Cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa

Văn hóa học Mácsxít, đặc biệt là văn hóa học Xô Viết đã kế thừa những quan điểm tiến bộ trong văn hóa học phương Tây vào các thập kỷ 60 - 80 của thế kỷ XX, dựa trên cơ sở của chủ nghĩa biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các nhà khoa học thuộc trường phái này đã có nhiều công trình nghiên cứu sâu sắc và toàn diện về văn hóa với ba hướng tiếp cận chủ yếu: một là hướng tiếp cận giá trị xem xét văn hóa như tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần đã và đang được con người sáng tạo ra khác với tự nhiên; hai là hướng tiếp cận nhân cách xem văn hóa như một phạm trù, một thuộc tính của nhân cách. Văn hóa hướng vào việc phát triển những năng lực người, bộc lộ trình độ phát triển của con người; ba là hướng tiếp cận hoạt động lại khẳng định hoạt động chứ không phải là những giá trị được coi là yếu tố cơ bản của văn hóa [26, tr]. Ngoài những trường phái lý thuyết để khuôn định nội hàm khái niệm văn hóa, chúng ta còn thấy nhiều cách giải thích khác nhau về khái niệm này. Một trong những khái niệm thường được đề cập nhiều nhất ở nước ta là khái niệm của Hồ Chí Minh: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loại người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa". Năm 2003, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: "Văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân và các cộng đồng) trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động đó hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu, những yếu tố xác định đặc tính riêng của dân tộc".

  • Văn hóa là toàn bộ những giá trị do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử bằng lao động của mình trên cả 2 lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần.
  • Văn hóa thường được dùng với nghĩa hẹp hơn một lĩnh vực hoạt động bên cạnh chính trị, kinh tế, xã hội. Với nghĩa này Hồ Chí Minh nói: “ Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: Chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”.
  • Văn hóa còn được hiểu chủ yếu là văn hóa nghệ thuật xếp cạch giáo dục, khoa học.
  • Văn hóa được đề cập trong nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (BCH TW ĐCSVN khóa 8) bao quát đời sống tinh thần xã hội nói chung, tập trung vào lĩnh vực lớn: Tư tưởng , đạo đức, lối sống, phong tục tập quán, giáo dục và khoa học, văn học nghệ thuật, thông tin đại chúng, giao lưu văn hóa với thế giới, các thể chế và thiết chế văn hóa.
  • Đời sống xã hội có 2 mặt vật chất và tinh thần. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của đời sống xã hội thì văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội và với tính cách như vậy, văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
  • Trong các lý thuyết phát triển: ưu thế ngày càng thuộc về quan niệm coi mục tiêu phát triển phải là nâng cao chất lượng cuộc sống sao cho đảm bảo, sao cho hài hòa.
  • Để có quản lý đúng và có hiệu quả thì phải xác định được phạm vi, hiểu đúng đối tượng, có quan điểm rõ ràng và phương thức đúng, phương pháp phù hợp.
  • Phạm vi quản lý văn hóa: Bao trùm khái niệm rộng của văn hóa bao gồm: tư tưởng; đạo đức; lối sống; phong tục tập quán; giáo dục và khoa học; văn học nghệ thuật; thông tin đại chúng; giao lưu văn hóa với thế giới; các thể chế văn hóa và thiết chế văn hóa; tôn giáo. .. Theo Hà Xuân Trường: Tôn giáo là một hình thái văn hóa không chỉ có vấn đề tâm linh, mà còn có những công trình kiến trúc tôn giáo, nghệ thuật tôn giáo, văn học tôn giáo. Những yếu tố thuộc phạm vi văn hóa mà chúng ta phải quản lý. Về giáo dục, bên cạnh hệ thống giáo dục trong nhà trường, có giáo dục ngoài nhà trường Tóm lại: Xét về phương diện thao tác thực hành, trong quản lý văn hóa nó bao gồm: Quản lý nhà nước về văn hóa; quản lý sự nghiệp văn hóa sự tự quản của nhân dân. 1 Đối tượng của quản lý văn hóa:
  • Trong văn hóa có nhiều thành phần cấu thành và mỗi thành phần phải được hiểu đúng các đặc trưng của riêng nó.
  • Văn hóa nghệ thuật, di sản văn hóa, lễ hội, nếp sống, giải trí..ó những yêu cầu và đặc trưng riêng:
  • Văn hóa nghệ thuật: bao gồm nhiều loại hình khác nhau, không thể lấy một loại hình nào đó để làm tiêu chuẩn cho loại hình khác được.
