Đảo hoàng sa bị trung quốc chiếm năm nào năm 2024
Giấy phép xuất bản số 110/GP - BTTTT cấp ngày 24.3.2020 © 2003-2024 Bản quyền thuộc về Báo Thanh Niên. Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Show
Quần đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo là nhóm An Vĩnh (Amphitrite) phía đông bắc và nhóm Lưỡi Liềm/Trăng Khuyết (Crescent) phía tây nam Địa lý Vị trí quần đảo Hoàng Sa trong Biển Đông Vị tríBiển ĐôngTọa độ16°30′B 112°00′Đ / 16,5°B 112°ĐTổng số đảo16Các đảo chínhĐảo Đá, Đảo Cây, Đảo Phú LâmĐường bờ biển518 kilômét (322 mi)Điểm cao nhấtchưa được đặt tên trên đảo ĐáĐộ cao cao nhất14 mét (46 ft)Quản lýQuốc gia quản lý Quốc gia Quốc gia
Quần đảo Hoàng Sa (theo cách gọi của Việt Nam) hay quần đảo Tây Sa (giản thể: 西沙群岛; phồn thể: 西沙群島; Hán-Việt: Tây Sa quần đảo; bính âm: Xīshā qúndǎo, theo cách gọi của Trung Quốc và Đài Loan, còn được biết đến thông qua tên gọi quốc tế phổ biến bằng tiếng Anh là Paracel Islands) là một nhóm khoảng 30 đảo, rạn san hô, cồn cát và bãi đá ngầm ở biển Đông, là đối tượng tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam. Hiện nay, Trung Quốc là quốc gia đang duy trì sự kiểm soát cũng như quyền tài phán trên thực tế đối với toàn bộ quần đảo này. Quần đảo nằm cách miền Trung Việt Nam khoảng một phần ba khoảng cách đến những đảo phía bắc của Philippines; cách đảo Lý Sơn của Việt Nam khoảng 200 hải lý và cách đảo Hải Nam của Trung Quốc khoảng 230 hải lý. Chữ Hoàng Sa (黄沙) có nghĩa là "cát vàng". Phía Việt Nam cho rằng các chính quyền của họ từ thế kỷ 16-18 (thời kỳ nhà Hậu Lê) đã tổ chức khai thác trên quần đảo hàng năm kéo dài theo mùa (6 tháng). Đến đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn (Việt Nam) với tư cách nhà nước đã tiếp tục thực thi chủ quyền trên quần đảo. Các hoạt động thực thi chủ quyền của nhà Nguyễn được bắt đầu có thể muộn hơn các triều đại Trung Hoa nhưng với mật độ mau hơn trong thế kỷ XIX với các năm 1803, 1816, 1821, 1835, 1836, 1837, 1838, 1845, 1847 và 1856. Không chỉ là kiểm tra chớp nhoáng trên các đảo hoang nhỏ vô chủ rồi về, mà hoạt động chủ quyền cấp nhà nước của nhà Nguyễn từ năm 1816 bao gồm cả việc khảo sát đo đạc thủy trình, đo vẽ bản đồ dài ngày, xây xong sau nhiều ngày quốc tự trên đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, cắm bia chủ quyền và cứu hộ hàng hải quốc tế. Cuối thế kỷ 19, do suy yếu và mất nước bởi Đế quốc Pháp xâm lược, hoạt động chủ quyền của nhà Nguyễn đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa cũng do đó mà bị gián đoạn. Ngược lại, phía Trung Quốc và Đài Loan cũng cho rằng quần đảo Hoàng Sa kể từ khi bắt đầu thời kỳ nhà Hán (năm 206 trước công nguyên) đã là lãnh thổ của Trung Quốc, các triều đại về sau vẫn có các hoạt động phát triển, các nhà nước phong kiến Trung Hoa, thỉnh thoảng với tần suất vài lần trong nhiều thế kỷ hay một lần trong mỗi thế kỷ, đã gửi quân kiểm tra hay các đoàn sứ thần ngoại giao đi sứ ngang qua quần đảo này. Đỉnh điểm của hoạt động tuần tra cấp nhà nước là vào đầu thời đại nhà Minh với các chuyến thám hiểm từ năm 1405-1433, đi ngang qua quần đảo, đến Đông Nam Á và Ấn Độ Dương (Ấn Độ và các nước Ả rập) của Trịnh Hòa. Sau thời Trịnh Hòa (năm 1433) đến cuối triều đại nhà Thanh (năm 1911), hoạt động tuần tra quần đảo này chỉ còn chủ yếu là do chính quyền địa phương của thành phố Quảng Châu (thuộc tỉnh Quảng Đông) thực hiện, các nhà nước Trung Hoa không còn lưu tâm đến lãnh vực hàng hải, để các đảo, đá san hô ở biển Nam Hải (biển Đông) trở về nguyên vẹn là các đảo hoang (荒島無居民). Các cuộc tuần tra của chính quyền địa phương Quảng Châu trong thời Minh Thanh sau năm 1433 là: Cuộc tuần tra tại các đảo ven bờ Quỳnh Châu (Hải Nam) nằm trong Thất Châu Dương (phần đông bắc Biển Đông) của Ngô Thăng (吳昇) đầu thời nhà Thanh (năm 1710-1712), và cuộc tuần tra một ngày của Lý Chuẩn (năm 1909) cuối nhà Thanh. Một cuộc đi sứ Anh Quốc ngang qua (nhìn thấy trên hành trình nội nhật trong 1 ngày) các đảo, đá, bãi ngầm san hô được cho là quần đảo Hoàng Sa (Tây Sa) năm 1876 của Quách Tung Đảo. Trên quần đảo vẫn còn những di tích từ thời nhà Đường và nhà Tống. Vào đầu thế kỷ 20, Liên bang Đông Dương thuộc Pháp kiểm soát quần đảo, nhưng đã bắt đầu có sự tranh chấp chủ quyền với chính quyền Trung Hoa Dân Quốc. Sau đó, quần đảo rơi vào tay Đế quốc Nhật Bản và được gộp chung vào với Đài Loan thuộc Nhật trong giai đoạn 1941-1945. Tại Hội nghị San Francisco năm 1951 về việc phân định các lãnh thổ mà Đế quốc Nhật Bản chiếm giữ, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đối tượng tuyên bố chủ quyền của nhiều bên tranh chấp bao gồm Liên hiệp Pháp, Trung Quốc, Đài Loan và Philippines. Kết quả Hội nghị không công nhận chủ quyền của quốc gia nào, các quần đảo được coi là vô chủ và càng gây ra tranh chấp dữ dội hơn sau này. Năm 1956, Việt Nam Cộng hòa tiếp nối Liên hiệp Pháp thực hiện kiểm soát một số đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, nhưng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã