Chính sách đối nội của Mĩ sau chiến tranh thế giới thứ hai là

Cũng như trước đây, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hoà thay nhau lên cầm quyền ở Mĩ.

Cũng như trước đây, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hoà thay nhau lên cầm quyền ở Mĩ. Tuy bề ngoài hai đảng này có vẻ đối lập nhau, nhưng thực chất đều thống nhất trong chính sách đối nội và đối ngoại nhằm : phục vụ lợi ích của các tập đoàn tư bản độc quyền kếch sù ở Mĩ.Về đối nội, để phục vụ mưu đó bá chủ thế giới, những năm đầu tiên sau chiến tranh, Mĩ đã ban hành hàng loạt đạo luật phản động như cấm Đảng Cộng sản Mĩ họat động. :chống lại phong trào đình công và loại bỏ những người có tư tưởng tiến bộ ra khỏi bộ máy Nhà nước. Tuy sau này do áp lực đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, một vài đạo luật đã phải hủy bỏ, nhưng chính quyền của các đời tổng thống vẫn tiếp tục thực hiện hàng -loạt chính sách nhằm ngăn cản phong trào công nhân, thực hiện chính sách phân biệt- Chủng tộc đối với người da đen và da màu... Mặc dù gặp không ít khó khăn trở ngại, các phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân Mĩ vẫn tiếp tục và có thời kì bùng lên dữ dội như các “mùa hè nóng bỏng” của người da đen diễn ra trong những năm 1963, 1969 - 1975], phong trào phản chiến trong những năm Mĩ xâm lược Việt Nam 1969 - 1972]..Về đối ngoại, với một tiềm lực kinh tế - quân sự to lớn. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, giới cầm quyền Mĩ đã đề ra “chiến lược toàn cầu” nhằm chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, đẩy lùi phong trào giải phóng dân tộc và thiết lập sự thống trị trên tòan thế giới. Mĩ đã tiến hành “viện trợ” để lôi kéo, khống chế các nước nhận viện trợ, lập các khối quân sự, gây nhiều cuộc chiến tranh xâm lược... Tuy đã thực hiện được một số mưu đồ, nhưng Mĩ cũng vấp phải nhiều thất bại nặng nề, tiêu biểu là thất bại của Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Dựa vào sự tăng trưởng kinh tế liên tục trong 10 năm [1991 - 2000] và vượt trội về các mặt kinh tế, khoa học - kĩ thuật, quân sự, các giới cầm quyền Mĩ rao riết tiến hành nhiều chính sách, biện pháp để xác lập trật tự thế giới “đơn cực” do Mĩ hoàn toàn chi phối và khống chế. Nhưng giữa tham vọng to lớn và khả năng thực tế của Mĩ vẫn có khoảng cách không nhỏ.

I. TÌNH HÌNH KINH TẾ NƯỚC MĨ SAU CHIỂN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI

1. Tình hình chung

- Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ bị thiệt hại ít và thu đuợc nhiều lợi nhuận nhất

-Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ trở thành nước giàu mạnh nhất trong thế giới tư bản.

2. Về kinh tế

- Trong những năm 1945-1950, sản lượng công nghiệp của Mĩ luôn luôn chiếm hơn một nửa sản lượng công nghiệp thế giới, 3/4 dự trữ vàng của thế giới, trên 50% tàu thuyền đí lại trên biển là của Mĩ.

-  Hai thập kỉ sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ là trung tâm kinh tế - tài chính giàu mạnh nhất thế giới.

*Nguyên nhân của sự phát triển kinh tế Mĩ

+ Đất nước không bị chiến tranh tàn phá.

+ Tài nguyên phong phú, nhân công dồi dào.

+ Dựa vào thành tựu Khoa học-kĩ thuật...

+ Có nền sản xuất vũ khí phát triển cao [thu 114 ti USD trong chiến tranh].

+ Trình độ tập trung sản xuất và tư bản cao.

- Kinh tế Mĩ những thập niên sau không còn giữ ưu thế tuyệt đổi.