  • Về văn học: Văn xuôi không giống thơ và ngược lại tiểu thuyết không giống truyện ngắn, ký sự khác hồi ký....
  • Về nghệ thuật: Không thể áp dụng tiêu chuẩn của văn xuôi cho hội họa, của hội họa cho nhiếp ảnh; Âm nhạc là lĩnh vực riêng biệt; Điện ảnh, sân khấu tuy cơ sở là văn học nhưng rất khác văn học; Kiến trúc gắn liền vứoi xây dựng nhưng nó là một ngành nghệ thuật...
  • Di sản có di sản hữu hình và di sản vô hình (còn gọi là di sản phi vật chất). Di sản vô hình khó bảo quản hơn nhiều đó là: Phong tục, tập quán, âm thanh, lối sống, nếp nghĩ, chuyện cổ tích,... Như vậy có nhiều đối tượng cụ thể là những thành phần cấu tạo văn hóa do đó có những nguyên tắc quản lý chung về văn hóa và những qui định, qui tắc quản lýcho từng đối tượng của văn hóa. Lưu ý: Trong học phần này chúng ta chỉ xem xét các nguyên tắc quản lý chung về văn hóa. Các qui định, qui tắc quản lý cho từng đối tượng sẽ được làm sáng tỏ ở các phân môn khác.
  • Quan điểm quản lý văn hóa 2 Lĩnh vực văn hóa là lĩnh vực mang tính đặc thù yêu cầu phải có lãnh đạo và quản lý của nhà nước
  • Ở các nước phương Tây trong các lĩnh vực kinh tế, đại bộ phận có thể không có quản lý trực tiếp của nhà nước, nhưng về văn hóa thì nước nào cũng có Bộ văn hóa chăm lo quản lý văn hóa.
  • Nhà nước đảm nhiệm một phần quan trọng trực tiếp quản lý những công trình văn hóa (gồm có: các công trình lịch sử hoặc những công trình nghệ thuật) và những cơ sở trực tiếp phát triển phục vụ nhu cầu văn hóa của nhân dân.
  • Văn hóa thuộc nhân dân:
  • Mọi người dân đều có quyền được hưởng thụ và sáng tạo văn hóa đồng thời có nghĩa vụ đóng góp bảo vệ nền văn hóa dân tộc.
  • Xã hội hóa quản lý văn hóa là xu thế tự nhiên của bất cứ xã hội nào. Ngoài hình thức nhà nước trong việc quản lý văn hóa cần thực hiện các hình thức tự quản của nhân dân trong việc bảo vệ và phát triển văn hóa, đảm bảo được tính đa dạng của văn hóa và đáp ứng được nhu cầu văn hóa của toàn dân. 2 Quan điểm quản lý văn hóa trong điều kiện thực tế ở Việt nam
  • Giải quyết đúng đắn các mối quan hệ giữa cơ chế thị trường, nền kinh tế hàng hóa và sự phát triển văn hóa:
  • Thế giới đã sử dụng khái niệm thị trường chỉ thuộc lĩnh vực kinh tế và trên lĩnh vực kinh tế, thị trường và hàng hóa là hai khái niệm đi đôi với nhau, có cái này mới có cái kia.
  • Thị trường và hàng hóa được phát triển dưới chế độ Tư bản chủ nghĩa, được coi là thuộc tính của Chủ nghĩa tư bản.
  • Trong quá trình đổi mới và cải cách, thị trường và hàng hóa được coi là sự phát triển tất yếu của nhân loại. Trung Quốc có quan điểm “ Thị trường xã hội chủ nghĩa”; Việt Nam có quan điểm “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”...
  • Cho đến nay, khái niệm thị trường được phổ biến rộng rãi trong lĩnh vực kinh tế là sự phát triển phạm trù chỉ có trong kinh tế chính trị. Trên thực tế, dù kinh tế là yếu tố quyết định, thì một xã hội xã hội phát triển không thể chỉ có kinh tế. Kinh tế và văn hóa là những nền tảng của xã hội văn minh: Nền tảng vật chất và nền tảng tinh thần. Đó là quan điểm của Đảng và nhà nước ta, rất phù hợp với quan điểm của thế giới văn minh, hiện đại.