đem quân kiểm soát nửa phía Đông quần đảo từ trước đó vài tháng. Năm 1958, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra tuyên bố về hải phận, trong đó có khẳng định đảo Đài Loan, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đều thuộc về lãnh thổ của mình. Năm 1974, Hải quân Trung Quốc đánh bại Hải quân Việt Nam Cộng hòa, giành quyền kiểm soát toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa hiện nay vẫn đang trong tình trạng tranh chấp lãnh thổ giữa Việt Nam, Trung Quốc và Đài Loan. Địa lý tự nhiênQuần đảo Hoàng Sa là một tập hợp trên 30 đảo san hô, cồn cát, ám tiêu (rạn) san hô nói chung (trong đó có nhiều ám tiêu san hô vòng hay còn gọi là rạn vòng) và bãi ngầm thuộc biển Đông, ở vào khoảng một phần ba quãng đường từ miền Trung Việt Nam đến phía bắc Philippines. Quần đảo trải dài từ 15°43′10" đến 17°06′53" Bắc và từ 111°11′12" đến 112°53′20" Đông, có bốn điểm cực bắc-nam-tây-đông lần lượt tại đá Bắc, bãi Ốc Tai Voi, đảo Tri Tôn và bãi Gò Nổi. Độ dài đường bờ biển đạt 518 km. Điểm cao nhất của quần đảo là một vị trí trên đảo Đá với cao độ 14 m (hay 15,2 m). Vùng biển Hoàng Sa trong biển Đông nằm trong vùng "xích đạo từ". Về khoảng cách đến đất liền, quần đảo Hoàng Sa nằm gần Việt Nam hơn. Cụ thể, khoảng cách từ đảo Tri Tôn (15°47'B 111°12'Đ) tới đảo Lý Sơn (15°22'B 109°07'Đ) là 121,1 hải lý (224,3 km). Nếu lấy toạ độ của cù lao Ré (tên cũ của Lý Sơn) là 15°23,1'B 109°09,0'Đ từ bản tuyên cáo đường cơ sở của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (ngày 12 tháng 11 năm 1982) thì khoảng cách đến bờ Lý Sơn thu ngắn lại dưới 121 hải lý. Ngoài ra, khoảng cách từ đảo Tri Tôn này đến mũi Ba Làng An (15°14'B 108°56'Đ) thuộc đất liền Việt Nam là 134,6 hải lý (249,3 km). Trong khi đó, khoảng cách từ đảo Hoàng Sa (đảo thuộc Quần đảo Hoàng Sa gần Trung Quốc nhất) đến Lăng Thủy giác (tiếng Trung: 陵水角; bính âm: Língshuǐ jiǎo) thuộc đảo Hải Nam của Trung Quốc là 142,5 hải lý (263,9 km). Khoảng cách từ đảo Hoàng Sa tới đất liền lục địa Trung Quốc tối thiểu là 235 hải lý. Nếu Trung Quốc dùng rạn đá ngầm (đá Bắc) làm chuẩn để đo đến bờ đảo Hải Nam tại Lăng Thủy giác thì khoảng cách là 111,9 hải lý (207,2 km), nhưng do đá ngầm không có giá trị như đảo trong việc chuẩn định ranh giới nên lý lẽ này không thuyết phục. Phân nhómQuần đảo Hoàng Sa được chia làm hai nhóm đảo là nhóm đảo An Vĩnh và nhóm đảo Lưỡi Liềm. Có tài liệu chia quần đảo làm ba phần, trong đó ngoài hai nhóm trên thì còn có một nhóm nữa gọi là nhóm Linh Côn. Nhóm An VĩnhNhóm đảo An Vĩnh (tiếng Anh: Amphitrite Group; tiếng Trung: 宣德群岛, Hán-Việt: Tuyên Đức quần đảo) bao gồm các thực thể địa lý ở phía đông của quần đảo (theo cách chia thứ hai: nhóm An Vĩnh ở phía đông bắc của quần đảo, nhóm Linh Côn ở phía đông và đông nam của quần đảo). Nhóm này bao gồm đảo Bắc, đảo Cây (đảo Cù Mộc), đảo Trung (đảo Giữa), đảo Đá, đảo Linh Côn, Đảo Nam, đảo Phú Lâm, đá Bông Bay, cồn cát Bắc, cồn cát Nam, cồn cát Tây, cồn cát Trung, hòn Tháp, đá Trương Nghĩa, bãi Bình Sơn, bãi Châu Nhai, bãi Gò Nổi, bãi La Mác (phần kéo dài phía nam của bãi ngầm chứa đảo Linh Côn), bãi Quảng Nghĩa, bãi Thủy Tề, bãi Ốc Tai Voi. Theo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, An Vĩnh là tên một xã vào thời chúa Nguyễn (Đàng Trong), thuộc huyện Bình Dương (tức huyện Bình Sơn) phủ Tư Nghĩa trấn Quảng Nam (Tư Nghĩa tức phủ Hòa Nghĩa, đến thời nhà Nguyễn thì trở thành tỉnh Quảng Ngãi). Sách Đại Nam thực lục (tiền biên, quyển 10) ghi chép về xã này như sau: Ngoài biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi có hơn 100 cồn cát... chiều dài kéo dài không biết tới mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn lý Hoàng Sa châu... Hồi quốc sơ đầu triều Nguyễn đặt đội Hoàng Sa gồm 70 người lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm cứ đến tháng ba cưỡi thuyền ra đảo, ba đêm thì tới nơi... Tên quốc tế của nhóm đảo là Amphitrite. Tên này là đặt theo tên một chiếc tàu Pháp trên đường đưa các giáo sĩ châu Âu sang Viễn Đông, gặp nạn rồi đắm ở vùng Hoàng Sa vào cuối thế kỷ 17. Nhóm Lưỡi LiềmNhóm đảo Lưỡi Liềm (tiếng Anh: Crescent Group; tiếng Trung: 永乐群岛, Hán-Việt: Vĩnh Lạc quần đảo) bao gồm các thực thể địa lý ở phía tây nam của quần đảo. Nhóm này còn được gọi là nhóm Trăng Khuyết hay nhóm Nguyệt Thiềm. Nhóm Lưỡi Liềm bao gồm đảo Ba Ba, đảo Bạch Quy, đảo Duy Mộng, đảo Hoàng Sa, đảo Hữu Nhật, đảo Lưỡi Liềm (là bãi đá trên có đảo Duy Mộng), đảo Ốc Hoa, đảo Quang Ảnh, đảo Quang Hòa, đảo Tri Tôn, đá Bắc, đá Chim Én (Yến), đá Hải Sâm, đá Lồi, đá Sơn Kỳ, đá Trà Tây, bãi Đèn Pha là bãi đá trên có đảo Hoàng Sa), bãi Ngự Bình (là bãi ngầm nằm giữa đá Hải Sâm và cặp đảo Quang Hòa), bãi Xà Cừ,... Khí tượngNhờ nằm giữa biển Đông nên quần đảo Hoàng Sa có khí hậu điều hòa, không quá lạnh về mùa đông, không quá nóng về mùa hè nếu so với những vùng đất cùng vĩ độ trong lục địa. Mưa ngoài biển qua nhanh, ở Hoàng Sa không