Vì sao truyện kiều là kiệt tác

Qua bao thế hệ trôi qua, nền văn học Nước Ta ta ngày càng tăng trưởng tỏa nắng rực rỡ với những bước tiến vượt bậc. Đặc biệt trong văn học nói chung và trong thơ ca nói riêng. Thì tác phẩm Truyện Kiều là một kiệt tác văn học đầy phát minh sáng tạo của mọi thời đại. Vậy thì điều gì đã khiến Truyện Kiều trở thành kiệt tác thơ nổi tiếng như vậy ?Để khám phá điều này thì ta nên nói đến Nguyễn Du đại thi hào đã phát minh sáng tạo nên ” Truyện Kiều ” .


– Nguyễn Du sinh năm 1765 mất năm 1820 tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiền, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh thành phố Hà Tĩnh, sinh trưởng trong một mái ấm gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống lịch sử về văn học. Cha là Nguyễn Nghiêm, đỗ tiến sỹ, từng giữ chức Tể tướng. Anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản cũng từng làm quan to dưới triều Lê – Trịnh .

– Chứng kiến những biến động dữ dội nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam, ông hiểu sâu sắc nhiều vấn đề của đời sống xã hội. 

– Những thăng trầm trong xã hội, cuộc sống riêng tư làm cho tâm hồn Nguyễn Du đầy cảm thông yêu thương con người .

Chính vì thế, mà kiệt tác Truyện Kiều lại chiếm được nước mắt, sự đồng tình, ủng hộ của hàng triệu độc giả trên toàn thế giới. Bởi tác phẩm đã thể hiện sâu sắc niềm cảm thương, số phận ngang trái, oan nghiệt, đầy bất hạnh và đau khổ của con người. Đồng thời, lên án tố cáo hiện thực xã hội đương thời và bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị, qua đó ca ngợi phẩm chất, khát vọng chân chính, của con người có vẻ đẹp có nhan sắc, đức hạnh dưới chế độ phong kiến. Tác phẩm còn cho thấy Kiều là người rất hiếu thảo với hình ảnh Kiều bán mình chuộc cha càng làm đậm nét nhân đạo của bài thơ và số phận đau khổ, bất lực của người phụ nữ xưa.

Xem thêm: Marketing là gì? 10 Công việc bộ phận marketing làm mỗi ngày

Bằng nghệ thuật ước lệ, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi tả vẻ đẹp của con người Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét chân dung chị em Thúy Kiều và dự đoán về số người tài hoa bạc mệnh đã góp phần giúp người đọc hiểu rõ hơn về con người và phẩm chất cao đẹp của 2 chị em. Từ đó, cảm thương cho số phận bấp bênh, đau khổ của Kiều sau này.