  • Từ thị trường của kinh tế đã nảy sinh sự giao lưu văn hóa, hình thành những địa bàn của các hoạt động văn hóa, những thị trường văn hóa: thị trường thông tin; thị trường báo chí; thị trường nghệ thuật... (biểu diễn nghệ thuật, kỹ thuật, sang tạo, chất xám...) người ta coi đó là “hàng hóa đặc biệt” nghĩa là vừa tuân theo và vừa không tuân theo qui luật của hàng hóa.
  • Văn hóa là sản phẩm tinh thần, không thể coi như sản phẩm vật chất: trong lúc hàng hóa là yếu tố quyết định sự tồn tại của thị trương kinh tế, thì ở thị trường văn hóa sản phẩm được mua bán nhưng lại không mang tính hàng hóa (với nghĩa chặt chẽ là sản phẩm vật chất có giá trị sử dụng và giá trị trao đổi).
  • Thị trường văn hóa và sản phẩm của nó không nên coi là hàng hóa vì vậy không nên áp dụng qui luật kinh tế vào hoạt động văn hóa, mặc dù văn hóa chịu ảnh hưởng trực tiếp của qui luật kinh tế mà chỉ nên áp dụng đến đâu; đối với từng loại sản phẩm, dịch vụ cụ thể cần có chính sách riêng...
  • Những đặc điểm chung của nền kinh tế thị trường: Là dùng tiền làm đơn vị trao đổi và sự cạnh tranh, xác định rõ và chấp nhận nhân tố điều hành quản lý thị trường (tất yếu phải có kinh doanh văn hóa)
  • Cần thành lập các hội đồng thẩm định các giá trị sản phẩm văn hóa: gồm những nhà quản lý, những chuyên gia giỏi về từng lĩnh vực theo ngành nghề, loại hình loại thể và bộ môn; 3 Các nguyên tắc quản lý văn hóa
    • Là những qui tắc chỉ đạo những tiêu chuẩn hành vi mà các chủ thể quản lý bất kỳ cấp nào đều phải tuân theo khi thực hiện việc chỉ đạo, điều hành của mình;
  • Đặc điểm:
    • Trong quản lý, các nguyên tắc hình thành một hệ thống nhất quán;
    • Những nguyên tắc quản lý do con người đặt ra, nhưng mang tính chất khách quan vì nó nảy sinh từ chính bản chất xã hội;
    • Các nguyên tắc này buộc mọi cấp quản lý phải tuân thủ khi các quyết định quản lý;
  • Các nguyên tắc của quản lý văn hóa: (có 5 nguyên tắc)
  • Đảm bảo tính đảng trong quản lý
    • Quán triệt những quan điểm của Đảng trong quản lý một bộ máy
      • Nắm vững những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về lĩnh vực mình quản lý.
    • Xây dựng đội ngũ vững mạnh về tư tưởng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ
    • Luôn tranh thủ sự lãnh đạo của Đảng mọi lúc, mọi nơi và mọi công việc
  • Đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ
    • Tập trung: là quyền lực tập trung trong tay một hoặc một nhóm người để đảm bảo sự thống nhất trong quản lý, đảm bảo chế độ một thủ trưởng
    • Dân chủ: lắng nghe và phát huy quyền làm chủ của quần chúng, tranh thủ trí tuệ của quần chúng
    • Tác dụng của dân chủ là: người quản có nhiều thông tin, tránh được quan liêu; đề cao quyền làm chủ của nhân dân; thoả mãn được nguyện vọng của nhân dân, nâng cao trách nhiệm của nhân dân với nhiệm vụ chung.
    • Phải chú ý kết hợp hài hòa tập trung với dân chủ; tập trung quá sẽ độc đoán, dân chủ quá sẽ mất trật tự kỷ cương
    • Người quản lý phải biết lắng nghe ý kiến của nhân dân nhưng phải biết thống nhất ý kiến đó lại theo hướng tích cực.
    • Hiểu rõ và tôn trọng quyền quyết định của cấp dưới, biết chia sẻ với cấp dưới nhưng phải biết sử dụng quyền lực tập trung của nhà quản lý khi cần thiết.
  • Đảm bảo nguyên tắc thiết thực cụ thể
    • Thiết thực: phải quan tâm đến hiệu quả quản lý, không lãng phí, không chạy theo hình thức
    • Cụ thể: quản lý phải có mục tiêu cụ thể và lượng hóa được chỉ tiêu cụ thể của mục tiêu, không chung chung hoặc hô hào suông.