có mùa nào ảm đạm kéo dài, buổi sáng cũng ít khi có sương mù. Lượng mưa trung bình trong năm là 1.170 mm. Tháng 10 có 17 ngày mưa / 228 mm và là tháng mưa nhiều nhất. Không khí Biển Đông tương đối ẩm thấp hơn những vùng biển khác trên thế giới. Ở cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa, độ ẩm đều cao, ít khi nào độ ẩm xuống dưới 80%. Trung bình vào tháng 6, độ ẩm ở Hoàng Sa suýt soát 85%. Dữ liệu khí hậu của đảo Hoàng Sa Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm Cao kỉ lục °C (°F) 31.3 30.8 33.1 34.3 35.9 35.9 35.1 35.0 34.0 34.1 32.8 30.4 35,9 Trung bình cao °C (°F) 25.7 26.7 28.5 30.6 32.1 31.8 31.5 31.0 30.4 29.2 27.7 26.8 29,3 Trung bình ngày, °C (°F) 23.2 23.9 25.5 27.5 29.1 29.2 28.9 28.7 28.0 27.0 25.7 24.9 26,8 Trung bình thấp, °C (°F) 21.7 22.2 23.6 25.6 27.1 27.4 27.1 26.8 26.1 25.3 24.4 22.9 25,0 Thấp kỉ lục, °C (°F) 14.9 18.1 18.7 19.1 21.7 23.0 22.4 21.0 21.6 21.2 18.9 13.8 13,8 Giáng thủy mm (inch) 13 (0.51) 12 (0.47) 23 (0.91) 44 (1.73) 74 (2.91) 117 (4.61) 225 (8.86) 162 (6.38) 216 (8.5) 241 (9.49) 152 (5.98) 30 (1.18) 1.308 (51,5) % Độ ẩm 80.6 81.6 81.5 81.8 82.2 84.2 84.6 85.3 85.7 84.5 83.8 81.9 83,1 Số ngày giáng thủy TB 7.5 5.5 4.8 2.4 6.7 7.1 7.8 9.0 11.4 13.3 14.0 7.9 97,2 Số giờ nắng trung bình hàng tháng 207 226 248 276 298 245 238 245 193 223 191 199 2.788 Nguồn: Vietnam Institute for Building Science and Technology Bão Biển Đông là bão nhiệt đới theo mùa, thường xảy ra những lúc giao mùa, nhất là từ tháng 6 đến tháng 8. Gió mạnh đến 90 gút. Bão giảm đi từ tháng 9 nhưng cũng vẫn còn đến tháng 1. Tuy vậy, vào giữa mùa gió Đông-Bắc, bão làm biển trở nên động dữ dội hơn và kéo dài trong nhiều ngày. Khi bão phát xuất từ đảo Luzon đi ngang Hoàng Sa thì binh sĩ Việt Nam Cộng hòa đóng trên đảo thấy các triệu chứng như sau: Trời oi, khí áp tụt xuống rất nhanh. Trên bầu trời xuất hiện những mây cao tầng bay nhanh như bó lông (cirrus panachés). Vài giờ sau bầu trời bị che phủ bởi một lớp sương mù mây rất mỏng (cirro status), mặt trời chung quanh có quầng, rồi dần dần bầu trời trắng nhạt. Sau đó đến lượt những mây "quyển tầng" thấp có hình vẩy cá (cirro cumulus). Rồi đến một lớp mây "quyển tích" đen hình như tảng đe phát triển rất nhanh hình đe dày lên cao lối 3.000m (altostatus), "tằng tích" [Cumulus N...], tất cả trở nên đen, u ám; mưa bắt đầu rơi, gió thổi, khí áp xuống nhanh. Trần mây thấp dần xuống (100m hay 50m), mây bay nhanh, gió thổi mạnh từng cơn, bão đã tới... Cường độ gió bão có thể lối 50 gút đến 90 gút. Khi sấm sét đã xuất hiện thì có thể coi như cơn bão đã qua... Bão biển Đông Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Tần suất bão 0,2 <0,1 <0,1 0,1 0,4 0,7 1,7 1,2 1,6 1,5 1,0 1,2 Danh sách thực thể địa lý Quần đảo Hoàng SaDanh sách đảo san hô, cồn cát, rạn đá ngầm và bãi ngầm thuộc quần đảo Hoàng Sa STT Tên tiếng Việt Tên tiếng Anh Tên tiếng Trung Tọa độ địa lý (B=Bắc; Đ=Đông) Diện tích (ha) Tính chất 1 Quần đảo Hoàng Sa Paracel Islands 西沙群岛, Xīshā qúndǎo (Tây Sa quần đảo) - 870 - 2 Nhóm An Vĩnh Amphitrite Group 宣德群岛, Xuāndé qúndǎo (Tuyên Đức quần đảo) - - 3 Nhóm Lưỡi Liềm (Trăng Khuyết/Nguyệt Thiềm) Crescent Group 永乐群岛, Yǒnglè qúndǎo (Vĩnh Lạc quần đảo) - - 4 Đảo Ba Ba Yagong Island 鸭公岛, Yāgōng dǎo (Áp Công đảo)16°34′0″B 111°41′11″Đ / 16,56667°B 111,68639°Đ1,3 cồn cát 5 Đảo Bạch Quy Passu Keah 盘石屿, Pánshí yǔ (Bàn Thạch dự)16°03′23″B 111°45′43″Đ / 16,05639°B 111,76194°Đ4,5 cồn cát 6 Đảo Bắc North Island 北岛, Běi dǎo (Bắc đảo)16°57′50″B 112°18′34″Đ / 16,96389°B 112,30944°Đ34 đảo san hô 7 Đảo Cây Tree Island 赵述岛, Zhàoshù dǎo (Triệu Thuật đảo)16°58′47″B 112°16′16″Đ / 16,97972°B 112,27111°Đ28 đảo san hô 8 Đảo Duy Mộng Drummond Island 晋卿岛, Jìnqīng dǎo (Tấn Khanh đảo)16°27′50″B 111°44′30″Đ / 16,46389°B 111,74167°Đ21 đảo san hô 9 Đảo Đá Rocky Island 石岛, Shí dǎo (Thạch đảo)16°50′40″B 112°20′50″Đ / 16,84444°B 112,34722°Đ- đảo đá, nhập với đảo Phú Lâm sau khi bồi đắp. 10 Đảo Hoàng Sa Pattle Island 珊瑚岛, Shānhú dǎo (San Hô đảo)16°32′5″B 111°36′30″Đ / 16,53472°B 111,60833°Đ32 đảo san hô 11 Đảo Hữu Nhật Robert Island 甘泉岛, Gānquán dǎo (Cam Tuyền đảo)16°30′20″B 111°35′10″Đ / 16,50556°B 111,58611°Đ32 đảo san hô 12 Đảo Linh Côn Lincoln Island 东岛, Dōng dǎo (Đông đảo)16°40′B 112°44′Đ / 16,667°B 112,733°Đ170 đảo san hô 13 Đảo Nam South Island 南岛, Nán dǎo (Nam đảo)16°56′47″B 112°20′4″Đ / 16,94639°B 112,33444°Đ12 đảo san hô 14 Đảo Ốc Hoa (chưa rõ) 全富岛, Quánfù dǎo (Toàn Phú đảo)16°34′29″B 111°40′24″Đ / 16,57472°B 111,67333°Đ3 cồn cát/đê cát 15 Đảo Phú Lâm Woody Island 永兴岛, Yǒngxīng dǎo (Vĩnh Hưng đảo)16°50′B 112°20′Đ / 16,833°B 112,333°Đ260 đảo san hô 16 Đảo Quang Ảnh Money Island 金银岛, Jīnyín dǎo (Kim Ngân đảo)16°26′50″B 111°30′20″Đ / 16,44722°B 111,50556°Đ40 đảo san hô 17 Đảo Quang Hoà Trong đó: Đảo Quang Hoà Tây Duncan Island Palm Island 琛航岛, Chēnháng dǎo (Sâm Hàng đảo) 广金岛, Guǎngjīn dǎo (Quảng Kim đảo) 16°27′5″B 111°42′45″Đ / 16,45139°B 111,7125°Đ 16°27′8″B 111°42′3″Đ / 16,45222°B 111,70083°Đ 71 đảo san hô 18 Đảo Tri Tôn Triton Island 中建岛, Zhōngjiàn dǎo (Trung Kiến đảo)15°47′0″B 111°12′0″Đ / 15,78333°B 111,2°Đ110 cồn cát 19 Đảo Trung Middle Island 中岛, Zhōng dǎo (Trung đảo)16°57′18″B 112°19′28″Đ / 16,955°B 112,32444°Đ12 đảo san hô 20 Cồn cát Bắc North Sand 北沙洲, Běi shāzhōu (Bắc sa châu)16°56′16″B 112°20′30″Đ / 16,93778°B 112,34167°Đ1,4 cồn cát 21 Cồn cát Nam South Sand 南沙洲, Nán shāzhōu (Nam sa châu)16°55′45″B 112°20′45″Đ / 16,92917°B 112,34583°Đ5,5 cồn cát 22 Cồn cát Tây West Sand 西沙洲, Xī shāzhōu (Tây sa châu)16°58′39″B 112°12′43″Đ / 16,9775°B 112,21194°Đ25 cồn cát 23 Cồn cát Trung Middle Sand 中沙洲, Zhōng shāzhōu (Trung sa châu)16°56′3″B 112°20′37″Đ / 16,93417°B 112,34361°Đ3,7 cồn cát 24 Hòn Tháp Pyramid Rock 高尖石, Gāojiān shí (Cao Tiêm thạch)16°34′36,5″B 112°38′32,5″Đ / 16,56667°B 112,63333°Đ- hòn đá nổi 25 Đá Bắc North Reef 北礁, Běi jiāo (Bắc tiêu)17°05′25″B 111°30′13″Đ / 17,09028°B 111,50361°Đ- rạn vòng 26 Đá Bông Bay Bombay Reef 浪花礁, Lànghuā jiāo (Lãng Hoa tiêu)16°02′41″B 112°31′6″Đ / 16,04472°B 112,51833°Đ- rạn vòng 27 Đá Chim Én Vuladdore Reef 玉琢礁, Yùzuó jiāo (Ngọc Trác tiêu)16°20′50″B 112°01′30″Đ / 16,34722°B 112,025°Đ- rạn vòng 28 Đá Hải Sâm Antelope Reef 羚羊礁, Língyáng jiāo (Linh Dương tiêu)16°27′44″B 111°35′20″Đ / 16,46222°B 111,58889°Đ1,5 rạn vòng. Ở góc đông nam có một cồn cát nhỏ. 29 Đá Lồi Discovery Reef 华光礁, Huáguāng jiāo (Hoa Quang tiêu)16°13′52″B 111°41′35″Đ / 16,23111°B 111,69306°Đ- rạn vòng 30 Bãi Bình Sơn Iltis Bank 银砾滩, Yínlì tān (Ngân Lịch than)16°46′B 112°13′Đ / 16,767°B 112,217°Đ- bãi ngầm 31 Bãi Châu Nhai Bremen Bank 滨湄滩, Bīnméi tān (Tân Mê than)16°20′0″B 112°25′40″Đ / 16,33333°B 112,42778°Đ- bãi ngầm 32 Bãi Gò Nổi Dido Bank 西渡滩, Xīdù tān (Tây Độ than)16°49′B 112°53′Đ / 16,817°B 112,883°Đ- bãi ngầm 33 Bãi Ốc Tai Voi Herald Bank 嵩焘滩, Sōngtāo tān (Tung Đảo than)15°43′B 112°13′Đ / 15,717°B 112,217°Đ- bãi ngầm 34 Bãi Quảng Nghĩa Jehangire Reefs/Bank 湛涵灘, Zhànhán tān (Trạm Hàm than)16°19′40″B 112°41′10″Đ / 16,32778°B 112,68611°Đ- cụm rạn san hô/bãi ngầm 35 Bãi Thủy Tề Neptuna Bank 北边廊, Běibiān láng (Bắc Biên lang)16°30′50″B 112°32′42″Đ / 16,51389°B 112,545°Đ- bãi ngầm 36 Bãi Xà Cừ Observation Bank 银屿, Yín yǔ (Ngân dự)16°34′50″B 111°42′30″Đ / 16,58056°B 111,70833°Đ1,7 rạn san hô, trên đó có một cồn cát nhỏ 37 Bãi Ngự Bình Yongnan Shoal 永南暗沙, Yǒngnán ànshā (Vĩnh Nam ám sa) 16°27′30″B 111°39′0″Đ / 16,45833°B 111,65°Đ- bãi ngầm nằm giữa đá Hải Sâm và đảo Quang Hòa, thuộc nhóm Lưỡi Liềm 38 Đá Trà Tây Salty Hut 咸舍屿, Xiánshě yǔ (Hàm Xá dự) 16°32′48″B 111°42′48″Đ / 16,54667°B 111,71333°Đ- rạn san hô, nằm phía tây nam giữa khoảng kênh nối bãi Xà Cừ và đá Lưỡi Liềm, là phần kéo dài vào trong tâm của rạn san hô vòng Xà Cừ-Lưỡi Liềm, thuộc nhóm Lưỡi Liềm 39 Bãi Đèn Pha (chưa rõ) 珊瑚东暗沙, Shānhú Dōng ànshā (San Hô Đông ám sa) 16°32′B 111°36′Đ / 16,533°B 111,6°Đ hoặc 16°32′0″B 111°37′42″Đ / 16,53333°B 111,62833°Đ bãi ngầm phía đông đảo Hoàng Sa, thuộc nhóm Lưỡi Liềm. 40 Đảo Lưỡi Liềm (chưa rõ) 石屿, Shí yǔ (Thạch dự)16°30′30″B 111°46′12″Đ / 16,50833°B 111,77°Đđá Lưỡi Liềm chỉ rạn san hô mà trên đó có đảo Duy Mộng và hố xanh phát hiện năm 2016, thuộc nhóm Lưỡi Liềm. Còn đảo Lưỡi Liềm tương ứng với cồn cát Thạch dự theo cách gọi của Trung Quốc. Địa danh do Việt Nam đặt, chưa rõ tên gọi tương ứng 1 Đá Sơn Kỳ (chưa rõ) có thể là 全富仔, Quánfù zǎi (Toàn Phú Tử) 16°34′36″B 111°40′0″Đ / 16,57667°B 111,66667°Đ(rạn san hô, trên có đảo Ốc Hoa và đảo Ba Ba, thuộc nhóm Lưỡi Liềm) 2 Đá Trương Nghĩa (chưa rõ) (chưa rõ)16°58′36″B 112°15′24″Đ / 16,97667°B 112,25667°Đ(rạn san hô, trên có đảo Cây và cồn cát Tây, thuộc nhóm An Vĩnh) Địa danh do Trung Quốc đặt, chưa rõ tên gọi tương ứng 1 (chưa rõ) (chưa rõ) 东新沙洲, Dōngxīn shāzhōu (Đông Tân sa châu)16°55′B 112°21′Đ / 16,917°B 112,35°Đcồn cát phía nam Cồn Cát Nam 2 (chưa rõ) (chưa rõ) 西新沙洲, Xīxīn shāzhōu (Tây Tân sa châu)16°55′B 112°21′Đ / 16,917°B 112,35°Đcồn cát phía nam Cồn Cát Nam 3 (chưa rõ) (chưa rõ) 老粗峙仔岛, Laocuzhizai dao (Lão Thô Trĩ Tử đảo) 111°37.2′E 16°32.5′N một dải cát phía Đông Bắc đảo Hoàng Sa 4 (chưa rõ) (chưa rõ) 金银东岛, Jinyin Dongdao (Kim Ngân Đông đảo) 111°31.7′E 16°26.6′N dải cát nhỏ ở phía đông đảo Quang Ảnh 5 (chưa rõ) (chưa rõ) 尾峙仔岛, Weizhizai dao (Vĩ Trĩ Tử đảo) 111°31.1′E 16°26.8′N dải cát nằm giữa đảo Quang Ảnh và đảo Kim Ngân Đông 6 (chưa rõ) (chưa rõ) 三峙仔, Sānzhìzǎi (Tam Trĩ Tử) 112°19.8′E 16°57.0′N Một dải cát nhỏ giữa các đảo Nam và Trung 7 (chưa rõ) (chưa rõ) 筐仔沙洲, Kuāngzǎi shāzhōu (Khuông Tử sa châu)16°27′B 111°38′Đ / 16,45°B 111,633°Đcồn cát trên bãi Hải Sâm 8 (chưa rõ) (chưa rõ) 筐仔北岛, Kuāngzǎi Běidǎo (Khuông Tử Bắc đảo) 111°36.4′E 16°27.1′N dải cát nhỏ phía bắc của đảo Khuông Tử (筐仔, Kuangzai) trên bãi Hải Sâm 9 (chưa rõ) (chưa rõ) 银屿仔, Yínyǔzaǐ (Ngân Dự Tử)16°35′B 111°42′Đ / 16,583°B 111,7°Đcồn cát trên bãi Xà Cừ 10 (chưa rõ) (chưa rõ) 银屿东岛, Yinyu Dongdao (Ngân Dự Đông đảo) 111°42.5′E 16°34.7′N dải cát nhỏ ở phía đông