*Nguyên nhân làm cho kinh tế của Mĩ bị suy giảm

+ Bị Tây Âu và Nhật Bản vươn lên và cạnh tranh gay gắt.

+ Kinh tế Mĩ không ổn định do vấp phải nhiều cuộc suy thoái, khủng hoảng.

+ Do theo đuổi tham vọng làm bá chủ thế giới, Mĩ chi nhiều những khoản lớn.

+ Sự chênh lệch giữa các tầng lớp trong xã hội.

II. SỰ PHÁT TRIỂN VỀ KHOA HỌC – KĨ THUẬT CỦA MĨ SAU CHIẾN TRANH

-  Nước Mĩ là nơi khởi đầu của cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật lần thứ hai vói việc chế tạo chiếc máy tính điện tử đầu tiên.

- Mĩ đạt được nhiều thành tựu kì diệu trong việc chế tạo ra vật liệu mới, năng lượng mới, tiến hành “Cách mạng xanh”, tiến hành cách mạng trong giao thông vận tải, thông tin liên lạc và chinh phục vũ trụ.

=> Nền kinh tế Mĩ phát triển nhanh chóng và đời sống vật chất, tỉnh thần của người dân Mĩ đã có nhiều cải thiện.

III.  CHÍNH SÁCH ĐỐI NỘI VÀ ĐỐI NGOẠI CỦA MĨ SAU CHIẾN TRANH

-  Mối quan hệ nhất quán giữa chính sách đối nội phản động và chính sách đối ngoại bành trướng xâm lược của Mĩ là nhằm thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới của giai cấp tư sản cầm quyển Mĩ.

*Đối nội:

-  Đảng Dân chủ và Đảng cộng hoà thay nhau thống trị và cầm quyền.

- Chính phù Mĩ ban hành một loạt các đạo luật phản động nhẳm chống lại phong trào công nhân và phong trào dân chủ trong nước như Đạo luật Táp- Hác-lây, Luật Mác-Ca-ran, Luật Kiểm tra lòng trung thành.

*Đối ngoại:

-  Đề ra “Chiến lược toàn cầu" với ý đồ thống trị thế giới.

-  Các hành động hành trướng, xâm lược của Mĩ, thi hành “chính sách thực lực", thành lập các khối quân sự, viện trợ kinh tế. quân sự cho các nước đồng minh...

-  Những thất bại nặng nề mà Mĩ đã vấp phải như can thiệp vào Trung Quốc [1945-1946], Cu Ba [1959-1960], nhất là trong cuộc Chiến tranh xâm lược Việt Nam [1954-1975].

- Tham vọng cùa Mĩ là to lớn, nhưng khả năng thực tế của Mĩ lại hạn chế [do những nhân tố chủ quan và khách quan].

Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật lần thứ hai khởi đầu từ quốc gia nào?

Năm 1969, Mĩ đã đạt được thành tựu gì nổi bật về khoa học - kĩ thuật?

Chính sách đối ngoại nổi bật của Mĩ trong giai đoạn 1991-2000 là

Điểm giống nhau trong chính sách đối ngoại của các đời tổng thống Mỹ là gì?

Năm 1995 đánh dấu mốc quan trọng nào trong mối quan hệ Việt – Mĩ?

Sau chiến tranh, chính phủ Mĩ đã ban hành hàng loạt đạo luật phản động trong đó có đạo luật Tap-Hác-Lây nhằm mục đích chống phong trào công nhân và Đảng cộng sản Mĩ hoạt động. Đồng thời chống lại phong trào đình công và loại bỏ những người có tư tưởng tiến bộ ra khỏi bộ máy nhà nước.

Đáp án cần chọn là: B

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Tóm tắt mục III. Chính sách đối nội và đối ngoại của Mĩ sau chiến tranh, Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hoà thay nhau lên cầm quyền ở Mĩ.

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Lịch sử lớp 9 - Xem ngay

Video liên quan

Chủ Đề