    • Thiết thực đòi hỏi phải cụ thể, cụ thể được thì sẽ đảm bảo tính thiết thực
  • Đảm bảo nguyên tắc khoa học và thực tiễn
    • Quản lý phải có cơ sở khoa học không chỉ dựa vào kinh nghiệm, phải căn cứ vào các quy luật khách quan chi phối bộ máy, không đi ngược quy luật khách quan
  • Hiểu rõ các đặc điểm của thực tiễn liên quan đến hoạt động của bộ máy; bám sát yêu cầu của thực tiễn của bộ máy cũng như môi trường xung quanh
  • Tính khoa học và thực tiễn luôn thống nhất, thực tiễn là cơ sở, là thước đo giá trị của các tác động, các quyết định quản lý.
  • Đảm bảo kết hợp hài hòa 3 lợi ích: Cá nhân, tập thể, xã hội
  • Chú ý thoả đáng lợi ích cá nhân đẻ tạo động lực cho người lao động, tránh thần thánh hóa con người
  • Đảm bảo lợi ích tập thể để tạo sự đoàn kết, gắn bó trong tập thể và thu hút được người lao động gắn bó trách nhiệm với tập thể
  • Đảm lợi ích xã hội để tạo ra sự công bằng xã hội, phát triển các phúc lợi xã hội và các bộ phận khác trong xẫ hội
  • Các kiểu cơ cấu tổ chức bộ máy a. Cơ cấu trực tuyến (ngành dọc)
    • Là loại cơ cấu tổ chức chỉ có 1 cấp trên và một số cấp dưới, có một số người lãnh đạo từ người cao nhất đến người thấp nhất.
    • Đặc điểm:
      • Một người lãnh đạo thực hiện tất cả các chức năng quản lý và chịu hoàn toàn trách nhiệm về bộ máy do mình quản lý.
    • Quyền hạn được giao cho người giám sát trực tiếp mọi hoạt động của cấp dưới và sắp xếp theo nguyên tắc thứ bậc.
    • Mối quan hệ giữa các thành viên theo chiều thẳng đứng - trên xuống, dưới lên, người thừa hành chỉ nhận lệnh của một cấp trên trực tiếp.
    • Ưu điểm:
      • Mệnh lệnh được thi hành nhanh chóng
      • Đảm bảo việc thực hiện chế độ một thủ trưởng một cách chắc chắn
        • Người đứng đầu thực hiện tất cả các chức năng quản lý nên dễ quy trách nhiệm về hoạt động của bộ máy
    • Nhược điểm:
      • Người lãnh đạo phải thực hiện nhiều chức năng quản lý nên khó hoàn thành tốt nhiệm vụ khi không đủ kiến thức và thời gian.
    • Khi phối hợp 2 bộ phận trong bộ máy sẽ có khó khăn, vì thông tin phải đi vòng theo tuyến đã quy định. (Cơ cấu này có từ thế kỷ XIX đến nay vẫn tồn tại). b. Cơ cấu chức năng
    • Là cơ cấu tổ chức hình thành những người lãnh đạo được chuyên môn hoá theo từng chức năng nhất định.
    • Đặc điểm:
      • Người lãnh đạo chức năng được chuyên môn hoá và chỉ đảm nhận 1 chức năng cụ thể.
    • Quyền hạn theo chức năng được trao cho người đứng đầu bộ phận và kiểm soát hoạt động được tiến hành bởi người phụ đứng đầu hệ thống.
    • Người thừa hành cấp dưới phải nhận lệnh từ cả người đứng đầu hệ thống và cả người lãnh đạo chức năng.
    • Ưu điểm:
      • Cơ cấu này thu hút được các chuyên gia vào công tác lãnh đạo
      • Các bộ phận được chuyên môn hoá theo chức năng 1 cách tỷ mỷ nên giảm bớt gánh nặng cho người đứng đầu hệ thống.
    • Nhược điểm:
      • Người lãnh đạo phải tốn nhiều thời gian để phối hợp các bộ phận chức năng
    • Trong hoạt động, người lãnh đạo khó kiểm soát được các mệnh lệnh của các bộ phận chức năng.
    • Người thừa hành cùng một lúc phải tiếp nhận nhiều mệnh lệnh, thậm chí trái ngược nhau của nhiều cấp trên trực tiếp. Cơ cấu này thường vận dụng ở phạm vi quản lý rộng, như ở tầm một quốc gia hoặc khu vực.