Ngân Dự Tử trên bãi Xà Cừ 11 (chưa rõ) (chưa rõ) 银屿仔西岛 Yinyuzai Xidao (Ngân Dự Tử Tây đảo) 111°41.6′E 16°35.1′N dải cát nhỏ ở phía tây Ngân Dự Tử trên bãi Xà Cừ 12 (chưa rõ) (chưa rõ) 广金北一岛, Guangjin Beiyidao (Quảng Kim Bắc Nhất đảo) 111°41.9′E 16°27.3′N dải cát phía tây bắc của đảo Quang Hoà 13 (chưa rõ) (chưa rõ) 广金北二岛, Quǎngjīn Běièrdǎo (Quảng Kim Bắc Nhị đảo) 111°41.9′E 16°27.3′N dải cát phía tây bắc của đảo Quang Hoà 14 (chưa rõ) (chưa rõ) 广金西岛, Guangjin Xidao (Quảng Kim Tây đảo) 111°41.7′E 16°27.1′N dải cát ở phía tây đảo Quang Hoà Lịch sửDiễn biến cuộc tranh chấp chủ quyền theo thời gian: Quan điểm của Trung Quốc và Đài LoanTheo quan điểm của Trung Quốc và Đài Loan, họ tuyên bố có chủ quyền lâu đời đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
Tuy Đài Loan và Trung Quốc có mâu thuẫn về mặt chính trị, nhưng cả hai đều nhất trí trong hoạt động tuyên bố chủ quyền và mở rộng tầm kiểm soát tại quần đảo Theo quan điểm của Trung Quốc và Đài Loan, trận đánh năm 1974 không phải là hành vi xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam mà là hành động chính đáng nhằm thu hồi chủ quyền của dân tộc Trung Hoa tại quần đảo này. Quan điểm của Việt NamThời chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn
Vào thế kỉ thứ 18, bộ sách Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn đã có nói tới Hoàng Sa và Trường Sa. Cuốn sách này cũng kể việc người Việt Nam đã khai thác hai quần đảo này ngay từ thời Lê mạt. Các tài liệu khác nói về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa là bộ Hoàng Việt Địa Dư Chí được ấn hành vào năm Minh Mạng thứ 16 tức là năm 1834 và Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú (1782-1840). Sách Hoàng Việt địa dư chí có chép: Quần đảo Hoàng Sa ở ngoài khơi, các vua đời trước đặt ra đội quân giữ Hoàng Sa gồm 70 người, thường là lấy người xã An Vĩnh (Quảng Ngãi - huyện Bình Sơn - phủ Tư nghĩa) để luôn luôn canh giữ. Hàng năm cứ đến tháng 3 nhận lệnh mang theo lương thực trong 6 tháng rồi dùng 5 chiếc thuyền ra khơi, đi trong 3 ngày 3 đêm thì đến đảo, đến nơi vừa canh giữ, vừa đánh cá mà ăn. Vật báu ở đó rất nhiều, nên đội quân này vừa làm nhiệm vụ canh giữ, vừa khai thác vật báu. Đến tháng 8 thì về, họ vào Cửa Eo (Thuận An) lên tâu nộp ở thành Phú Xuân. Theo Việt Nam, các học giả Trung Hoa thế kỷ 19, khi viết và vẽ về địa lý các nước trên toàn thế giới cũng không cho rằng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc, thậm chí vài người họ còn ngầm thể hiện cho độc giả hiểu là các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngày nay là thuộc Việt Nam. Từ Kế Dư (1795-1873), học giả Trung Quốc đầu tiên thời cận đại thực sự "mở mắt nhìn ra thế giới" (khai nhãn khán thế giới) qua bộ sách lịch sư địa lý mang tên "Doanh hoàn chí lược" (瀛寰志略)ː đã vẽ bản đồ Trung Quốc thời nhà Thanh với cực nam là Quỳnh Châu (đảo Hải Nam), đồng thời trong tập Doanh hoàn chí lược/Á Tế Á Nam Dương tân hải các quốc (Châu Áː các nước ven bờ biển Nam Dương), phần viết về Việt Nam đề cập tới Vạn lý Trường Sa và Thiên lý Thạch Đường là những tên gọi người Trung Quốc thời đó gọi quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, cũng viết rõ "Quỳnh (châu) là châu lớn địa đầu" Trung Quốc. Trong Doanh hoàn chí lược (1849), Từ Kế Dư viếtː "... 陳資齋《海國聞見錄》云:「安南以交趾為東京,以廣南為西京。由廈門赴廣南,取道南澳,見廣之魯萬山,瓊之大洲頭,過七洲洋,取廣南外之咕嗶羅山,而至廣南,計水程七十二更。赴交趾則由七洲洋西繞北而進,計水程七十四更。七洲洋在瓊州府萬州之東南,往南洋者必經之路。中國商舶行海,以望見山形為標識。至七洲洋,則浩渺一水,無鳥嶼可認,偏東則犯萬里長沙、千里石塘,偏西則溜入廣南灣。舟行至此,罔不惕惕。風極順利,亦必六七日方能渡過。七洲洋有神鳥,似海雁而小,紅嘴綠腳,尾帶一箭,長二尺許,名曰箭鳥。行舟或迷所向,則飛來導之。」..."(Trần Tư Trai《Hải quốc văn kiến lục》vân:「An Nam dĩ Giao Chỉ vị Đông Kinh,dĩ Quảng Nam vị Tây kinh。do Hạ Môn phó Quảng Nam,thủ đạo nam Áo,kiến quảng chi Lỗ Vạn sơn,Quỳnh chi đại châu đầu,quá Thất Châu Dương,thủ Quảng Nam ngoại chi Cô Tất La sơn,nhi chí Quảng Nam, kế thủy trình thất thập nhị canh。phó Giao Chỉ tắc do Thất Châu Dương tây nhiễu bắc nhi tiến,kế thủy trình thất thập tứ canh。Thất Châu Dương tại Quỳnh Châu phủ Vạn châu chi đông nam,vãng Nam Dương giả tất kinh chi lộ。Trung Quốc thương bạc hành hải,dĩ vọng kiến sơn hình vị tiêu thức。chí Thất Châu Dương,tắc hạo miểu nhất thủy,vô điểu dữ khả nhận,thiên đông tắc phạm Vạn lý Trường Sa、Thiên lý Thạch Đường,thiên tây tắc lưu nhập Quảng Nam loan。chu hành chí thử,võng bất dịch dịch。phong cực thuận lợi,diệc tất lục thất nhật phương năng độ quá。Thất Châu Dương hữu thần điểu,tự hải nhạn nhi tiểu,hồng chủy lục cước,vĩ đái nhất tiễn,trường nhị xích hứa,danh viết tiễn điểu。