binh khí để khắp nơi, mặc cho nam tử không đề phòng”. Trong miệng Lỗ Túc thì Tôn Thượng Hương là một cô gái ngổ ngáo bướng bỉnh, đến miệng bà mai mối đã trở thành một cô gái “ngoan hiền”. Lưu Bị đã cho thuyền tới để cưới công chúa “ngổ ngáo” của nước Đông Ngô. Không ngờ rằng trong đêm động phòng, Lưu Bị đã bị Tôn Thượng Hương đâm bằng dao, đao kiếm khiến người tỳ nữ hoảng sợ. Tôn Thượng Hương thấy tình hình như vậy bèn nói một câu: “Chém giết nửa đời người, sợ gì binh đao!”

Hai năm sau, mối quan hệ giữa Ngô và Thục bắt đầu căng thẳng. Tôn Thượng Hương quay trở về với anh trai của mình là Tôn Quyền. Theo những gì Triệu Vân viết thì bà định mang theo con trai của Lưu Bị là Lưu Thiện với mình. Tuy nhiên đã bị Trương Phi và Triệu Vân chặn lại. Sau khi hai bên thương thuyết, Tôn Thượng Hương để lại Lưu Thiện về nước Ngô.

Kể từ đây hôn nhân giữa bà và Lưu Bị chấm dứt. Bà không bao giờ gặp lại Lưu Bị, và sử sách cũng không có nói gì đến chuyện bà tái giá.

Cũng có chuyện kể rằng sau khi Lưu Bị qua đời, bà đã trầm mình xuống sông tự vẫn.

Theo Tam quốc diễn nghĩa, sau trận Di Lăng có kẻ phao tin Lưu Bị chết, bà đã trầm mình xuống sông tự vẫn. Có Miếu thờ bà bên đấy, gọi là miếu Khiêu Cơ.

Trong Tam quốc diễn nghĩa, bà được miêu tả là người có tính khí nóng nảy và rất cứng đầu.

Tiểu thuyết nói rằng bà hay gây rắc rối và thường các tướng sĩ của Lưu Bị phải để mắt đến Tôn phu nhân.

Tôn Thượng Hương với tư cách là vợ Lưu Bị cũng hai lần bị sử dụng trong các mưu kế của Chu Du và Tôn Quyền nhằm mục đích chống phá nhà Thục.

Page 18

Một phần của thời Tam Quốc

Thời gian: 222

Địa điểm: Di Lăng, Hồ Bắc

Kết quả: Đông Ngô thắng lợi hoàn toàn, Thục Hán đại bại

Tham chiến: Thục Hán & Đông Ngô

Chỉ huy: Lưu Bị & Lục Tốn

Lực lượng: 40.000 & 50.000

Trận Di Lăng [夷陵之戰] hay còn gọi là trận Khiêu Đình [猇亭之戰] [năm 222], là trận chiến ở thời Tam Quốc giữa nước Thục Hán và nước Đông Ngô.

Lưu Bị, vua Thục Hán, tức giận trước việc người em kết nghĩa của ông là Quan Vũ bị quân Đông Ngô sát hại đã tiến quân đánh đến Di Lăng. Lưu Bị mang theo khoảng 700.000 quân. Vài ngày trước khi quân Thục tiến quân đánh Ngô, Trương Phi, một người em kết nghĩa khác của Lưu Bị đã bị giết bởi vài tên lính của mình. Chúng báo thù việc bị Trương Phi phạt đánh và mang thủ cấp Trương Phi chạy sang hàng Đông Ngô. Điều này càng khiến Lưu Bị thêm căm phẫn, và ông tấn công quân Ngô mà không nghe theo lời khuyên của thừa tướng Gia Cát Lượng. Tất cả tướng lĩnh và binh lính của Thục được động viên cho trận chiến báo thù này, ngoại trừ Gia Cát Lượng, và Triệu Vân, những người phản đối và bị Lưu Bị ra lệnh ở lại phía sau.

Ban đầu, Lưu Bị chiến thắng liên tiếp, tiến sâu vào lãnh thổ của Ngô. Quân Thục chủ yếu là bộ binh, mạnh khi giao chiến ở vùng núi, càng vào sâu lãnh thổ của Ngô, địa hình càng trở nên bằng phẳng, thuận lợi cho quân Ngô chủ yếu là kị binh và thủy quân.

Trong trận Di Lăng, Lục Tốn, một tướng trẻ Đông Ngô được lệnh chỉ huy quân đội. Theo chiến thuật của ông, quân Ngô không giao chiến ở vùng núi, lui quân về củng cố lực lượng. Khi quân Thục tiến vào cũng là lúc sang hè. Quân Lưu Bị đóng trại cạnh một cánh rừng, dụ quân của Lục Tốn ra đánh nhưng Lục Tốn đóng cổng thành cố thủ. Trời nắng nóng khiến quân Thục mệt mỏi. Không có Gia Cát Lượng, Lưu Bị không hiểu binh pháp ra lệnh chuyển trại vào rừng, dù tướng Mã Lương can ngăn. Lục Tốn dùng kế hỏa công cho lính bắn tên lửa đốt sạch doanh trại của quân Thục. Lưu Bị thua to, tìm đường chạy thoát, rút về thành Bạch Đế, còn lại chỉ 100 quân.