  1. Cơ cấu trực tuyến - chức năng liên hợp. - Là cơ cấu kết hợp cả kiểu cơ cấu trực tuyến và kiểu cơ cấu chức năng để tận dụng ưu điểm và khắc phục nhược điểm của 2 kiểu cơ cấu. - Đặc điểm: + Người lãnh đạo chịu trách nhiệm về hệ thống như trực tuyến nhưng có sự giúp đỡ của các bộ phận chức năng để chuẩn bị các quyết định quản lý cho lãnh đạo, đồng thời hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quyết định. + Người đứng đầu các bộ phận chức năng không có quyền trực tiếp ra lệnh cho người thừa hành mà gián tiếp thông qua người lãnh đạo. Bộ phận chức năng vừa giữ chức năng tham mưu vừa giúp lãnh đạo chỉ đạo các hoạt động của bộ máy. Ưu điểm: + Lợi dụng được ưu thế của cả 2 loại cơ cấu trực tuyến và chức năng + Phù hợp với yêu cầu quản lý ngày càng mở rộng. Đại bộ phận các bộ máy ở Việt Nam cấu tạo theo kiểu cơ cấu này. Nhược điểm : Các cơ quan chức năng tăng lên làm cho bộ máy cồng kềnh, mỗi khi các bộ phận chức năng có ý kiến tham mưu khác nhau, lãnh đạo rất khó ra quyết định, tốn nhiều thời gian hội họp. d. Cơ cấu trực tuyến - tham mưu. - Là cơ cấu trực tuyến kết hợp với một bộ phận tham mưu. Về hình thức, bộ máy vẫn là cơ cấu trực tuyến, bộ phận tham mưu chỉ cung cấp thông tin và các kiến thức chuyên môn cần thiết cho lãnh đạo làm cho bộ máy gọn nhẹ. Thực chất đây là cơ cấu trực tuyến nhưng có thêm bộ phận tham mưu giúp việc. - Đặc điểm: Người lãnh đạo sử dụng bộ phận tham mưu gồm một nhóm các chuyên gia hoặc các trợ lý giúp lãnh đạo: Cung cấp thông tin, đưa ra các lời khuyên để lãnh đạo ra những quyết định hợp lý, lãnh đạo tranh thủ được trí tuệ của họ phục vụ cho mục tiêu quản lý. Ưu điểm: Khai thác được trí tuệ của các chuyên gia giỏi có chuyên môn sâu về một lĩnh vực nào đó, giảm chi phí cho bộ máy, cải thiện được hoạt động của toàn hệ thống mà không cần tăng biên chế. Nhược điểm: Do có tham mưu nên tốc độ ra quyết định chậm, có thêm lời bàn nên lãnh đạo phải cân nhắc. Cơ cấu này phù hợp với tầm quản lý rộng. Chủ thể quản lý văn hóa bao gồm tổ chức, cá nhân, đoàn thể chính trị xã hội được Đảng, Nhà nước hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền trao cho thông qua các quyết định quản lý.
  • Khái niệm tổ chức Tổ chức được hiểu dưới 2 góc độ: Tổ chức là một hành động: Đó là việc liên kết nhiều người để thực hiện một công việc nào đó. Như vậy tổ chức là sắp xếp, điều khiển một nhóm người để đạt tới một đích nhất định. Lúc này tổ chức gần nghĩa với quản lý. Tổ chức là một tập hợp người được sắp xếp theo một cấu trúc nhất định nhằm thực hiện một mục tiêu chung. Thí dụ: một lớp học, một công ty, một cơ quan, xí nghiệp...
  • Người lãnh đạo phải thực hiện nhiều chức năng quản lý nên khó hoàn thành tốt nhiệm vụ khi không đủ kiến thức và thời gian.
  • Khi phối hợp 2 bộ phận trong bộ máy sẽ có khó khăn, vì thông tin phải đi vòng theo tuyến đã quy định. (Cơ cấu này có từ thế kỷ XIX đến nay vẫn tồn tại). b. Cơ cấu chức năng
  • Là cơ cấu tổ chức hình thành những người lãnh đạo được chuyên môn hoá theo từng chức năng nhất định.
  • Đặc điểm:
  • Người lãnh đạo chức năng được chuyên môn hoá và chỉ đảm nhận 1 chức năng cụ thể.
  • Quyền hạn theo chức năng được trao cho người đứng đầu bộ phận và kiểm soát hoạt động được tiến hành bởi người phụ đứng đầu hệ thống.