hành chu hoặc mê sở hướng,tắc phi lai đạo chi。」). Dịch nghĩa làː "...Trần Tư Trai 《Hải quốc văn kiến lục》nói: 《An Nam lấy Giao Chỉ làm Đông Kinh, lấy Quảng Nam làm Tây kinh. Từ Hạ Môn đến Quảng Nam, đi theo đường nam Áo, nhìn rộng ra là Lỗ Vạn sơn, Quỳnh là châu lớn địa đầu, vượt qua Thất Châu Dương, đi theo phía ngoài Quảng Nam là Cô Tất La sơn, đến Quảng Nam, tính toán thủy trình hết khoảng 72 canh (giờ đi thuyền). Đi đến Giao Chỉ từ Thất Châu Dương tiến tới theo hướng tây vòng sang bắc, tính toán thủy trình hết khoảng 74 canh (giờ đi thuyền). Thất Châu Dương nằm ở phía đông nam của Vạn Châu thuộc phủ Quỳnh Châu, để đến Nam Dương ắt phải đi đường dọc xuống xuyên qua nó. Thuyền buôn Trung Quốc đi biển, trông vào hình non dạng đá (nổi trên mặt biển) làm tiêu dẫn đường. Tới Thất Châu Dương, lênh đênh trên biển nước bao la, không hề thấy đảo (cồn) chim nào, lệch về phía đông ắt tới Vạn lý Trường Sa và Thiên lý Thạch Đường, lệch về phía tây chắc chảy vào vịnh Quảng Nam. Thuyền đi đến đó (Thất Châu Dương), gặp tại nạn vì không thận trọng cảnh giác. Gió rất thuận lợi, cũng sẽ phải mất 6 đến 7 ngày để có thể vượt qua nó. Thất Châu Dương có chim thần, giống như một con ngỗng (nhạn) biển (lông nhỏ), mỏ đỏ chân xanh, vòng đuôi như mũi tên, dài khoảng hai thước, nên gọi là tiễn điểu. Giúp người đi thuyền hoặc lạc đường trên biển, dò đường theo hướng chim bay.》..." Đại Thanh đế quốc toàn đồ xuất bản năm 1905, tái bản lần thứ tư năm 1910 chỉ vẽ đế quốc Đại Thanh đến đảo Hải Nam. Một tấm bản đồ "Hoàng triều trực tỉnh địa dư bản đồ" xuất bản năm 1904 dưới thời nhà Thanh được tìm thấy gần đây cũng cho thấy quần đảo Hoàng Sa không thuộc Trung Quốc (bản đồ này ghi rõ cực nam của Trung Quốc là đảo Hải Nam. Trung Quốc địa lý học Giáo khoa thư xuất bản năm 1906 viết: "Điểm mút của Trung Hoa ở Đông Nam là bờ biển Nhai Châu, đảo Quỳnh Châu, vĩ tuyến 18°13' Bắc". Một trong những nghiên cứu mới nhất của Việt Nam được công bố về Hoàng Sa là luận án tiến sĩ của ông Nguyễn Nhã, đề tài Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bảo vệ ngày 18 tháng 1 năm 2003 (29 năm sau trận hải chiến giữa Trung Quốc và Việt Nam Cộng hòa) tại trường Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Nguyễn Nhã nói: "Với luận án tiến sĩ này, tôi thách thức các nhà nghiên cứu các nước, kể cả Trung Quốc, có một đề tài xác lập chủ quyền Hoàng Sa mang tính khoa học được như tôi.". Thời Pháp thuộc
Giai đoạn Chiến tranh Đông Dương (1945-1954)
Giai đoạn Chiến tranh Việt Nam (1954-1975)
Thời Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Tranh chấp chủ quyềnQuần đảo Hoàng Sa nằm giữa một khu vực có tiềm năng cao về hải sản nhưng không có dân bản địa sinh sống. Vào năm 1932, chính quyền Pháp ở Đông Dương chiếm giữ quần đảo này và Việt Nam tiếp tục nắm giữ chủ quyền cho đến năm 1974 (trừ hai đảo Phú Lâm và Linh Côn do Trung Quốc chiếm giữ từ năm 1956). Trung Quốc chiếm giữ toàn bộ Hoàng Sa từ năm 1974 sau khi dùng hải quân, lính thủy đánh bộ và không quân tấn công căn cứ quân sự của Việt Nam Cộng Hoà ở nhóm đảo phía tây trong Hải chiến Hoàng Sa 1974. Đài Loan và Việt Nam cũng đang tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo này. Tháng 1 năm 1982, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã công bố sách trắng Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa: lãnh thổ Việt Nam, trong đó nêu nhiều lý lẽ chứng minh Hoàng Sa là của Việt Nam. Theo chính phủ Việt Nam, có rất nhiều bằng chứng nghiên cứu độc lập khác cho thấy Hoàng Sa là của Việt Nam. Gần đây nhất đã phát hiện chứng cứ rất rõ ràng là sắc chỉ của triều đình nhà Nguyễn liên quan đến việc canh giữ quần đảo Hoàng Sa được gia tộc họ Đặng ở huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi, gìn giữ suốt 174 năm qua, nay trao lại cho Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh. Đây là sắc chỉ của vua Minh Mạng (triều Nguyễn), phái một đội thuyền gồm 3 chiếc với 24 lính thủy ra canh giữ đảo Hoàng Sa vào ngày 15 tháng 4 năm Minh Mạng thứ 15 (tức năm Ất Mùi, 1835). Vào tháng 7/2012, báo chí Việt Nam đưa ra bằng chứng về chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo ở Biển Đông đó là tấm bản đồ của Nhà Thanh xuất bản năm 1904 trong đó điểm cực nam của Trung Hoa chỉ dừng lại ở đảo Hải Nam mà không hề có Tây Sa hay Nam Sa mà Trung Quốc đang cố gắng chiếm giữ. Tuy nhiên bên phía Trung Quốc cũng khẳng định chủ quyền bằng cách đưa ra các thông tin về một quần đảo ngoài khơi biển Nam Hải theo nhiều tài liệu xuất hiện từ rất sớm về như Nguyên sử (元史) hay Trịnh Hòa hàng hải đồ (郑和航海图). Trong bản đồ thời Trịnh Hòa phía Trung Quốc đưa ra nhằm chứng minh cho chủ quyền của Trung Quốc, họ cho rằng địa danh Vạn Lý Thạch Đường (万里石塘) là quần đảo Hoàng Sa ngày nay (塘/唐 chữ Hán nôm đều được dịch là "đường" hay "đàng"), điều này đã được nhiều tài liệu của Việt Nam phản bác lại, trong bản đồ này không hề tồn tại cái tên Tây Sa Quần Đảo (西沙群島). Vào ngày 1 tháng 5 năm 2014, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đưa giàn khoan HD-981 vào khu vực biển Đông gần quần đảo Hoàng Sa dẫn tới việc nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra tuyên bố phản đối, đồng thời tàu thuyền của hai quốc gia đã xảy ra một số va chạm. Nhiều học giả quốc tế đã nghiên cứu về các các bằng chứng mà 2 bên đưa ra. Valencia & ctg (1999) cho rằng các bằng chứng của Việt Nam cũng giống như Trung Quốc - "thưa thớt, mang tính giai thoại và không thuyết phục". Quan điểm của Hoa KỳHoa Kỳ không phải là một bên tranh chấp chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa, cũng không tuyên bố ủng hộ bất kỳ nước nào có tranh chấp ở quần đảo này, và Hoa Kỳ còn tuyên bố tàu thuyền của các nước có quyền hàng hải tự do trên biển Đông phù hợp với luật pháp quốc tế. Năm 2016 Hoa Kỳ đã 4 lần thực hiện quyền tự do hành hải trên những vùng biển của biển Đông gần các quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc có tranh chấp chủ quyền với các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam. Nhiều lần Hoa Kỳ cho tàu đi gần quần đảo Hoàng Sa, dưới đây là danh sách có thể chưa đầy đủ:
