Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân bắt đầu từ năm nào
Đại thắng mùa xuân 1975 - Sự toàn thắng của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân08/04/2021 15:42 Số lượt xem: 559 Show Cách đây gần nửa thế kỷ, trên đất nước Việt Nam đã diễn ra một sự kiện chấn động thế giới về ý nghĩa và tầm quan trọng của nó, đó là thắng lợi oanh liệt của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thắng lợi đó đã đi vào lịch sử như một chiến công hiển hách, biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, khí phách, trí tuệ, bản lĩnh và sức mạnh Việt Nam. Đó cũng là kết quả của 30 năm đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, bắt đầu từ cách mạng tháng Tám năm 1945. Nét độc đáo, tuyệt vời của Đảng là dùng chiến tranh cách mạng làm phương thức cơ bản để thực hiện mục tiêu của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Mục tiêu cách mạng cũng là mục đích chính trị của chiến tranh, lực lượng cách mạng là lực lượng tiến hành chiến tranh, bằng phương pháp cách mạng bạo lực. Chiến tranh nhân dân Việt Nam không chỉ có những quy luật của chiến tranh mà còn có những quy luật cách mạng, nó tác động biện chứng và chi phối lẫn nhau. Đảng ta đã nắm vững hai quy luật đó và gắn đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng tạo thành sức mạnh tổng hợp vô địch, sức mạnh không kẻ thù nào lường hết được. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là sự toàn thắng của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước đưa đến sự toàn vẹn thống nhất nước nhà. Lịch sử có sự trùng hợp thú vị, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc bằng chiến dịch Điện Biên Phủ với 56 ngày đêm và cuộc kháng chiến chống Mỹ bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử với thời gian tương tự. Lịch sử cũng có sự trớ trêu, nghịch cảnh. Một dân tộc tha thiết yêu chuộng hòa bình như dân tộc Việt Nam lại phải chịu đựng hàng chục cuộc chiến tranh xâm lược và rất nhiều lần phải cầm vũ khí “phê phán” bọn xâm lăng trong suốt chiều dài lịch sử của mình. Hơn một thế kỷ qua, chủ nghĩa thực dân cũ hay mới đều coi bạo lực phản cách mạng, lấy chiến tranh làm phương tiện chủ yếu để áp đặt ách thống trị của chúng đối với nhân dân ta. Vì thế buộc dân tộc Việt Nam phải đoàn kết đứng lên anh dũng chiến đấu và chiến thắng. Kinh nghiệm cho thấy muốn giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân, nhất thiết phải bằng con đường đấu tranh bạo lực cách mạng. Với quan điểm chỉ đạo đúng đắn của Đảng ta về cách mạng bạo lực, cách mạng và chiến tranh, Đảng ta đã huy động đến mức độ tối đa sức mạnh vô tận của quần chúng để áp đảo quân thù. Sức mạnh đó được tạo nên bởi hai lực lượng cơ bản là lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang cách mạng; nó được thực hiện bằng 2 hình thức là đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh quân sự. Bước phát triển cao nhất của hai hình thức đấu tranh là cuộc tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử chính là một cuộc tổng tiến công kết hợp với nổi dậy như vậy. Một trận tổng hợp sức mạnh tất thắng và tài thao lược Việt Nam, sự phối kết hợp tuyệt đẹp về quân sự, chính trị, binh địch vận, thể hiện sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 thể hiện ý chí kiên trì, quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do và CNXH, coi mục tiêu của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân tiến lên CNXH là mục tiêu chính trị nhất quán bất biến của chiến tranh cách mạng. Quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã thực hiện một sách lược mẫu mực, có khi sử dụng những biện pháp đau đớn, có khi phải nhân nhượng tạm thời, trì hoãn chiến tranh để có thời gian chuẩn bị lực lượng kháng chiến. Khi thì tiến hành đấu tranh ngoại giao kiên trì nhiều năm vừa cương, vừa nhu, thực hiện những bước đi quá độ đẩy lùi từng bước, đánh thắng địch từng phần, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Kể từ khi Đảng ra đời đến Đại thắng mùa xuân 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta đã phải tiến hành một cuộc tổng khởi nghĩa và hai cuộc kháng chiến mới hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước. Điều đó chứng minh rằng độc lập dân tộc cho Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho nhân dân, giang sơn thu về một mối là ý chí sắt đá, là nguyện vọng thiêng liêng, cháy bỏng của nhân dân Việt Nam, cho dù phải đốt cháy dãy trường sơn cũng quyết tâm đạt cho kỳ được. Mọi người đều biết, Đường cách mệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đó là cốt lõi, nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh, đó cũng là con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh đã mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đưa cả nước bước vào kỷ nguyên của độc lập tự do và CNXH. Và khi ở nước ta giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo thì thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, thời kỳ quá độ lên CNXH. Tất cả điều đó đã cho thấy một bài học lớn, cơ bản, xuyên suốt là cách mạng nước ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhân dân Việt Nam đã chứng minh chân lý rằng trong thời đại ngày nay, một dân tộc đất không rộng, người không đông, kinh tế kém phát triển song đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một Đảng Mác -Lê nin, có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực xâm lược, dù đó là nước đế quốc mạnh nhất. Về ý nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đại hội IV của Đảng đã ghi rõ: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”[1]./. Nguyễn Đăng Lâm, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tỉnh [1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hôi đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Sự thật – H1977 – T5-6. Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng thời kỳ 1930-1945(ĐCSVN) - Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thắng lợi vĩ đại, là mốc son chói lọi của lịch sử cách mạng Việt Nam.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta. Để hình thành đường lối cách mạng đúng đắn nghĩa là phải vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam để nhận thức đúng mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội Việt Nam, xác định đúng kẻ thù, quyết định nhiệm vụ chiến lược, các chủ trương chính sách để tập hợp lực lượng và phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn. Do đó, quá trình hình thành đường lối cách mạng giải phóng dân tộc giai đoạn 1930 – 1945, Đảng ta đã trải qua quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường vừa trực tiếp tuyên truyền, giáo dục, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh chống đế quốc thực dân, chống sưu cao thuế nặng, chống khủng bố dã man, vừa phát triển lực lượng bổ sung, tăng cường lãnh đạo các cấp của Đảng nhất là phải nhiều lần lập mới, bổ sung Ban chấp hành Trung ương của Đảng, vừa phải đẩy mạnh hoạt động “tự chỉ trích”, đấu tranh với tinh thần Bônsêvích để khắc phục những quan niệm cho rằng: Những nguyên lý về “giai cấp cách mạng” được coi như những giáo lý phải được tiếp thu vô điều kiện như chân lý bất biến khi vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam. Đây là cuộc đấu tranh rất quyết liệt và phức tạp chống chủ nghĩa giáo điều, dập khuôn máy móc, chống chủ nghĩa chủ quan tách rời thực tiễn. Từ nhận thức đúng đắn về mâu thuẫn cơ bản chủ yếu trong xã hội thuộc địa, về nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa, về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc, thực dân và chống phong kiến, mối quan hệ giữa chiến lược và sách lược, về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp… nên khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Ban Trung ương Đảng, trong Hội nghị từ ngày 6, 7, 8 tháng 11 năm 1939 đã xác định: Toàn Đảng phải “đứng trên lập trường cách mệnh giải phóng dân tộc, sự điều hòa những cuộc đấu tranh của những giai cấp người bổn xứ đưa nó vào phong trào đấu tranh chung của dân tộc ta là nhiệm vụ cốt lõi.”. Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 đã quyết định: “cuộc cách mệnh tư sản dân quyền do Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thực hiện giải quyết: 1.Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế quốc và phản bội dân tộc. 2.Đông Dương hoàn toàn độc lập (thi hành quyền dân tộc tự quyết). 3.Lập chính phủ cộng hòa dân chủ. 4. Lập quốc dân cách mệnh quân. 5.Quốc hữu hóa những nhà băng, các cơ quan vận tải, giao thông các binh xưởng, các sản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất. 6.Tịch ký và quốc hữu hóa tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc và bọn đế quốc thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc, nhà máy giao thợ thuyền quản lý. 7.Tịch ký và quốc hữu hóa đất ruộng của đế quốc thực dân và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nông dân cày cấy. 8.Thi hành luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ cho các hầm mỏ. 9. Bỏ hết các thứ sưu thuế. 10.Thủ tiêu tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. 11.Ban hành các quyền tự do dân chủ, cả quyền nghiệp đoàn phổ thông đầu phiếu, những người công dân từ 18 tuổi trở lên, bất cứ đàn ông đàn bà nòi giống nào đều được quyền bầu cử, ứng cử. 12.Phổ thông giáo dục cường bách. 13.Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị. 14.Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao.v.v[9]. Vào năm 1936, trước nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, Đại hội VII, quốc tế cộng sản chủ trương tập hợp mọi lực lượng dân chủ hòa bình chống chế độ phản động, chống chủ nghĩa phát xít. Nhiều nước trên thế giới đã hình thành mặt trận dân tộc rộng rãi. Ở Pháp, năm 1935, mặt trận bình dân Pháp được thành lập và giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và đứng ra thành lập chính phủ (5/1936). Thực hiện nghị quyết của quốc tế cộng sản, lợi dụng mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi ở Pháp, Đảng ta đã chủ trương mở rộng Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương nhằm tập hợp các giai cấp, Đảng phái, dân tộc, tổ chức chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau thực hiện nhiệm vụ chung là: “Mặt trận dân chúng thống nhất phản đế phải dùng đủ phương pháp mà đánh tan ách thống trị của đế quốc Pháp, chống đế quốc chiến tranh, chống chủ nghĩa phát xít, bênh vực Xô Viết liên bang”[12]. Đến Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, tư duy lý luận về tổ chức lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng đã hoàn toàn thống nhất với tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật không phải chỉ của riêng giai cấp công nhân và nông dân mà là nhiệm vụ chung của toàn dân Việt Nam, khi Trung ương Đảng xác định: “Thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp”[13]. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11/1940 đã đưa ra quan niệm về “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mệnh phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm và các lực lượng phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng”[14].Tại Hội nghị này dù Trung ương đã khẳng định: “khẩu hiệu cách mệnh phản đế; cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn” nhưng lại cho rằng: “cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước cái làm sau”[15].
PGS.TS Đào Duy Quát, Nguyên Phó Trưởng ban thường trực
|