Xem thêm: CEO là gì? Vai trò quan trọng của CEO trong doanh nghiệp

Và một điều quan trọng không hề không nói đến là tác phẩm Truyện Kiều dù có giá trị nhân đạo cao đến đâu mà chữ nghĩa xoàng xĩnh thôi thì chắc đã không nổi tiếng, và trở thành tác phẩm có nhiều kỷ lục nhất trên quốc tế được hàng triệu fan hâm mộ dõi theo đến như vậy. Nói đến đây, ta càng khâm phục tài học của Nguyễn Du do tại có thời hạn ông sống phiêu bạt nhiều năm trời trên đất bắt không phải chỉ để du ngoạn thôi, mà nó còn là một kế hoạch học tập chu đáo, tài tình. Đi đến đâu, ông cũng học lời ăn lời nói của nhân dân để biết thêm những điều mình chưa biết để bổ trợ thêm vốn từ vựng của mình. Chính vì sự siêng năng, học hỏi đó mà ngôn từ, văn phong của ông rất là đa dạng chủng loại và đầy phát minh sáng tạo. Truyện Kiều là một ví dụ nổi bật trong tác phẩm có chữ ” áy ” [ cỏ áy bóng tà … ] theo nhà thơ Tô Hoài chữ ” áy ” ấy, có tài năng đến độ dù ta không hiểu nghĩa, nó cũng hiện lên sự ảm đạm. Cho tới năm trước, khi nhà thơ có dịp đi Tỉnh Thái Bình, về huyện Thái Ninh, ông mới biết chữ ” áy ” là tiếng vùng quê đấy .Chính vì sự cần mẫn học hỏi, trau dồi vốn từ mà Nguyễn Du đã trở thành một nhà thơ thiên tài, thấu tình đạt lý, giàu lòng cảm thương trước con người đau khổ, xấu số, đặc biệt quan trọng là số phận của người phụ nữ. Và tạo ra sự tác phẩm Truyện Kiều một kiệt tác văn học tuyệt vời được tiếp đón nhất trong mọi thời đại .Ngày nay, khi xã hội ngày càng tăng trưởng, không biết từ khi nào Truyện Kiều đã đi vào lòng người một cách nhẹ nhàng và để lại ấn tượng thâm thúy cho người đọc đến như vậy. Có thể nói Nguyễn Du là một nhà thơ thiên tài, phát minh sáng tạo nên một kiệt tác văn học đầy tài tình, chân thực, góp phần to lớn cho kho tàng văn học dân tộc bản địa Nước Ta và để lại cho quốc tế một ấn tượng thâm thúy, khó phai. Đến nay, truyện đã được xuất bản tại nhiều vương quốc trên quốc tế như Anh, Pháp, Mỹ, Nga, Đức, Tây Ban Nha, Tiệp, Nhật Bản, Nước Hàn, Cuba, … và được sự nghênh đón nồng nhiệt của hàng triệu fan hâm mộ khắp nơi trên toàn quốc tế, nó kết thành một làn sóng lan tỏa can đảm và mạnh mẽ, đến những nước bên ngoài, tương lai một ngày nào đó mong đợi Truyện Kiều sẽ làm ra nhiều kỷ lục mới hơn nữa .

Source: //cuocthidancapctt.vn
Category: Blog

View all posts by cuocthidanca

Ngày 13/10, hội thảo “Ảnh hưởng của Nguyễn Du với văn chương hiện đại” do Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức đã diễn ra tại Hà Nội, nhân kỷ niệm 250 năm ngày sinh đại thi hào Nguyễn Du [1765 – 2015].

Đến dự có nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam; nhà thơ Trần Đăng Khoa và nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam và nhiều nhà nghiên cứu văn hóa - văn học.

Hội thảo “Ảnh hưởng của Nguyễn Du với văn chương hiện đại”.

Hơn 200 năm qua, các nhà văn, nhà thơ viết về Nguyễn Du không lúc nào ngừng nghỉ. Truyện Kiều được đọc ở khắp nơi, đủ mọi tầng lớp, từ vua chúa đến  bình dân.

Đối với người Việt Nam, Nguyễn Du là đại thi hào, còn Truyện Kiều là một kiệt tác. Bởi thế, Nguyễn Du đã có ảnh hưởng sâu rộng đến các nhà văn, nhà thơ Việt Nam mọi thế hệ bởi nhân cách sống và sự sáng tạo, nhất là văn bản Truyện Kiều.

GS Phong Lê tham luận về Nguyễn Du.
Nhà thơ Vũ Quần Phương đánh giá cao về Nguyễn Du và Truyện Kiều.

Và ở hội thảo lần này, các tham luận của các nhà văn, các nhà nghiên cứu, các nhà Kiều học: Giáo sư Phong Lê, nhà văn Hoàng Quốc Hải, nhà thơ Vũ Quần Phương, nhà thơ Đỗ Trung Lai, nhà thơ Trần Nhuận Minh, nhà phê bình Lại Nguyên Ân, Lê Thành Nghị… đã tiếp tục tiếp cận Nguyễn Du và Truyện Kiều ở nhiều khía cạnh, góc độ mới mẻ và đều đi đến một thống nhất: Truyện Kiều là kiệt tác văn học, còn Nguyễn Du, nếu để ca ngợi ông, thì không ai có đủ ngôn từ; Truyện Kiều là sự chuyển dịch thần kỳ của một văn bản: Sự kỳ diệu tuyệt đỉnh của ngôn ngữ lục bát.

Từ một văn bản rất bình thường của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du qua tiếng Việt và thể thơ lục bát đã biến Truyện Kiều thành một tác phẩm kỹ vĩ. Nguyễn Du là người đầu tiên đưa tiếng Việt đỉnh cao vào văn chương: Tiếng Việt nghệ thuật, và đây là tiểu thuyết đầu tiên được viết bởi thể loại thơ lục bát thuần Việt…

Nhà thơ Hữu Thỉnh nhấn mạnh:  Tôi thấy các tham luận hôm nay có giá trị với hàm lượng trí tuệ cao, mặc dù không phải hầu hết tác giả tham luận là nhà nghiên cứu. Truyện Kiều có giá trị vượt thời gian, nên ta mới bàn đến ảnh hưởng của Nguyễn Du với văn chương hiện đại, vì ông là nhà nhân văn chủ nghĩa vĩ đại ở cuối thế kỉ 18. Ông theo dõi số phận con người ngay cả khi con người đã ở thế  giới bên kia. Nguyễn Du đã tìm thấy ở đáy xã hội bao nhiêu vấn đề, là những mảnh vỡ của xã hội ông đang sống.

Thanh Hằng

Thứ Ba, 01/12/2015, 10:57 [GMT+7]

[QBĐT] - 1. Về thân thế, sự nghiệp Đại thi hào Nguyễn Du

Nguyễn Du [1765-1820], tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên, sinh tại kinh thành Thăng Long [nay là Thủ đô Hà Nội]. Cha là Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm [1708-1776], quê xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, làm quan đến chức Tham Tụng [Tể tướng] dưới triều Lê; mẹ là bà Trần Thị Tần quê ở Kinh Bắc - Bắc Ninh.

Năm Tân Mão [1771], Nguyễn Nghiễm thôi giữ chức Tể tướng, Nguyễn Du theo cha về quê, đến năm 13 tuổi thì mồ côi cả cha lẫn mẹ. Năm 1783, Nguyễn Du thi đậu Tam trường, được tập ấm một chức quan võ của người cha nuôi họ Hà [Hà Mỗ] ở Thái Nguyên. Sau đó, Nguyễn Du lấy vợ là bà Đoàn Thị Huệ, người làng An Hải, huyện Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam [nay là tỉnh Thái Bình] con gái của tiến sỹ Đoàn Nguyễn Thục. Năm Mậu Thân [1788], khi Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu Quang Trung, Nguyễn Du lánh về nhà anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn tại Thái Bình.

Mười năm ở quê vợ là quãng “Mười năm gió bụi”, bao cảnh cơ hàn, bần cực đã đến với Nguyễn Du. Khi bố vợ là Đoàn Nguyễn Thục mất, người con trai lớn mất, Nguyễn Du cùng người con trai nhỏ Nguyễn Tứ về quê cũ ở xã Tiên Điền. Trở lại quê, dinh cơ của cha đã tan hoang, anh em đôi ngả, Nguyễn Du thốt lên “Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán” [trở về Hồng Lĩnh, gia đình không còn, anh em lưu tán]. Nguyễn Du được bà con họ tộc chia cho mảnh đất tại thôn Thuận Mỹ làm nhà để ở. Và cũng từ đây, Nguyễn Du có biệt hiệu “Hồng Sơn liệp hộ” [người đi săn ở núi Hồng] và “Nam Hải điếu đồ” [người câu cá ở bể Nam].