Nhiều tướng tài chết trong trận chiến Di Lăng. Mã Lương, quân sư của Lưu Bị trong chiến dịch tiến quân báo thù và là người can ngăn Lưu Bị hạ trại trong rừng, tử trận. Lưu Bị, đau buồn sau cái chết của hai người em kết nghĩa và sau thất bại nặng nề, ốm chết ở thành Bạch Đế.

Page 19

Ở Trung Quốc, ai ai cũng biết kiệt tác văn học cổ điển "Tam Quốc Diễn Nghĩa”. Trong mấy thế kỷ qua, cảnh tượng chiến tranh như sóng tràn bờ, hình tượng nhân vật sinh động, tình tiết câu chuyện đấu trí đấu dũng, sinh động lý thú trong bộ "Tam Quốc Diễn Nghĩa” luôn được nhân dân Trung Quốc ưa thích, và cũng là vấn đề nhiều học giả nghiên cứu trường kỳ.

Tác giả La Quán Trung sống trong thế kỷ 14. Gia đình ông có bầu không khí văn hóa nồng nàn, từ thuở nhỏ ông thích đọc sách, đọc nhiều sách kinh sử, các thứ này đã đặt cơ sở sáng tác tốt đẹp cho ông sáng tác văn học về sau. Thời đại La Quán Trung sinh sống là thời đại có mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp hết sức gay gắt phức tạp, quý tộc dân tộc Mông Cổ xây dựng chính quyền đời Nguyên, thực thi thống trị đàn áp đối với dân tộc Hán, dẫn đến đông đảo nhân dân dân tộc Hán chống đối, các nơi đều xuất hiện quân khởi nghĩa. Các nghĩa quân không những chiến đấu với quân đội nhà Nguyên, mà còn thôn tính nhau, mong lật đổ nhà Nguyên và thống trị cả Trung Quốc. La Quán Trung trẻ tuổi tham gia một quân khởi nghĩa, nhậm chức tham mưu. Lúc đó, La Quán Trung ấp ủ hoài bão chính trị, mong mình có thể lên ngôi vua quản lý đất nước trong thời buổi loạn lạc. Sau đó, quân khởi nghĩa do Chu Nguyên Chương dẫn đầu giành được thắng lợi cuối cùng, xây dựng vương triều nhà Minh, hoài bão chính trị của La Quán Trung bị tan vỡ, ông bèn ở ẩn và bắt đầu sáng tác văn học.

Bộ "Tam Quốc Diễn Nghĩa” kể câu chuyện lịch sử phức tạp trong 100 năm từ năm 184 đến năm 280 công nguyên. La Quán Trung thu thập nhiều tài liệu lịch sử, tạp ký, những truyện ít ai biết đến, tiểu thuyết dã sử và truyền thuyết dân gian về Tam Quốc, dung hợp hoài bão chính trị và sự từng trải cuộc sống chiến tranh khi tham gia quân khởi nghĩa nông dân của mình, tái hiện sinh động lịch sử đấu tranh chính trị và quân sự giữa ba nước Ngụy, Thục, Ngô.

Bộ "Tam Quốc Diễn Nghĩa” đạt thành tựu nghệ thuật trong các mặt. Thông qua kể lại các cuộc đấu tranh khủng khiếp về chính trị và quân sự, bằng các loại phương pháp nghệ thuật, tác giả đã xây dựng thành công hàng loạt hình tượng nhân vật rõ rệt. Trong hơn 400 nhân vật trong bộ sách, tác giả ra sức miêu tả mấy chục nhân vật có tính cách nhân vật rõ rệt. Ví dụ, nhà vua nước Ngụy Tào Tháo giỏi về sử dụng mưu trí và tính tình nham hiểm đa nghi, quân sư nước Thục Gia Cát Lượng nhiều mưu trí, đại tướng nước Thục Trương Phi dũng mãnh phóng khoáng và cẩn thận, nguyên soái nước Ngô Chu Du nhanh trí hiếu thắng mà lòng dạ hẹp hòi v.v., đều là những nhân vật điển hình ai ai cũng biết.

Bộ "Tam Quốc Diễn Nghĩa” do La Quán Trung sáng tác không những có giá trị văn học quan trọng, mà còn là một tác phẩm kiểu bách khoa toàn thư về xã hội phong kiến, nó miêu tả về các mặt xã hội lúc đó. Ở Trung Quốc, ngày càng nhiều chuyên gia, học giả nghiên cứu kiệt tác "Tam Quốc Diễn Nghĩa”, họ nghiên cứu giá trị văn hoá và ý nghĩa hiện thực của nó từ nhiều góc độ như sử học, nhân tài học, tâm lý học, truyền thông quan hệ công chúng, mưu lược học, quản lý học, quân sự học, nghệ thuật học và luân lý học v.v.

Bộ "Tam Quốc Diễn Nghĩa” cũng nhận được sự ưa thích của nhân dân các nước trên thế giới. Nó được dịch sang nhiều thứ tiếng ngoại ngữ, lưu truyền trên thế giới, và được gọi là "Một bộ kiệt tác thật sự mang tính nhân dân phong phú”.

Page 20

Mao Tôn Cương

Người dịch: Phan Kế Bính

Hiệu đính: Bùi Kỷ


ĐỂ HIỂU TAM QUỐC CHÍ DIỄN NGHĨA ...

