Cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa
Văn hóa học Mácsxít, đặc biệt là văn hóa học Xô Viết đã kế thừa những quan điểm tiến bộ trong văn hóa học phương Tây vào các thập kỷ 60 - 80 của thế kỷ XX, dựa trên cơ sở của chủ nghĩa biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các nhà khoa học thuộc trường phái này đã có nhiều công trình nghiên cứu sâu sắc và toàn diện về văn hóa với ba hướng tiếp cận chủ yếu: một là hướng tiếp cận giá trị xem xét văn hóa như tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần đã và đang được con người sáng tạo ra khác với tự nhiên; hai là hướng tiếp cận nhân cách xem văn hóa như một phạm trù, một thuộc tính của nhân cách. Văn hóa hướng vào việc phát triển những năng lực người, bộc lộ trình độ phát triển của con người; ba là hướng tiếp cận hoạt động lại khẳng định hoạt động chứ không phải là những giá trị được coi là yếu tố cơ bản của văn hóa [26, tr]. Ngoài những trường phái lý thuyết để khuôn định nội hàm khái niệm văn hóa, chúng ta còn thấy nhiều cách giải thích khác nhau về khái niệm này. Một trong những khái niệm thường được đề cập nhiều nhất ở nước ta là khái niệm của Hồ Chí Minh: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loại người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa". Năm 2003, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: "Văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân và các cộng đồng) trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động đó hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu, những yếu tố xác định đặc tính riêng của dân tộc".
Nhược điểm : Các cơ quan chức năng tăng lên làm cho bộ máy cồng kềnh, mỗi khi các bộ phận chức năng có ý kiến tham mưu khác nhau, lãnh đạo rất khó ra quyết định, tốn nhiều thời gian hội họp. d. Cơ cấu trực tuyến - tham mưu. - Là cơ cấu trực tuyến kết hợp với một bộ phận tham mưu. Về hình thức, bộ máy vẫn là cơ cấu trực tuyến, bộ phận tham mưu chỉ cung cấp thông tin và các kiến thức chuyên môn cần thiết cho lãnh đạo làm cho bộ máy gọn nhẹ. Thực chất đây là cơ cấu trực tuyến nhưng có thêm bộ phận tham mưu giúp việc. - Đặc điểm: Người lãnh đạo sử dụng bộ phận tham mưu gồm một nhóm các chuyên gia hoặc các trợ lý giúp lãnh đạo: Cung cấp thông tin, đưa ra các lời khuyên để lãnh đạo ra những quyết định hợp lý, lãnh đạo tranh thủ được trí tuệ của họ phục vụ cho mục tiêu quản lý. Ưu điểm: Khai thác được trí tuệ của các chuyên gia giỏi có chuyên môn sâu về một lĩnh vực nào đó, giảm chi phí cho bộ máy, cải thiện được hoạt động của toàn hệ thống mà không cần tăng biên chế. Nhược điểm: Do có tham mưu nên tốc độ ra quyết định chậm, có thêm lời bàn nên lãnh đạo phải cân nhắc. Cơ cấu này phù hợp với tầm quản lý rộng. 1 Đối tượng của quản lý văn hóa: - Trong văn hóa có nhiều thành phần cấu thành và mỗi thành phần phải được hiểu đúng các đặc trưng của riêng nó. - Văn hóa nghệ thuật, di sản văn hóa, lễ hội, nếp sống, giải trí..ó những yêu cầu và đặc trưng riêng: + Văn hóa nghệ thuật: bao gồm nhiều loại hình khác nhau, không thể lấy một loại hình nào đó để làm tiêu chuẩn cho loại hình khác được. + Về văn học: Văn xuôi không giống thơ và ngược lại tiểu thuyết không giống truyện ngắn, ký sự khác hồi ký.... + Về nghệ thuật: Không thể áp dụng tiêu chuẩn của văn xuôi cho hội họa, của hội họa cho nhiếp ảnh; Âm nhạc là lĩnh vực riêng biệt; Điện ảnh, sân khấu tuy cơ sở là văn học nhưng rất khác văn học; Kiến trúc gắn liền vứoi xây dựng nhưng nó là một ngành nghệ thuật... + Di sản có di sản hữu hình và di sản vô hình (còn gọi là di sản phi vật chất). Di sản vô hình khó bảo quản hơn nhiều đó là: Phong tục, tập quán, âm thanh, lối sống, nếp nghĩ, chuyện cổ tích,... Như vậy có nhiều đối tượng cụ thể là những thành phần cấu tạo văn hóa do đó có những nguyên tắc quản lý chung về văn hóa và những qui định, qui tắc quản lýcho từng đối tượng của văn hóa. 2. Mục tiêu, đặc điểm quản lý nhà nước về văn hóa 2 Mục tiêu quản lý văn hóa