Năm Nhâm Tuất [1802], Gia Long lên ngôi, Nguyễn Du được bổ làm Tri huyện Phù Dung [phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam]; tháng 11 làm Tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam [tỉnh Hà Tây]. Năm Quý Hợi [1803], được cử cùng phái bộ nghênh tiếp sứ thần nhà Thanh sang sắc phong cho vua Gia Long. Mùa thu năm Giáp Tý [1804], Nguyễn Du cáo bệnh về quê. Năm Ất Sửu [1805], được thăng Đông Các Đại học sĩ, tước Du Đức hầu [hàm ngũ phẩm]. Tháng 9 năm Đinh Mão [1807] giữ chức giám khảo thi Hương ở Hải Dương, sau xin về quê. Năm Kỷ Tỵ [1809], ông giữ chức Cai Bạ tỉnh Quảng Bình. Tháng 9 năm Nhâm Tuất [1812], Nguyễn Du xin nghỉ về quê 2 tháng để xây mộ cho anh là Nguyễn Nễ, tháng 2 năm Quý Dậu [1813] có chỉ triệu về kinh, được thăng hàm Cần Chánh điện học sĩ, cử đi sứ Trung Quốc với tư cách là Tuế cống Chánh sứ. Tháng 4 năm Giáp Tuất [1814], Nguyễn Du trở về nước, có tập thơ “Bắc Hành tạp lục” và được vua Gia Long thăng chức Hữu Tham tri bộ Lễ [hàm Tam phẩm]. Mùa thu năm Kỷ Mão [1819], được cử làm Đề điệu trường thi Quảng Nam, ông dâng biểu từ chối, được chuẩn y. Tháng 8 năm Canh Thìn [1820] vua Gia Long mất, Minh Mạng lên ngôi, Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong. Tuy nhiên, chưa kịp thực hiện thì ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn [6-9-1820], Nguyễn Du bị cảm bệnh và mất tại kinh thành Huế, hưởng thọ 55 tuổi.

2. Sự nghiệp sáng tác

Nguyễn Du đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm văn chương bất hủ bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm, trong đó, sáng tác chữ Hán, bao gồm:

Thanh Hiên thi tập [Tập thơ của Thanh Hiên] gồm 78 bài, viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn. Nam trung tạp ngâm  gồm 40 bài thơ làm từ năm 1805 đến cuối năm 1812, ông viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh. Bắc hành tạp lục [Ghi chép trong chuyến đi sang phương Bắc] gồm 131 bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.

Sáng tác chữ Nôm, gồm có: Đoạn trường tân thanh [Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột], tức tác phẩm Truyện Kiều, gồm 3254 câu thơ theo thể lục bát. Văn chiêu hồn nguyên có tên là “Văn tế thập loại chúng sinh”, nghĩa là Văn tế mười loại người, là một ngâm khúc gồm 184 câu viết theo thể song thất lục bát. Thác lời trai phường nón gồm 48 câu, cũng được viết bằng thể lục bát, nội dung thay lời người con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái phường vải. Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ gồm 98 câu, viết theo lối văn tế...

3. Tác phẩm Truyện Kiều

Kiệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du nguyên có tên là “Đoạn trường tân thanh”. Đây là tác phẩm truyện thơ nôm lục bát viết dựa trên cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân [Trung Quốc]. Mượn bối cảnh xã hội Trung Quốc đời nhà Minh [Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh] nhưng Truyện Kiều chính là bức tranh rộng lớn về cuộc sống thời đại lúc nhà thơ đang sống. Tác phẩm gồm 3254 câu lục bát kể về cuộc đời 15 năm lưu lạc, chìm nổi của Thúy Kiều, người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng vì gia biến phải bán mình chuộc cha, rơi vào cảnh “Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần”, bị các thế lực phong kiến dày xéo, chà đạp.

Về giá trị hiện thực, tác phẩm đã phơi bày bộ mặt xã hội phong kiến bất công, tàn bạo, đồng thời phản ánh nỗi khổ đau, bất hạnh của con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội phong kiến Việt Nam.

Về giá trị nhân đạo, Truyện Kiều là tiếng nói đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lí và ngợi ca vẻ đẹp của con người. Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du thể hiện ước mơ đẹp đẽ về một tình yêu tự do, trong sáng, chung thủy trong xã hội mà quan niệm về tình yêu, hôn nhân còn hết sức khắc nghiệt. Mối tình Kim - Kiều được xem như là bài ca tuyệt đẹp về tình yêu lứa đôi trong văn học dân tộc. Truyện Kiều còn là bài ca ca ngợi vẻ đẹp của con người. Đó là vẻ đẹp của tài, sắc, tình, lòng hiếu thảo, trái tim nhân hậu, đức tính vị tha, thủy chung, chí khí anh hùng... Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải là hiện thân cho những vẻ đẹp đó. Thông qua nhân vật Từ Hải, người anh hùng hảo hán, một mình dám chống lại cả xã hội bạo tàn, Nguyễn Du còn thể hiện khát vọng công lí tự do, dân chủ giữa một xã hội bất công, tù túng.