I
Tam quốc diễn nghĩa nguyên tên là Tam Quốc chí thông tục diễn nghĩa, là một bộ tiểu thuyết cổ điển dài, được nhân dân ưa thích nhất, và lưu truyền rộng rãi như truyện Thuỷ Hử, lại là bộ tiểu thuyết lịch sử thông tục độc đáo của Trung Quốc. Tác giả là La Quán Trung.

La Quán Trung tên là Bản, tên chữ là Quán Trung, lại có biệt hiệu là: "Hồ Hải tản nhân”, có thể là người Thái Nguyên [còn có những thuyết nói ông là người Lư Lăng, Tiền Đương, Đông Nguyên v.v...]. Ông sinh vào cuối đời Nguyên, mất vào đầu đời Minh, ước chừng vào khoảng năm 1330 đến năm 1400 giữa thời thống trị của Nguyên Thuận Đế [Thoát Hoan Thiếp Mộc Nhĩ] và Minh Thái Tổ [Chu Nguyên Chương].

Ông rất có tài văn chương, rất giỏi về từ khúc câu đó, lại việt cả các loại kích, nhưng tổi tiếng nhất là về tiểu thuyết.

Về tiểu thuyết thì ngoài Tam Quốc ra, tương truyền có tất cả hơn mười bộ, như nay ta biết còn có: Tuỳ đường chí, Tần Đường ngũ đại sử diễn nghĩa, Tam Toại bình yêu truyện v.v... [Hiện nay những bản còn lưu truyền đã bị người đời sau sửa đổi, viết lại, không còn là nguyên bản của ông nữa]; lại có truyền thuyết rằng: La Quán Trung cũng là một người tham gia soạn và chỉnh biện truyện Thuỷ Hử. Bạn của ông nói: tính tình ông "ít hoà hợp với mọi người” vì "thời thế nhiễu nhương nhiều biến cố” nên ông đi lang bạt các nơi, về sau "không biết đời ông kết cục ra sao”.

Những truyền thuyết về sau này còn nhắc tới việc ông tham gia hoạt động trong cuộc khởi nghĩa của nông dân, từng có quan hệ với Trương Sĩ Thành, là một trong những người "có chí mưu đồ sự nghiệp bá vương”. Tiếc rằng tình hình tường tận thế nào nay không thể biết rõ được.

Tam Quốc diễn nghĩa tuy về phương diện biên soạn chủ yếu là công lao của La Quán Trung, từ lâu, truyện Tam Quốc đã lưu truyền rộng rãi trong dân gian, nói cách khác, nhân dân quần chúng đã sớm sáng tạo ra những nhân vật điển hình và nhân vật lịch sử Tam Quốc. Đời nhà Đường có một nhà thơ, trong khi viết thơ tả về chuyện đùa giỡn của trẻ em đã ghi: "Hoặc giễu Trương Phi đen, hoặc cười Đặng Ngải nói lắp”, trong đó chẳng phải đã ẩn hiện hình tượng của một Trương Phi lỗ mãng đó sao? Có thể chứng minh rằng ở thời đó một số nhân vật và sự tích trong truyện Tam Quốc đã rất phổ biến tới mức độ mọi nhà đều biết, đàn bà trẻ con đều hay. Thời Bắc Tống có một nhà văn cũng ghi lại rằng ở thông quê, lúc trẻ con quấy, nghịch, người nhà thường cho tiền chúng tụ họp nhau lại ngồi nghe kể chuyện Tam Quốc. Đồng thời vì đời Tống nền kinh tế thương phẩm thành thị từ trước chưa bao giờ phát đạt như vậy, yêu cầu về sinh hoạt văn hoá của các tầng lớp của nhân dân thành thị ngày càng tăng lên, nên truyện Tam Quốc ngày càng thịnh hành. Cứ xem trong các môn, loại " chuyện kể” ở những đô thị lớn tới bấy giờ đã có riêng mục "kể chuyện Tam quốc” thì có thể biết rằng Tam Quốc cũng là một mục được quần chúng đô thị ưa thích nhất. Thời kỳ Nam Tống, lời ghi của nhà thơ, "Tào công đại chiến” [trận Xích Bích] là điển tích trang trí của đèn kéo quân trong dịp tết Nguyên Tiêu [tết rằm tháng giêng]. Đến triều Nguyên đã có bản in "toàn tướng Tam Quốc chí bình thoại”, nửa tranh, nửa chữ, đây là dấu vết của "chuyện kể” bằng miệng dần dần được ghi chép lại bằng chữ, bản viết được hình thành cũng chứng tỏ rằng chuyện Tam Quốc đã rất được lưu hành và phát triển. Ngoài ra, đời Nguyên là thời kỳ kịch hát rất thịnh, cứ xem những tiết mục không được đầy đủ của người đời Nguyên còn giữ lại đến nay, chuyện Tam Quốc cũng như Thủy Hử đều được các nhà viết kịch lịch sử thường lấy làm đề tài.

Trong khi dân gian truyền miệng, các nghệ nhan kể chuyện, các nhà văn học nghệ thuật viết kịch, diễn kịch không ngừng sáng tạo, làm cho những tình tiết câu chuyện và hình tượng nhân vật phong phú thêm.