Tháng 2/2021, tàu khu trục USS John S. McCain chạy ngang qua biển Đông, chính phủ Hoa Kỳ tuyên bố hành động này "đã khẳng định các quyền và tự do hàng hải trong vùng lân cận của quần đảo Hoàng Sa, phù hợp với luật pháp quốc tế" và thách thức "những hạn chế bất hợp pháp và vô căn cứ đối với việc hải hành trên biển do Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam áp đặt". Tổ chức hành chínhViệt NamViệt Nam tổ chức quần đảo thành huyện đảo Hoàng Sa thuộc thành phố Đà Nẵng.
Huyện đảo Hoàng Sa, được thành lập từ tháng 1 năm 1997, là một quần đảo san hô nằm cách thành phố Đà Nẵng 170 hải lý (khoảng 315 km), bao gồm các đảo: đảo Hoàng Sa, đá Bắc, đảo Hữu Nhật, đảo Đá Lồi, đảo Bạch Quy, đảo Tri Tôn, đảo Cây, đảo Bắc, đảo Giữa, đảo Nam, đảo Phú Lâm, đảo Linh Côn, đảo Quang Hòa, cồn Bông Bay, cồn Quan Sát, cồn cát Tây, đá Chim Yến. Huyện đảo Hoàng Sa có diện tích: 305 km², chiếm 24,29% diện tích thành phố Đà Nẵng. Ngày 21 tháng 4 năm 2009, Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng ký quyết định bổ nhiệm Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện đảo Hoàng Sa nhiệm kỳ 2009-2014 đối với ông Đặng Công Ngữ. Cùng ngày, thành phố Đà Nẵng cũng tổ chức lễ bổ nhiệm chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa. Bộ máy cán bộ chuyên trách của chính quyền huyện đảo Hoàng Sa sẽ được thiết lập theo quy định của pháp luật Việt Nam. Trước mắt, chính quyền huyện đảo Hoàng Sa sẽ hoạt động tại trụ sở của Sở Nội vụ Đà Nẵng. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, một con đường dọc bờ kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè được đặt tên là Hoàng Sa. Trung QuốcVề mặt hành chính, từ năm 1959, chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quy thuộc quần đảo Hoàng Sa vào Văn phòng quần đảo Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa (西南中沙群岛办事处 Tây Nam Trung Sa quần đảo biện sự xứ), đặt dưới quyền quản lý của khu hành chính Hải Nam thuộc tỉnh Quảng Đông. Đến năm 1988, khi Hải Nam tách khỏi Quảng Đông để trở thành một tỉnh riêng biệt, Văn phòng quần đảo Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa trực thuộc tỉnh Hải Nam. Ngày 21 tháng 6 năm 2012, Quốc vụ viện Trung Quốc đã chính thức phê chuẩn thành lập thành phố cấp địa khu Tam Sa, thay thế Văn phòng quần đảo Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa. Đảo Phú Lâm là nơi đặt trụ sở các cơ quan của chính quyền nhân dân thành phố Tam Sa. Ngày 18 tháng 4 năm 2020, Trung Quốc tuyên bố thành phố Tam Sa thành lập hai quận: quận Tây Sa và quận Nam Sa, trong đó quận Tây Sa quản lý quần đảo Hoàng Sa và bãi Macclesfield (Trung Quốc gọi là quần đảo Trung Sa), chính phủ nhân dân quận Tây Sa đóng trên đảo Phú Lâm. Trung Quốc tuyên bố kế hoạch mở cửa du lịch quần đảo vào năm 1997, mở rộng những cảng nhỏ ở đảo Phú Lâm và đảo Quang Ảnh. Tại Phú Lâm có một sân bay với đường băng dài 1.200 m. Các tài liệu từ các nước khácNgoài các sử gia bản xứ, một số các tác giả người Pháp cũng nói tới chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa. Vào năm 1836 Giám mục Taberd đã viết trong cuốn sách Địa dư, lịch sử và mô tả mọi dân tộc cùng với tôn giáo và phong tục của hội (Univer, histoire et description de tous les peuples, de leurs religion et coutumes) như sau: Tôi không kể dài dòng về những đảo thuộc Nam Kỳ, nhưng chỉ nhận xét rằng từ 34 năm nay, người Nam Kỳ đã chiếm cứ nhóm quần đảo Paracels mà người An Nam gọi là Cát Vàng hay Hoàng Sa, thực là những hòn đảo nhỏ bí hiểm, gồm những mỏm đá xen lẫn với các bãi cát mà những người đi biển đều kinh hãi. Tôi không rõ họ có thiết lập cơ sở gì ở đó không, nhưng chắc chắn rằng Hoàng Đế Gia Long nhất định muốn mở rộng lãnh thổ của Hoàng Triều bằng cách chiếm quần đảo này, vào năm 1816, ngài đã long trọng trương lá cờ tại đây. Trong tác phẩm Hồi ký về Đông Dương, tác giả Jean Baptiste Chaigneau ghi rằng vua Gia Long đã chính thức thu nhận quần đảo Hoàng Sa vào năm 1816. Khi người Pháp đặt nền bảo hộ trên toàn cõi Đông Dương, họ cũng tiếp tục lãnh nhiệm vụ bảo vệ Hoàng Sa. Vào các năm 1895 và 1896, có hai chiếc thương thuyền tên Bellona và Iruezi Maru chở đồng cho người Anh bị đắm tại nhóm đảo An Vĩnh và bị người Trung Hoa đến đánh cướp. Đại diện người Anh tại Bắc Kinh đòi nhà Thanh phải bồi thường vì có một