Cùng với đó, Truyện Kiều còn là tiếng nói lên án các thế lực tàn bạo, chà đạp lên quyền sống con người. Thế lực đó được điển hình hóa qua các nhân vật như Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà, qua bộ mặt quan tham như Hồ Tôn Hiến... Đó còn là sự tàn phá, hủy diệt của đồng tiền trong tay bọn người bất lương tàn bạo, nó có sức mạnh đổi trắng thay đen, biến con người thành thứ hàng hóa để mua bán, chà đạp.

Về giá trị nghệ thuật, Nguyễn Du đã kết hợp tài tình tinh hoa của ngôn ngữ bác học với tinh hoa của ngôn ngữ bình dân. Với Truyện Kiều, tiếng Việt và thể thơ lục bát dân tộc đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ của nghệ thuật thi ca, là sự kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên các phương diện ngôn ngữ, thể loại. Công đóng góp của Nguyễn Du về phương diện ngôn ngữ là có một không hai trong lịch sử.

Nghệ thuật tự sự trong Truyện Kiều cũng đã đã có bước phát triển vượt bậc, từ nghệ thuật dẫn chuyện đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, khắc họa tính cách nhân vật và miêu tả tâm lí con người. Trong lời tựa cuốn Truyện Kiều ra mắt lần đầu tiên vào năm 1820, Mộng Liên Đường chủ nhân [Nguyễn Đăng Tuyển, 1795-1880] đã viết: “...Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời, thì tài nào có bút lực ấy...”.

Với những giá trị to lớn ấy, hàng trăm năm nay, Truyện Kiều luôn được lưu truyền rộng rãi và có sức chinh phục lớn đối với mọi tầng lớp độc giả từ trí thức tới người bình dân, làm lay động trái tim của bao thế hệ người Việt Nam, là cảm hứng sáng tác cho rất nhiều những tác phẩm thi ca, nhạc họa sau này.

Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng đã góp phần đưa văn học Việt Nam vượt ra khỏi bờ cõi của một quốc gia, trở thành một phần của tinh hoa của văn hóa nhân loại, ghi dấu ấn văn học Việt Nam trên thi đàn quốc tế. Với Truyện Kiều nói riêng và toàn bộ trước tác của Nguyễn Du nói chung, ông được các thế hệ người Việt Nam tôn vinh là Đại thi hào dân tộc, Hội đồng Hòa bình thế giới vinh danh là Danh nhân văn hóa thế giới.

Đánh giá về Truyện Kiều, trong Lời đầu sách Từ điển Truyện Kiều [1974], Giáo sư Đào Duy Anh viết: “Trong lịch sử ngôn ngữ và lịch sử văn học VN, nếu Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học dân tộc thì Nguyễn Du với Truyện Kiều lại là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại của nước ta...

Giáo sư - Nhà giáo Nhân dân Lê Đình Kỵ, người được xem là “chuyên gia Truyện Kiều” đã có những trang văn nhận định thú vị: “Truyện Kiều nổi lên so với những giá trị văn học đương thời, và khiến sáng tác của Nguyễn Du gần với chúng ta ngày nay, về cả nội dung và hình thức nghệ thuật... Trước sau Truyện Kiều vẫn là di sản vĩ đại, là tuyệt đỉnh của nền văn học dân tộc quá khứ. Quan điểm lịch sử cũng như đòi hỏi muôn đời của giá trị văn học đều cho phép ta khẳng định điều đó”.

Hiện nay, Truyện Kiều đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng trên thế giới, trong đó tiếng Pháp có trên 10 bản dịch, tiếng Anh và tiếng Hàn Quốc trên 10 bản, tiếng Nhật có 5 bản...

[Còn tiếp]
[Theo Tài liệu tuyên truyền của Ban Tuyên giáo Trung ương]

Video liên quan

Chủ Đề