Cuối đời Nguyên đầu đời MInh nhà tiểu thuyết La Quán Trung đã viết bộ Tam Quốc chí thông tục diễn nghĩa chính là đã dựa trên cơ sở sáng tác tập thể rất hùng hậu đó của quần chúng nhân dân. Dĩ nhiên trong khi viết, ông có tham khảo những bản ghi chép của các nhà viết sử và các nhà văn khác. nhưng quan trọng hơn, là phần thể nghiệm cuộc sống phong phú của bản thân ông và tài năng văn học kiệt xuất của ông. Một trong những bản Tam Quốc diễn nghĩa ra đời sớm nhất hiện nay còn giữ được bản in năm Giáp Dần niên hiệu Hoằng Trị đời Minh [1494], năm Nhâm ngọ Gia Tĩnh [1522] gồm 24 cuốn 240 tiết.

Từ đó về sau, đến đời Minh nhiều bản Tam Quốc [nội dung đều không có gì khác nhau lắm] đã lưu hành gần 300 năm. Đầu đời Thanh, hai cha con Mao Luận, Mao Tôn Cương [người Trần Châu, tình Giang Tô] lại bắt đầu tu đính truyện Tam Quốc. Công việc tu đính này hoàn thành vào khoảng năm Khang Hy thứ 18 [1679] hoặc sớm hơn một chút. Họ chỉ gia công, thêm bớt, nhuận sắc những chi tiết nhỏ, và thêm vào đó những lời bàn, dồn 240 tiết thành 120 hồi, lại đặt cho bộ Tam Quốc cái tên là " cuống sách đệ nhất tài tử”. Từ đó bản của Mao tôn Cương thay bản của La Quán Trung tiếp tục được lưu truyền rộng rãi.

Truyện Tam Quốc của La Quán Trung so với bản truyện kể của đời Nguyên, đại khái có mấy đặc điểm như sau:

1. Tước bớt một số phần mê tín, nhân quả báo ứng và những tình tiết "quá ư hoang đường”.
2. Viết thêm, làm nội dung cuốn truyện phong phú lên rất nhiều, tô vẽ tính cách và hình tượng nhận vật cho sâu sắc, đậm nét hơn.

3. Nâng cao ngôn ngữ đến mức nghệ thuật, tăng cường thêm sức hấp dẫn của nghệ thuật.

4. Làm nổi bật lên một cách rõ ràng và mãnh liệt nhân dân tính và xu hướng tính văn học là yêu Lưu Bị, ghét Tào Tháo, hướng về Thục chống lại Ngụy trong toàn cuốn sách.

Nói tóm lại, La Quán Trung đã đem những phần phong phú trong truyện Tam Quốc mà quần chúng nhân dân và những nghệ nhân kể chuyên đã sáng tác ra, nâng cao lên thành một tác phẩm văn học lớn lao nổi tiếng. Còn bản của Mao Tôn Cương chẳng qua có thêm bớt ít câu, ít chữ, sửa chữa một số chi tiết nhỏ trong truyện, sắp xếp lại các hồi mục, câu đối, sửa chữa lại câu, lời trùng hoặc những chỗ chưa thỏa đáng trong bản cũ. Mao Ton Cương đã tước bỏ rất nhiều những chương tấu, những bài bình luận, tán rộng trong phần chú thích, thay đổi một số câu thơ lẫn lộn văn kể với văn vần v.v... làm cho truyện càng hoàn chỉnh, văn vẻ, trong sáng, gọt giũa, trên một mức độ nào đó tcũng đã làm tiện lợi cho mọi quần chúng độc giả. Vì vậy công việc tu đính đó có thể nói là có ích đối với bản cũ. Do đó, bản của Mao Tôn Cương có thể thay thế được bản cũ thịnh hành trong 300 năm và cũng vì thế ngày nay chỉnh lí ít lại trong bộ Tam Quốc, chúng tôi đã dựa vào bản của Mao Tôn Cương.

II
Trong lịch sử, việc chính thức dựng nước của ba nước [Tam Quốc] Ngụy, Thục, Ngô bắt đầu từ năm 220 công lịch. Tào Phi phế Hiến đế [Lưu Hiệp] nhà Đông Hán lên ngôi vua đổi tên nước là Ngụy. Năm 221 Lưu Bị lên ngôi vua đổi tên nước là Thục Hán. Năm 222 Tôn Quyền cũng đổi niên hiệu là Hoàng Vũ, bắt đấu chống Ngụy, đến năm 229 xứng đế ở Giang Đông[ Ngô đại đế]\, lấy tên nước là Ngô.

Năm 263 công lịch, Ngụy diệt Thục Hán trước. Năm 265 Tư Mã Viêm phế Ngụy Tràn Lưu vương [Tào Hoán], tự xưng là nhà Tấn. Năm 280 Tấn lại diệt Ngô. Đến đó Tam Quốc đều bị Tấn tiêu diệt, trở lại thống nhất. Cho nên toàn bộ lịch trình của tam Quốc phải là lịch trình 60 năm, từ năm 220 đến 280. Chẳng qua từ năm 212 Tôn Quyền sang đóng đô ở Kiến Nghiệp, năm sau Tào Tháo tự xưng Ngụy Công. Lai đến năm sau Lưu Bị vào Thành Đô kẻ từ khi lĩnh chức Mục ở Ích Châu, cái thế chân vạc của Tam Quốc thực tế đã hình thành.