NQ hội nghị TW 5 khóa VIII, xác định 5 quan điểm chỉ đạo để xây đựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Quan điểm đầu tiên được Đảng ta nêu ra là:“ Văn hóa vừa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế xã hội”. Quan điểm này không chỉ xác định vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp đổi mới mà còn thể hiện tư tưởng của Đảng về sự gắn kết chặt chẽ giữa văn hóa và kinh tế trong quá trình đổi mới. Giữa kinh tế và văn hóa có mối quan hệ biện chứng với nhau, nếu chỉ tập trung cho phát triển kinh tế mà không quan tâm đến lĩnh vực văn hóa thì xã hội sẽ không phát triển một cách bền vững. Đã có rất nhiều quốc gia đã đặt vấn đề phát triẻn kinh tế lên hàng đầu mà quên đi trong kinh tế có văn hóa, coi văn hóa chỉ là trang sức cho xã hội, chỉ là vấn đề thứ yếu đã dẫn đến khi đã có tăng trưởng kinh tế thì hệ quả là các vấn đề tệ nạn xã hội phát triển theo, làm cho tình hình xã hội luôn diễn ra bất ổn. Nhưng nếu không quan tâm đến phát triển kinh tế thì sẽ không có sự phát triển văn hóa. Bởi vì văn hóa phát triển luôn phục tùng quan điểm, quy luật: phát triển sản xuất quyết định phát triển sản xuất tinh thần, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Thực chất của nội dung tính quy luật nêu trên nêu bật quan điểm duy vật khoa học về sự hình thành và phát triển văn hóa, chỉ ra tiền đề và nền tảng vật chất của văn hóa. Hồ Chí Minh cũng từng chỉ ra rằng: muốn phát triển văn hóa trước hết phải phát triển kinh tế, vì kinh tế là cơ sở của một chế độ xã hội, đồng thời văn hóa thuộc về kiến trúc thượng tầng luôn chịu sự quy định của cơ sở kinh tế. Ngày nay, trong tư duy đổi mới của Đảng ta, văn hóa không còn là hoạt động bó hẹp trong một lĩnh vực, một ngành, văn hóa có mặt ở khắp nơi trong mọi hoạt động của con người và của toàn xã hội; văn hóa không đứng ngoài kinh tế hay lệ thuộc một cách thụ động vào kinh tế mà văn hóa phải nằm trong mọi mặt, mọi ngành, trong tất cả các lĩnh vực kinh tế và ngược lại. Văn hóa là một hoạt động sản xuất, đồng thời văn hóa cũng nằm trong mọi hoạt hoạt động sản xuất, nó kết tinh trên từng sả phẩm của văn hóa. Đặc biệt, văn hóa mang lại hiệu quả đáng kể cho phát triển kinh tế xã hội. Do đó cần phải đầu tư cho văn hóa và chăm lo việc quản lý văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số. 2 Đặc điểm quản lý nhà nước về văn hóa Nắm vững quan điểm chỉ đạo trong xây dựng và phát triển văn hóa của Đảng cộng sản Việt Nam trong tình hình phát triển mới của đất nước như hiện nay cần phải tuân theo định hướng của Đảng, trên cơ sở đó xây dựng thành những nguyên tắc của quản lý văn hóa với những đặc điểm nổi bật trong tình hình hiện nay là: đất nước đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; chúng ta xây dựng nền văn hóa trong bối cảnh cơ chế thị trường đi vào chiều sâu, giao lưu quốc tế được mở rộng do đó những đòi hỏi mới được đặt ra (yêu cầu):
Cán bộ quản lý văn hóa hôm nay, đối diện với thời đại đầy sôi sục, biến động, phải có ý thức dân tộc sâu sắc trong văn hóa thì mới thúc đẩy văn hóa dân tộc đi đúng hướng, không tự mình đánh mất mình trước quá trình phát triển rất phức tạp của đời sống văn hóa. Thứ ba: Nắm bắt nhịp độ phát triển của thế giới loài người để đặt đúng yêu cầu phát triển văn hóa |