  • Người thừa hành cấp dưới phải nhận lệnh từ cả người đứng đầu hệ thống và cả người lãnh đạo chức năng.
  • Ưu điểm:
  • Cơ cấu này thu hút được các chuyên gia vào công tác lãnh đạo
  • Các bộ phận được chuyên môn hoá theo chức năng 1 cách tỷ mỷ nên giảm bớt gánh nặng cho người đứng đầu hệ thống.
  • Nhược điểm:
  • Người lãnh đạo phải tốn nhiều thời gian để phối hợp các bộ phận chức năng
  • Trong hoạt động, người lãnh đạo khó kiểm soát được các mệnh lệnh của các bộ phận chức năng.
  • Người thừa hành cùng một lúc phải tiếp nhận nhiều mệnh lệnh, thậm chí trái ngược nhau của nhiều cấp trên trực tiếp. Cơ cấu này thường vận dụng ở phạm vi quản lý rộng, như ở tầm một quốc gia hoặc khu vực. c. Cơ cấu trực tuyến - chức năng liên hợp.
  • Là cơ cấu kết hợp cả kiểu cơ cấu trực tuyến và kiểu cơ cấu chức năng để tận dụng ưu điểm và khắc phục nhược điểm của 2 kiểu cơ cấu.
  • Đặc điểm:
  • Người lãnh đạo chịu trách nhiệm về hệ thống như trực tuyến nhưng có sự giúp đỡ của các bộ phận chức năng để chuẩn bị các quyết định quản lý cho lãnh đạo, đồng thời hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quyết định.
  • Người đứng đầu các bộ phận chức năng không có quyền trực tiếp ra lệnh cho người thừa hành mà gián tiếp thông qua người lãnh đạo. Bộ phận chức năng vừa giữ chức năng tham mưu vừa giúp lãnh đạo chỉ đạo các hoạt động của bộ máy. Ưu điểm:
  • Lợi dụng được ưu thế của cả 2 loại cơ cấu trực tuyến và chức năng
  • Phù hợp với yêu cầu quản lý ngày càng mở rộng. Đại bộ phận các bộ máy ở Việt Nam cấu tạo theo kiểu cơ cấu này.

Nhược điểm : Các cơ quan chức năng tăng lên làm cho bộ máy cồng kềnh, mỗi khi các bộ phận chức năng có ý kiến tham mưu khác nhau, lãnh đạo rất khó ra quyết định, tốn nhiều thời gian hội họp. d. Cơ cấu trực tuyến - tham mưu. - Là cơ cấu trực tuyến kết hợp với một bộ phận tham mưu. Về hình thức, bộ máy vẫn là cơ cấu trực tuyến, bộ phận tham mưu chỉ cung cấp thông tin và các kiến thức chuyên môn cần thiết cho lãnh đạo làm cho bộ máy gọn nhẹ. Thực chất đây là cơ cấu trực tuyến nhưng có thêm bộ phận tham mưu giúp việc. - Đặc điểm: Người lãnh đạo sử dụng bộ phận tham mưu gồm một nhóm các chuyên gia hoặc các trợ lý giúp lãnh đạo: Cung cấp thông tin, đưa ra các lời khuyên để lãnh đạo ra những quyết định hợp lý, lãnh đạo tranh thủ được trí tuệ của họ phục vụ cho mục tiêu quản lý. Ưu điểm: Khai thác được trí tuệ của các chuyên gia giỏi có chuyên môn sâu về một lĩnh vực nào đó, giảm chi phí cho bộ máy, cải thiện được hoạt động của toàn hệ thống mà không cần tăng biên chế. Nhược điểm: Do có tham mưu nên tốc độ ra quyết định chậm, có thêm lời bàn nên lãnh đạo phải cân nhắc. Cơ cấu này phù hợp với tầm quản lý rộng. 1 Đối tượng của quản lý văn hóa: - Trong văn hóa có nhiều thành phần cấu thành và mỗi thành phần phải được hiểu đúng các đặc trưng của riêng nó. - Văn hóa nghệ thuật, di sản văn hóa, lễ hội, nếp sống, giải trí..ó những yêu cầu và đặc trưng riêng: + Văn hóa nghệ thuật: bao gồm nhiều loại hình khác nhau, không thể lấy một loại hình nào đó để làm tiêu chuẩn cho loại hình khác được. + Về văn học: Văn xuôi không giống thơ và ngược lại tiểu thuyết không giống truyện ngắn, ký sự khác hồi ký.... + Về nghệ thuật: Không thể áp dụng tiêu chuẩn của văn xuôi cho hội họa, của hội họa cho nhiếp ảnh; Âm nhạc là lĩnh vực riêng biệt; Điện ảnh, sân khấu tuy cơ sở là văn học nhưng rất khác văn học; Kiến trúc gắn liền vứoi xây dựng nhưng nó là một ngành nghệ thuật... + Di sản có di sản hữu hình và di sản vô hình (còn gọi là di sản phi vật chất). Di sản vô hình khó bảo quản hơn nhiều đó là: Phong tục, tập quán, âm thanh, lối sống, nếp nghĩ, chuyện cổ tích,... Như vậy có nhiều đối tượng cụ thể là những thành phần cấu tạo văn hóa do đó có những nguyên tắc quản lý chung về văn hóa và những qui định, qui tắc quản lýcho từng đối tượng của văn hóa. 2. Mục tiêu, đặc điểm quản lý nhà nước về văn hóa 2 Mục tiêu quản lý văn hóa