Dĩ nhiên muốn tìm rõ căn nguyên cội rễ của Tam Quốc, thì phải tìm ngược trở lên, phải nói từ cuộc khởi nghĩa lớn của quân Khăn Vàng cuối đời Hán, vì ba cái tập đoàn quân phiệt Ngụy, Thục, Nô đã hoài thai và trưởng thành trong suốt quá trình giai cấp thống trị phong kiến trấn áp quân khởi nghĩa. Quan Khăn Vàng khởi sự năm 184 công lịch [năm đầu niên hiệu Trung Bình đời Đông Hán Linh đế], vì vậy người ta quan niệm thời gian lịch sử Tam Quốc kể từ năm 184 đến gần 280 gần suốt cả thời gian một thế kỷ.

Bộ truyện hoàn toàn đúng như vậy viết thẳng một mạch từ khởi nghĩa Khăn Vàng đến Tư Mã Viêm thống nhất toàn Quốc. Cứ nhìn vào lịch sử đó là thời đại rất hỗn loạn, nhân dân chịu nhiêu tai nạn nặng nề.

Cuối đời Đông Hán, đến thời kỳ Hoàn Đế Lưu Chí, Linh đế Lưu Hoằng, tình hình đen tối thối nát đến cực điểm. Nhà vua cầm đầu công khai bán quan tước, tước tam công giá 10 triệu tiền. Ngoại tộc, hoạn quan tham tàn ngang ngược, bạc ác trăm bề, đánh lộn lẫn nhau, thành ra những "quan kẻ cướp”, ví dụ: người ngoại tộc Lương Kí trong nhà có tới 3 tỉ tiền. Hoạn quan Hầu Lãm cướp của người khác 100 khoảnh ruộng, hơn 280 ngôi nhà. Họ hàng thân thích của chúng rải rác khắp châu quận, chuyên môn vơ vét hút máu mủ của nhân dân. Đại đại chủ quan liêu thời ấy càng sẵn có thế lực hùng hậu, bọn tay chân dồ đệ kết thành những tập đoàn ra sức thôn tính đất đai, bóc lột nông dân thảm khốc, thường biến thành những bọn quân phiệt võ trang trực tiếp chém giết nhân dân.

Vì chính trị thối nát như vậy, để điều không sửa chữa, xảy ra lụt to, hạn hán lớn hết năm này qua năm khác, thường thường có đến mấy chụ vàn nhà đói khát lầm thân, thậm chí "có nhà chết đến 4,5 người, có nhà chết hết”. Thời kì chính trị thối nát ấy cũng là thời kì mâu thuẫn giai cấp sâu sắc nhất của xã hội phong kiên Đông Hán. Kết cục nông dân do Trương Giác lãnh đạo đã nổi lên chống cự với một quy mô rất lớn, các nơi hưởng ứng rầm rầm, tổng số quan khởi nghĩa lên rất nhanh tới mấy chục vạn người, thanh thế lừng lẫy, xưa nay chưa từng có. vì điều kiện lịch sử hạn chế, vì những cuộc đàn áp đẫm máu của giai cấp đại địa chủ và tập đoàn thống trị, nên quân khởi nghĩa Khăn Vàng anh dũng và những nghĩa quân nổi dậy sau đó đều liên tiếp bị thất bại. Nhan dân bị chém giết gần 20 vạn, nhưng chính quyền của nước Đông Hán cũng bị lung lay suy yếu nhiều, cuối cùng đi đến sụp đổ. Giai đoạn đầu là tình thế trung ương tập quyền bị tan vỡ, thế lực đại phương được hình thành, cũng chính là bắt đầu tình thế bọn quân phiệt đánh lẫn nhau, mỗi kẻ xưng hùng xưng bá chiếm cứ một phương.

Trước tiên là quân phiệt Lương Châu Đổng Trác, lợi dụng mâu thuẫn của các bộ tộc phía Tây và mâu thuẫn nội bộ của giai cấp thống trị, tổ chức ra quân hỗn hợp: Khương, Hồ, Hán, do những tên trùm thổ hảo người Khương, Hồ và những tên địa chủ người Hán cầm đầu, cực kì tàn nhẫn, quen thói phá hoại, chuyên nghề cướp bóc chém giết, đã hại dân Tây Khương và nghĩa quân Khăn Vàng. Đến năm 189 công lịch, cuộc đấu tranh giữa người ngoại tộc Hà Tiến và hoạn quan Kiển Thạc tạo cơ hội cho Đổng Trác vào Lạc Dương bèn phế Thiết Đế Lưu Biện, lập Hiến đế Lưu Hiệp, cướp lấy quyền lớn, mưu đồ khống chế các thế lực khác, và tiếp tục các hành vi cướp bóc chém giết của hắn. Vì vậy đã gây nên lòng căm thù tột độ trong nhân dân. bon quan liêu địa chủ quân phiệt vì lợi ích của bản thân cũng nhao nhao nổi dậy chống lại hắn. Rồi đến năm 190 công lịch mười mấy đạo quân địa phương lập thành " quân Quan Đông” do Viên Thiệu cầm đầu tiến đánh Đổng Trác. Từ đó chính thức bắt đầu cuộc giao tranh giữa bọn quân phiệt.

