Từ năm 1991 đến nay Đảng xác định nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là gì

QPTD -Thứ Bảy, 06/08/2011, 21:44 [GMT+7]

Cương lĩnh năm 1991 và những vấn đề cơ bản về Đảng, xây dựng Đảng hiện nay

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH [gọi tắt là Cương lĩnh 91] đã tổng kết việc thực hiện Cương lĩnh năm 1930 và rút ra những bài học kinh nghiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của Đảng; đồng thời, chỉ ra đặc điểm của thời kỳ quá độ, xác định mục tiêu, nhiệm vụ, đường lối chiến lược cơ bản, toàn diện, lâu dài của cách mạng; trong đó có quan điểm, đường lối chiến lược về Đảng và đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Đó là sự kế thừa, vận dụng đúng đắn, sáng tạo học thuyết Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam để xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới. Trong quá trình thực hiện Cương lĩnh 91, Đảng ta không những cụ thể hóa mà còn bổ sung, phát triển nhiều vấn đề cơ bản về Đảng và đổi mới, chỉnh đốn Đảng.

Trước hết, về bản chất Đảng. Đây là vấn đề cơ bản, đặc biệt quan trọng, chỉ đạo toàn bộ quá trình xây dựng và hoạt động lãnh đạo của Đảng. Trong các kỳ Đại hội Đảng IV, V, VI, Đảng ta khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân Việt Nam. Xuất phát từ sự phân tích vai trò, đặc điểm của Đảng trong điều kiện mới, Cương lĩnh 91 khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”1. Đây là bước phát triển, đổi mới tư duy, nhận thức, khái niệm về Đảng, bản chất giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng. Bởi lẽ, trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức duy nhất lãnh đạo sự nghiệp cách mạng và toàn xã hội; chịu trách nhiệm trước vận mệnh của đất nước, của dân tộc; có trách nhiệm bảo đảm, chăm lo cho lợi ích của các tầng lớp nhân dân trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đảng không chỉ là của giai cấp công nhân mà còn là của cả dân tộc Việt Nam. Khái niệm đó vừa lột tả rõ bản chất giai cấp công nhân, vừa chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa bản chất giai cấp công nhân với tính tiên phong của Đảng.

Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng ta tiếp tục cụ thể hóa những thuộc tính bản chất giai cấp công nhân; đồng thời, xác định nội dung, biện pháp giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng chỉ rõ: Trong điều kiện hiện nay, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng là phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; kiên định và vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường xuyên tự phê bình và phê bình; thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên theo quan điểm, lập trường giai cấp công nhân; củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.

Trên cơ sở lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới thu được những thành tựu quan trọng, nhất là trên lĩnh vực kinh tế, Đảng ta xác định chủ trương, biện pháp từng bước đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Trước yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập kinh tế thế giới, có nhiều ý kiến của cán bộ, đảng viên và nhân dân đề nghị cần thể hiện đầy đủ hơn, phản ánh sát thực hơn bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam – một Đảng ra đời từ phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Vì vậy, Đại hội X của Đảng đã phát triển quan điểm của Cương lĩnh 91 về bản chất của Đảng và cách diễn đạt về Đảng, khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam”1. Điều đó, một mặt, nói lên sự cần thiết phải tiếp tục giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong điều kiện mới; mặt khác, chỉ rõ mối quan hệ giữa Đảng với giai cấp và toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Ở nước ta, quyền lợi của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc là thống nhất. Sức mạnh của Đảng, thắng lợi của sự nghiệp cách mạng bắt nguồn từ việc Đảng ta giải quyết hài hòa lợi ích và kết hợp chặt chẽ vấn đề giai cấp với vấn đề dân tộc. Sự gắn kết máu thịt giữa Đảng với giai cấp và dân tộc được thể hiện ngay từ nguồn gốc, quy luật ra đời của Đảng – một đảng vừa là lãnh tụ chính trị, lực lượng tiên phong trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng, vừa quan hệ mật thiết, gắn bó với toàn dân tộc. Điều đó thể hiện sự trung thành của Đảng ta đối với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời, phù hợp với thực tế, đặc thù của cách mạng Việt Nam, đáp ứng tình cảm, nguyện vọng của cả dân tộc Việt Nam.

Hai là, về nền tảng tư tưởng của Đảng. Điều lệ Đảng và các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng từ lần thứ 6 trở về trước thường khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Trong quá trình tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, Đảng ta ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc; nhà văn hoá lớn, anh hùng giải phóng dân tộc - đối với Đảng, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người đã để lại kho tàng lý luận quý báu về Đảng, về xây dựng Đảng và cách mạng Việt Nam. Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng lãnh đạo, tư tưởng Hồ Chí Minh đã cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin hợp thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Vì vậy, Cương lĩnh 91 đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác- Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”2. Đại hội VII của Đảng đã nhấn mạnh và cụ thể hoá: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và nhân loại, nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn đất nước để đề ra cương lĩnh chính trị đúng đắn và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân”3. Đây là bước phát triển lớn trong nhận thức, tư duy và hoạt động thực tiễn về nền tảng tư tưởng của Đảng; đồng thời, cũng thể hiện rõ: cùng với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận cơ bản cấu thành hệ tư tưởng, thế giới quan, phương pháp luận của Đảng. Để xây dựng cương lĩnh, đường lối cách mạng, không những Đảng phải trung thành, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn phải tiếp thu tinh hoa, trí tuệ của dân tộc và nhân loại; nắm vững quy luật khách quan, tình hình thực tiễn của đất nước và nguyện vọng, lợi ích của nhân dân,v.v.