  • Mục tiêu: chính là tạo điều kiện cho văn hóa phát triển hài hòa và nhịp nhàng giữa các yếu tố của bản thân văn hóa và trong quan hệ giữa văn hóa với kinh tế, chính trị, xã hội. Văn hoá là lĩnh vực sản xuất tinh thần, sáng tạo như nhận định của Mác, tạo ra những giá trị tinh thần những công trình khoa học, văn hoá nghệ thuật nhằm xây dựng và phát triển con người. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của đời

NQ hội nghị TW 5 khóa VIII, xác định 5 quan điểm chỉ đạo để xây đựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Quan điểm đầu tiên được Đảng ta nêu ra là:“ Văn hóa vừa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế xã hội”. Quan điểm này không chỉ xác định vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp đổi mới mà còn thể hiện tư tưởng của Đảng về sự gắn kết chặt chẽ giữa văn hóa và kinh tế trong quá trình đổi mới. Giữa kinh tế và văn hóa có mối quan hệ biện chứng với nhau, nếu chỉ tập trung cho phát triển kinh tế mà không quan tâm đến lĩnh vực văn hóa thì xã hội sẽ không phát triển một cách bền vững. Đã có rất nhiều quốc gia đã đặt vấn đề phát triẻn kinh tế lên hàng đầu mà quên đi trong kinh tế có văn hóa, coi văn hóa chỉ là trang sức cho xã hội, chỉ là vấn đề thứ yếu đã dẫn đến khi đã có tăng trưởng kinh tế thì hệ quả là các vấn đề tệ nạn xã hội phát triển theo, làm cho tình hình xã hội luôn diễn ra bất ổn. Nhưng nếu không quan tâm đến phát triển kinh tế thì sẽ không có sự phát triển văn hóa. Bởi vì văn hóa phát triển luôn phục tùng quan điểm, quy luật: phát triển sản xuất quyết định phát triển sản xuất tinh thần, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Thực chất của nội dung tính quy luật nêu trên nêu bật quan điểm duy vật khoa học về sự hình thành và phát triển văn hóa, chỉ ra tiền đề và nền tảng vật chất của văn hóa. Hồ Chí Minh cũng từng chỉ ra rằng: muốn phát triển văn hóa trước hết phải phát triển kinh tế, vì kinh tế là cơ sở của một chế độ xã hội, đồng thời văn hóa thuộc về kiến trúc thượng tầng luôn chịu sự quy định của cơ sở kinh tế. Ngày nay, trong tư duy đổi mới của Đảng ta, văn hóa không còn là hoạt động bó hẹp trong một lĩnh vực, một ngành, văn hóa có mặt ở khắp nơi trong mọi hoạt động của con người và của toàn xã hội; văn hóa không đứng ngoài kinh tế hay lệ thuộc một cách thụ động vào kinh tế mà văn hóa phải nằm trong mọi mặt, mọi ngành, trong tất cả các lĩnh vực kinh tế và ngược lại. Văn hóa là một hoạt động sản xuất, đồng thời văn hóa cũng nằm trong mọi hoạt hoạt động sản xuất, nó kết tinh trên từng sả phẩm của văn hóa. Đặc biệt, văn hóa mang lại hiệu quả đáng kể cho phát triển kinh tế xã hội. Do đó cần phải đầu tư cho văn hóa và chăm lo việc quản lý văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số. 2 Đặc điểm quản lý nhà nước về văn hóa Nắm vững quan điểm chỉ đạo trong xây dựng và phát triển văn hóa của Đảng cộng sản Việt Nam trong tình hình phát triển mới của đất nước như hiện nay cần phải tuân theo định hướng của Đảng, trên cơ sở đó xây dựng thành những nguyên tắc của quản lý văn hóa với những đặc điểm nổi bật trong tình hình hiện nay là: đất nước đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; chúng ta xây dựng nền văn hóa trong bối cảnh cơ chế thị trường đi vào chiều sâu, giao lưu quốc tế được mở rộng do đó những đòi hỏi mới được đặt ra (yêu cầu):

  • Làm sao giữ được bản chất cách mạng, con đường mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, đồng thời giữ được bản sắc văn hóa dân tộc của nền văn hóa Việt Nam?