Từ năm 190 đến 196 cuộc đại hỗn loạn do Đổng Trác và bon dư đảng Tay sai: Lý Thôi, Quách Dĩ, v.v... gây ra mới kết thúc. Vì những việc cướp bóc, vơ vét, chém giết phá hoại cực kì hung ác của chúng là cho vùng đất đai rộng lớn giữa hai đô thành Lạc Dương và Tràng An hoàn toàn thành nơi vắng vẻ tiêu điều, gạch ngói tan tành, "trong thành không có dấu chân người”, ngay các quan từ thượng thư trở xuống đều "hoặc bị chết đói trong bốn bức tường”. Đổng Trác thì tích trữ được đủ lượng cho quan sĩ ăn trong 30 năm, mấy chục vạn cân vàng bạc và vô số vật quý giá, biến xương máu của nhân dân thành cái vốn cho hắn khiên tiến có thể tấn công, khi lùi có thể giữ được. Hắn lại phá hoại chế độ tiền cũ, huỷ khí cụ bằng đồng đúc tiền nhỏ cho hàng hoá lưu thông bành trướng; giá mười đấu gạo lên tới mấy chục vạn tiền. Rất dễ hiểu nhân dân khổ cực biết chừng nào. Đồng thời những di sản văn hoá quý báu đã được sáng tạo và tích luỹ lâu đời cũng bị phá huỷ hết sạch.
Trong quá trình quân Quan Đông dánh dẹp Đổng Trác, rất nhiều tập đoàn đại chủ phong kiến nhân cơ hội này, tăng cường thế lực của mình, mỗi kẻ hùng cứ một phương, lớn mạnh nhất có Viên Thiệu, Viên Thuật và Tào Tháo. Viện Thiệu là nhân vật đại biểu cho đại địa chủ đại quan liêu thời đó " bốn đời làm đến chức tam công, đồ đệ tay chân khắp thiên hạ”. Viện Thiệu chiếm cứ Kí Châu, lại thôn tính ba châu Thanh, Tinh, U, ...Viên Thiệu thì phát triển từ nam Dương đến vùng Hoài Nam. Sự tàn bạo xa xỉ của chúng và những chiến dịch hết năm này qua năm khác, cũng gây cho quần chúng bao nhiêu nỗi thống khổ; quân sĩ thậm chí phải ăn ốc và quả dâu mà sống. Năm 200, Viện Thiệu quyết chiến ở Quan Độ với Tào Tháo, tuy thế lực Tào Tháo còn yếu nhưng Viên Thiệu đã bị đánh bại. Trong khoảng 10 năm từ 197 đến 207, có thể nói lực lượng chủ yếu của Tào Tháo dùng vào việc tiêu diệt thế lực anh em cha con họ viên, cuối cùng thống nhất được phương Bác, chấm dựt được thế lực chiếm cứ thối nát của bọn quan liêu địa chủ thời đó, chuyển vào một tình thế mới, tức là cái thế chân vạc, xâu xé lẫn nhau giữa ba cái tập đoàn quân phiệt Tào, Lưu, tôn, địa vị xã hội còn thấp mới nổi lên.

Năm 207 Tào Tháo đánh tan Ô Hoàn ở phương bắc, tiêu diệt thế lực còn rớt lại của Viên Thiệu. Đồng thời Lưu bị gặp Gia Cát Lượng ở Long Trung. Năm sau Tào Tháo ỷ vào thực lực dần dà lớn mạnh của mình, cầm đầu hơn 10 vạn quân nam tiến đánh Lưu Biểu ở Kinh Châu, nuốt chửng binh lực của Kinh châu, định vượt qua sông Trường Giáng đánh Tôn Quyền, thực hiện cái chí lớn thốngnhất nam bắc. Kết quả, lực lượng của Tôn Quyền, Lưu Bị liên hiệp lại, đốt hết chiến thuyền, quân của Tào Tháo thua to. Đó là trận Xích Bích nổi tiếng trong lịch sử.

Trận này phá vỡ tan tành cái kế hoạc thống nhất toàn quốc của Tào Tháo, ổn định địa vị của Tôn quyền ở Giang Nam, đồng thời cũng lào cho Lưu Bị có khả năng từ Kinh Châu tiến vào Ích Châu, từ chỗ lâu nay vẫn đi nương nhờ người khác, đến chỗ có một thế độc lập rất lớn. Trận Xích bích thực là cái then chốt cho sự hình thành của cái thế "chia ba” chân vạc.

Sau trận Xích Bích, Tào Tháo lui về Trung Nguyên mở đồn điền, luyện quân lính, chuẩn bị các cuộc chiến tranh sau. Từ năm 211, đầu tiên chuẩn bị tấn công Trương Lỗ ở Hán Trung, đến năm 214, 215 lần lượt đánh bại Mã Siêu, Hàn Toại, hàng phục Trương Lỗ, lấy được Hán Trung. Nhưng đến năm 219 Hán Trung rút cuộc lại về tay Lưu Bị. Đánh nhau trong 8, 9 năm chỉ lấy được có vùng Quan Lũng. Năm 220 Tào Tháo ốm chết, Tào Phi phế Hán lập nước Nguỵ, nhưng từ đầu chí cuối không có đủ lực lượng thống nhất nổi toàn quốc.