Trong quá trình thực hiện Cương lĩnh 91, Đảng ta đã tổ chức nghiên cứu, tổng kết khái quát một cách hệ thống, khoa học về nguồn gốc, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Việc khái quát về nguồn gốc, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta; đồng thời, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế thế giới. Thực tiễn cho thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh đã đóng một vai trò quan trọng trong việc củng cố lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị, tác phong công tác và đạo đức cách mạng của hàng triệu cán bộ, đảng viên của Đảng; góp phần củng cố uy tín của Đảng trước quần chúng, củng cố lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Ba là, về nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản, chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động lãnh đạo của Đảng; là cơ sở để xây dựng Đảng thành một chỉnh thể có tổ chức chặt chẽ, đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, kỷ luật tự giác, nghiêm minh. Sức mạnh tổ chức của Đảng phụ thuộc vào việc quán triệt và thực hiện nguyên tắc này. Do thấy rõ vai trò đặc biệt quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ, nên từ trước tới nay, các thế lực thù địch luôn tìm cách xuyên tạc, phủ nhận nguyên tắc đó, hòng phá hoại cơ sở tổ chức của Đảng Cộng sản. Trong quá trình lãnh đạo cải cách, cải tổ, các Đảng Cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu đã từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ, dẫn đến sự tan rã của Đảng và làm sụp đổ chế độ XHCN ở các nước này. Đầu những năm chín mươi của thế kỷ XX, ở nước ta cũng xuất hiện một số ý kiến đòi xem xét lại nguyên tắc tập trung dân chủ. Thậm chí có người còn cho rằng, nguyên tắc này đã lỗi thời, không phù hợp. Trong bối cảnh đầy khó khăn, phức tạp đó, Đảng ta vẫn kiên trì thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Cương lĩnh 91 tiếp tục khẳng định: “Đảng… lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”4. Đó là điều sáng suốt! Bởi lẽ, thực tiễn cho thấy, những sai lầm, khuyết điểm trong Đảng tuyệt nhiên không phải từ nguyên tắc tập trung dân chủ, mà do nhận thức và thực hiện không đúng, hơn nữa còn vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ. Vấn đề chính là cần cụ thể hoá nội dung, yêu cầu, xây dựng cơ chế vận hành của nguyên tắc tập trung dân chủ sao cho phù hợp với điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo công cuộc đổi mới và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức đảng, chứ không phải là phải từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ.

Trung thành với Cương lĩnh 91, trong quá trình đổi mới, chỉnh đốn Đảng, Đảng ta luôn bổ sung, cụ thể hoá nội dung và xác định chủ trương biện pháp thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Đại hội VII của Đảng bổ sung chế độ định kỳ thông báo tình hình hoạt động của đảng uỷ các cấp đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình; tổ chức đảng cấp dưới được quyền quyết định các vấn đề thuộc phạm vi, quyền hạn của mình, song không được trái với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 6 [lần 2], khoá VIII và Đại hội IX, X của Đảng đã đề ra hàng loạt chủ trương, giải pháp thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ. Đó là: nghiên cứu, quán triệt sâu sắc cho cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng về nội dung, bản chất vai trò của nguyên tắc tập trung dân chủ gắn với việc liên hệ, kiểm điểm về nhận thức và thực hiện nguyên tắc này ở mọi cấp uỷ, tổ chức đảng; giữ vững và nâng cao chất lượng sinh hoạt định kỳ của các cấp uỷ, tổ chức đảng; xây dựng, ban hành các quy định nhằm cụ thể hóa nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, chế độ thiểu số phục tùng đa số, hoàn thiện các quy chế về công tác cán bộ; thực hiện nghiêm túc, có nền nếp chế độ tự phê bình và phê bình từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên; xác định những biện pháp giải quyết tình trạng mất đoàn kết ở một số cấp uỷ, tổ chức đảng; tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị và chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ; mở rộng và phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng đi đôi với giữ vững kỷ cương, tăng cường kỷ luật; kiên quyết đấu tranh khắc phục hiện tượng tập trung quan liêu chuyên quyền, độc đoán, dân chủ hình thức, tự do vô chính phủ, vô kỷ luật, chia rẽ, bè phái. Đại hội X của Đảng đã bổ sung, hoàn thiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng: lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản; thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; đồng thời, thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân; Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Cương lĩnh 91 đã khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta và xác định quan điểm chiến lược đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Trong quá trình quán triệt, thực hiện Cương lĩnh, Đảng ta đã cụ thể hoá và không ngừng bổ sung, phát triển cả về nhận thức, tư duy, lý luận và chủ trương, biện pháp tổ chức hoạt động thực tiễn, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu ngang tầm đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Những thành tựu của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN gần 20 năm qua đã chứng minh cho sự đúng đắn của Cương lĩnh 91 và những bổ sung, phát triển của Đảng ta.

Đại tá, PGS,TS. PHẠM VĂN THẮNG

Chủ nhiệm Khoa CTĐ,CTCT, Học viện Chính trị

________________

1-Điều lệ ĐCSVN, Nxb. CTQG, H.2006. tr.3-4.

2- ĐCSVN – Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH – Sđd, tr. 21.

3- ĐCSVN- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH – Nxb ST, H.1991. tr. 21.

4- Điều lệ ĐCSVN, Nxb ST, H.1991, tr. 4.

Video liên quan

Chủ Đề