  • Làm sao vừa phải gắn mình với thị trường, với giao lưu quốc tế, một thế giới đối lập với chúng ta về ý thức hệ, lại vẫn giữ phẩm chất xã hội chủ nghĩa và bản sắc Viêt Nam nền văn hóa dân tộc có bề dày lịch sử?
  • Làm sao đi tắt đón đầu, hòa nhập cùng thế giới hiện đại mà không chệch hướng, mất gốc? Để trả lời cho những câu hỏi trên chúng ta nhận thấy: những cơ hội, nhiều thách thức va biết bao cạm bẫy đặt ra trên con đường xây dựng nền văn hóa Việt Nam theo mầu sắc Việt Nam mà ta cần tránh, cần đấu tranh nhưng không vì vậy mà lại dậm chân tại chỗ, lại lùi bước trước yêu cầu phát triển. Thời cơ, thách thức và triển vọng cùng với những nguy cơ đều rất lớn. Muốn làm tròn trách nhiệm, những người làm công tác văn hóa phải cố gắng rất nhiều, phải tự vượt mình, phải có bản lĩnh và cần phải trang bị cho mình những năng lực mới. Theo Nguyễn Khoa Điềm: “Chúng ta đang ở trong một thời điểm của đất nước, một trào lưu mới của đời sống văn hóa. Chúng ta cần có cách làm văn hóa thật mới. Những kinh nghiệm hôm qua là rất quí, nhưng không đủ. Cần nhanh chóng nắm lấy những cách làm mới, thật sự sáng tạo và năng động”. Do đó cần thực hiện những nguyên tắc cơ bản trong công tác quản lý văn hóa ở nước ta hiện nay là: Thứ nhất: Thái độ xã hội chủ nghĩa trong giải quyết vấn đề văn hóa
  • Chỉ có thể giải quyết văn hóa theo lập trường xã hội chủ nghĩa thì mới đưa văn hóa tới những giá trị văn hóa thực sự;
  • Sản phẩm văn hóa có đến tay nhân dân hay không hay chỉ mua vui cho một bộ phận có tiền của (đó chính là lập trường xã hội chủ nghĩa của văn hóa);
  • Nội dung sách báo chúng ta có đem lại những điều bổ ích, cao đẹp cho người đọc hay chỉ là thứ dật gân, câu khách để kiếm tiền (đó chính là lập trường xã hội chủ nghĩa của văn hóa);
  • Nếu toàn bộ hoạt động văn hóa không làm sáng tỏ lập trường tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì văn hóa không thể nâng cao con người, thúc đẩy con người đi vào sự nghiệp lớn;
  • Những người lao động có văn hóa phải có lập trường xã hội chủ nghĩa thật mạnh mẽ thì mới tạo ra những sản phẩm văn hóa có ích phục vụ cách mạng. Thứ hai: Ý thức dân tộc sâu sắc trong sử lý vấn đề văn hóa
  • Bản sắc dân tộc là cái làm ra linh hồn vẻ đẹp của một nền văn hóa. Nhưng bản sắc dân tộc trong văn hóa chỉ ra đời từ ý thức dân tộc sâu sắc và sự hiểu biết đầy đủ về dân tộc mình.

Cán bộ quản lý văn hóa hôm nay, đối diện với thời đại đầy sôi sục, biến động, phải có ý thức dân tộc sâu sắc trong văn hóa thì mới thúc đẩy văn hóa dân tộc đi đúng hướng, không tự mình đánh mất mình trước quá trình phát triển rất phức tạp của đời sống văn hóa. Thứ ba: Nắm bắt nhịp độ phát triển của thế giới loài người để đặt đúng yêu cầu phát triển văn hóa