Sau khi thắng trận Xích bích, năm 209 Lưu Bị lĩnh chức mục ở Kinh Châu, năm 214 lên ngôi hoàng đế lập nên Thục Hán. Sau khi lấy đựơc Hán Trung, Quan Vũ từ Giang Nam bắc tiến đánh Phàn Thành, Kinh Tương, nhân dân khởi nghĩa dần dần chống lại Tào Nguỵ, hưởng ứng Quan Vũ, Tào Tháo đang túng đường ứng phó. Nếu bấy giờ Tôn Quyền thừa có liên hiệp với Thục đánh Nguỵ, cục diện lịch sử có thể sẽ đổi khác, nhưng quân Ngô không những không ra quân giúp đỡ, lại đánh thọc vào hậu phương Thục, cướp Giang Lăn, giết chết Quan Vũ. Hành động nghiêm trong ấy không những cứu vãn được tình thế bất lợi cho Tào Nguỵ, mà còn làm cho mâu thuẫn giứa Ngô, Thục càng sâu sắc hơn. Năm 222, để trả thù cho Quan Vũ và việc mất Kinh Châu, Lưu Bị cử đại binh đi đánh Ngo, vì sai lầm trên chiến thuật và chiến lược, bị thua thảm hại trong trậnh Hào Đình, hơn 40 dinh, mấy trăm dặm vô số đồ quân dụng mất hết trong chốc lát. Lưu Bị chạy về Vĩnh An, năm sau ốm chết ở đấy. Con là Lưu thiền nối ngôi do thừa tướng Gia Cát Lượng phụ chính, hồi phục lại được chính sách liên hiệp Ngô, Thục chống Nguỵ.

Thua trần Hào Đình, Thục Hán tổn thất nặng nề, uy thế lớn của Lưu Bị sụt hẳn đi, mâu thuẫn nội bộ giai cấp đã đến mức bộc lộ ra ngoài, thậm chí nổi dây làm phản, đặc biệt là của tù trưởng các quận Ích Châu, Việt Tuấn, Tường Khi , lực lượng "rợ nam” rất mạnh. Trước tình thế khó khăn đó, Gia Cát Lượng chỉ có dùng cách vỗ về mà không đánh, chuyên môn nghỉ ngơi tĩnh dưỡng để cho nội bộ được yên. Đến năm 224 lòng người ổn định dần, chuẩn bị đã xong, bèn khởi binh đánh "rợ nam”. Về sau, "bảy lần bắt, bảy lần tha” làm cho Mạnh Hoạch hàng phục, đạt được mục đích chính trị " dùng rợ trị rợ: thông qua bọn cường hào đại phương mà thống trị dân tộc thiểu số vùng Tây Nam.

Từ năm 227 trở đi, để chống lại nước Nguỵ lớn mạnh, mưu đồ sự sống còn, Gia Cát Lượng lại bắt đầu chiến dịch Bắc phát "dùng thế công để làm thế thủ” Trước sau tất cả sáu lần, năm lần chủ động tấn công, một lần bị động phải phòng thủ. Đó là sáu lần ra Kì Sơn” mà mọi người thương quen biết [ thực ra chỉ có ba lần đi qua Kì Sơn]. Lực lượng bản thân Thục Hán lúc đó chưa được hoàn toàn khôi phục như Gia Cát Lượng thấy rõ nếu không chủ động để Nguỵ đánh tất lâm vào thế bí, bèn miễn cưỡng gắng sức tiến hành công cuộc Bắc phát vô cùng gian khổ. Lần cuối cùng năm 234 ra Tà Cốc, chiếm đất Võ Công, định kế hoạch đóng lâu dài ở Vị Nam, nhưng bị ốm chết trong doanh trại Ngũ Trượng Nguyên.

Gia Cát Lượng chết, về mặt quan văn trước sau do Tưởng Uyển, Phí vĩ tiếp tục chủ chính; đại tướng do Khương Duy cầm đầu. Tưởng, Phí đều không chủ trương miễn cưỡng đánh Nguỵ, Khương Duy thì cố sức chủ trương Bắc phạt, từ năm 249 đến 262 ra quân cả thảy chín lần. Vì vậy sức dân mệt mỏi, lòng người chán ghét chiến tranh: Bắc phát lần thức sáu ở Đoạn Cốc, bị Đặng Ngải đánh thua, quân lính chết và bị thượng rất nhiều, phái Tây Cam Túc không quy phục Thục Hán nữa, người Ích Châu cũng nhao nhao phản đối chiến tranh. Lại thêm hậu chủ Lưu Thiện ngu muội, hoạn quan Hoàng Hạo chuyên quyền, chính trị cực kì thối nát. Như vậy làm cho Tào Nguỵ thành ra có khả năng diệt Thục.

Mùa xuân năm 263, Tư Mã Chiêu phái 18 vạn quân do Đặng Ngải, Gia Cát Tự, Chung Hội ba đường cùng tiến đại binh đánh Thục, Khương Duy bị bức lui về giữ Kiếm Các. Đầu mùa đông, Đặng Ngải vượt ải Âm Bình, tiến binh vào vùng hiểm trở núi non hoang vu phía đông Tùng Phan 700 dặm, đột nhiên hạ được Giang Du, hậu phương của Kiếm Các, giết Gia Cát Chiêm ở Miên Trúc, vào thẳng Thành Đô. Lưu Thiện nghe theo ý kiến phe đầu hàng của Tiền Chu, đón hàng Đặng Ngải, và ra lệnh cho Khương Duy đầu hàng Chung Hội. Thục Hán diệt vong từ đó.

Năm 265 Tư Mã Chiêu ốm chết, con là Tư Mã Viêm bức Tào Hoán nhường ngôi cho mình, xưng là vua nhà Tấn. Nhà Nguỵ diệt vong từ đó.

Về mặt Đông Ngô, từ sau khi Tôn Quyền chết, nội bộ cứ lục đục mãi không yên. Gia Cát Khác đem 20 vạn quân đánh nguỵ, thất bại trở về, bị Tôn Tuấn giết chết. Sau khi Tôn Tuấn chết, êm là Tôn Lâm chuyên quyền, phế Tôn Lượng, lập Tôn Hựu, Tôn Hạo tiếp tục làm vua nước Ngô, vốn hay gây sự, cướp bóc chém giết, nền chính trị bóc lột tàn khốc của Đông Ngô lúc ấy ngày càng bạo ngược thối nát, nhân dân khởi nghĩa chống lại ầm ầm. Năm 279 Tư Mã Viêm đưa 20 vạn quân chia làm sáu đường đánh Ngô, hầu như không gặp phải sức chống đỡ mạnh mẽ nào, năm sau tiến đánh đến Kiến Nghiệp, Tôn Hạo đón hàng. Nước Ngô cũng mất nốt. "Thiên hạ chia ba” đến bấy giờ toàn bộ do nhà Tấn thống nhất.

Chỉ căn cứ vào phần tóm tắt rất sơ lược trên đây, chúng ta dế thấy ngay lịch trình lịch sẻ của thời kỳ này rối ren biết chừng nào. Bộ truyện của chúng ta chính là viết đúng vào cái lịch trình lịch sử với một thời gian dài dằng dặc, là tình thế phúc tạp như đã kể trên. Đối chiếu với sự thực lịch sử trên đây, cuốn sách lớn gồm 120 hồi, đại khía nội dung chia ra như sau:

Hồi 1 và hồi 2 là mào đầu cho cả cuốn sách, dựa vào nền chính trị thối nát của nhà hán và cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng mà dẫn tới việc lên sân khấu đấu tranh của "các tay anh hùng”.

Từ hồi ba đến hồi mười bốn viết về quân lính và các dư đảng của Đổng Trác vào Lạc Dương cho đến lúc bị tiêu diệt.

Hồi mười bốn đến hồi ba mươi ba viết về tình hình các mặt trong giai đoạn Tào Tháo đánh họ Viên,thống nhất phương Bắc.

Hồi ba mươi tư đến hồi bốn mươi viết về tình tiết Lưu Bị sang Kinh Châu,gặp Gia Cát Lượng. Từ hồi bốn muơi mốt đến hồi năm mươi cuốn sách toàn ra sức viết về Tào Tháo xuống miền Nam và cảnh tượng hung tráng của trận Xích Bích.

Hồi 51 đến hổi 57 chủ yếu viết về sự diễn biến và phát triển của mối quan hệ phức tạp tinh tế giữa hai bên Lưu Bị và Tôn Quyền, tuy liên kết mà vẫn mâu thuẫn với nhau.

Từ hồi 57 trở xuống thẳng một mạch đến hồi 74 viết Tào Tháo tiến quân đánh lấy Hán Trung. Lưu Bị lấy Ích chấu cướp Hán Trung.

Từ hồi bảy mươi nhăm đến hồi tám mươi nhăm viết thành một đoạn trong đó tình tiết chủ yếu là Quan Vũ bị giết chết. Ngô Thục giao tranh, Lưu bị ốm chết, kèm them chuyện dựng nước của Ngụy và Thục.

Hồi tám mươi nhăm đến hồi một trăm linh bốn toàn bộ viết về sự tích đánh nam dẹp bắc "bảy lần bắt” sáu lần ra” của Gia Cát Lượng cho tới khi "cúc cung tận tụy” ốm chết trong hàng quân.

Từ đấy trở xuống hồi 115 viết về cuộc Bắc phạt của Khương Duy. Ba hồi sau, hồi 116 viết về quân của Tấn đánh Thục cho đến khi Thục diệt vong.

Hai hồi cuối cùng lấy chuyện quân Tấn diệt Ngô, ba nước thống nhất làm đoạn kết thục cho toàn bộ cuốn sách.

Độc giả đại khái cứ theo những đoạn chia như vậy mà đọc có thể thấy rõ ràng cuốn truyện không phải dàn ra theo đường thẳng cứng nhắc, mỗi đoạn chỉ chuyên viết về một chuyện. ví như chúng tôi nói từ hồi 14 đến hồi 33 hầu như là giai đoạn tiêu diệt họ Viên, thống nhất phương Bắc, nhưng trong đó còn rất nhiều tình tiết lí thú như Lã Bố bắn kích ở cửa Viên Môn, Hạ Hầu Đôn rút tên nuốt mắt, Tào Tháo đi săn ở Hứa Điền, Tào Tháo và Lưu Bị cùng nhau uống rượu luận anh hùng, Nễ Hành đánh trống mắng Tào Tháo, Quan Vũ treo ấn gói vàng, qua năm cửa quan chém sáu tướng, Quan Vũ, Trương Phi gặp nhau ở Cổ Thành v.v… qua những tình tiết đó, đạt được mấy mục đích như sau: mô tả sự tiến triển của lịch sử, làm nổi bật tính cách của nhân vật và diễn tả thái độ yêu ghét. Những phần khác cũng thế.

Ngày trước có nhà bình luận nói bộ Tam Quốc "Kể truyện trăm năm, bao quát được muôn việc” quả là không ngoa.

Video liên quan

Chủ Đề