số đồng được đem về bán tại đảo Hải Nam. Tuy nhiên, chính quyền nhà Thanh không chịu bồi thường, viện cớ quần đảo Hoàng Sa không thuộc chủ quyền của Trung Hoa. Về phía Anh Quốc, J.W.Reed, W.king:China Sea Directory, 1868 của Hải quân Anh Quốc có ghi rằng các thuyền của Hải Nam hàng năm thường đến các đảo, mang theo gạo và các nhu yếu phẩm khác và trao đổi với ngư dân đang đánh bắt tại các đảo; thuyền rời Hải Nam vào tháng 12 hay tháng 1 mỗi năm và sẽ trở về khi có đợt gió mùa tây nam đầu tiên. Trong ấn phẩm "China Sea Pilot" vào năm 1912, Hải quân Hoàng gia Anh Quốc đã mô tả về các hoạt động của ngư dân Trung Quốc tại một số nơi ở Trường Sa. Le Monde Colonial Illustre của Pháp từng đăng bài về sự kiện tháng 9 năm 1933, theo đó khi một tàu chiến Pháp khảo sát đảo Trường Sa Lớn vào năm 1930, họ thấy ba người Trung Quốc ở trên đảo. Khi Pháp đưa quân ra Trường Sa vào năm 1933, họ thấy tất cả những người trên các đảo là người Trung Quốc: bảy người ở Song Tử Tây, năm người ở Thị Tứ, 4 người ở Trường Sa Lớn, và các ngôi nhà tranh, giếng nước và một tượng thần do người Trung Quốc để lại ở Trường Sa Lớn và một biển hiệu chữ Hán trên đảo Ba Bình đánh dấu ký hiệu của một kho dự trữ lương thực trên đảo. Atlas International Larousse xuất bản năm 1965 tại Pháp đã ghi tên "Tây Sa" (Xisha) và "Nam Sa" (Nansha) cho hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và trong dấu ngoặc đã thể hiện chủ quyền của Trung Quốc với hai quần đảo. Ngoài ra, cũng có nhiều bản đồ đã thể hiện các quần đảo trên Biển Đông là lãnh thổ của Trung Quốc: "Welt-Atlas" do Cộng hòa Liên bang Đức xuất bản vào các năm 1954, 1961 và 1970; Át-lát thế giới do Liên Xô xuất bản vào năm 1954 và 1967; Át-lát thế giới do Romania xuất bản vào năm 1957; Oxford Australian Atlas và Philips Record Atlas xuất bản tại Anh Quốc vào năm 1957 và Encyclopaedia Britannica World Atlas xuất bản tại Anh Quốc vào năm 1958; "Haack Welt Atlas" do Cộng hòa Dân chủ Đức xuất bản năm 1968; Daily Telegraph World Atlas xuất bản tại Anh Quốc vào năm 1968; Atlas International Larousse xuất bản tại Pháp vào năm 1968 và 1969; bản đồ thế giới thông thường của Institut Géographique National của Pháp vào năm 1968; Tập bản đồ Trung Quốc của Neibonsya tại Nhật Bản năm 1973. Sau sự kiện tháng 1 năm 1974, các học giả Trung Quốc tìm kiếm trong sách cổ, dựa vào các chi tiết liên quan đến biển Đông mà họ gọi là Nam Hải, để làm bằng chứng cho luận thuyết "các đảo Nam hải xưa nay là lãnh thổ Trung Quốc" do nhân dân Trung Quốc "phát hiện và đặt tên sớm nhất", "khai phá và kinh doanh sớm nhất", do Chính phủ Trung Quốc "quản hạt và hành sử chủ quyền sớm nhất". Đầy đủ nhất có thể kể đến cuốn Tổng hợp sử liệu các đảo Nam Hải nước ta do Hàn Chấn Hoa, một giáo sư có tên tuổi ở Trung Quốc và nước ngoài, chủ biên (1995-1998), xuất bản năm 1988. Các ấn phẩm về sau như của Phan Thạch Anh và nhiều học giả Đài Loan cũng chủ yếu dựa theo cuốn sách này. Năm 1996, cuốn Chủ quyền trên quần đảo Paracels và Spratlys của bà Monique Chemilier Gendreau, một luật sư, giáo sư có tên tuổi ở Pháp và nước ngoài đã làm cho các học giả Trung Quốc bối rối và họ đã mời bà sang Bắc Kinh nói là để cung cấp thêm tài liệu. Bà đã đến Bắc Kinh và đối mặt với mấy chục học giả Trung Quốc. Bà cho biết học giả Trung Quốc không giải đáp được những vấn đề do bà đặt ra, không đưa ra được bất kỳ bằng chứng nào có sức thuyết phục. Ngày 3 tháng 9 năm 1993, trong bài đăng trên tạp chí Window (Hồng Kông), tác giả Phan Thạch Anh đưa ra sự kiện quần đảo Nam Sa được sáp nhập vào đảo Nam Hải năm thứ 5 niên hiệu Trinh Nguyên đời nhà Đường (789) và thủy quân đời nhà Nguyên đã đi tuần quần đảo Nam Sa năm 1293, nhưng khi tạp chí Thông tin khoa học xã hội số 4/1994 của Việt Nam khẳng định và chỉ rõ tài liệu liên quan đến hai sự kiện này không liên quan gì đến các quần đảo ở Biển Đông thì trong cuốn sách mới xuất bản về quần đảo Nam Sa năm 1996, tác giả Phan Thạch Anh đã không nhắc đến hai sự kiện này nữa. Ngày 28 tháng 3 năm 2014, trong tiệc chiêu đãi nhân chuyến thăm của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tới Đức, thủ tướng Đức Angela Merkel đã tặng Chủ tịch Trung Quốc tấm bản đồ Trung Quốc thời nhà Thanh được cho là do họa sĩ người Pháp Jean-Baptiste Bourguignon d'Anville vẽ năm 1735 được in tại Đức. Bản đồ cổ này cho thấy rằng: vào thời cực thịnh của nhà Thanh Trung Quốc (đầu thời Càn Long khoảng 1735-1740), đồng thời tương đương với thời chúa Nguyễn Việt Nam tổ chức khai thác và quản lý Hoàng Sa, thì lãnh thổ Trung Quốc cũng chỉ đến đảo Hải Nam về phía nam mà không bao gồm quần đảo Hoàng Sa (Paracels) lẫn quần đảo Trường Sa. Ảnh vệ tinh
Vai trò của Hoàng SaHiện nay, Biển Đông có vai trò quan trọng về phương diện kinh tế và quân sự đối với Trung Quốc, các nước Bắc Á và các quốc gia trong vùng Đông Nam Á, bao gồm Brunei, Campuchia, Đông Timor, Indonesia, Lào (không có lãnh hải), Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Biển Đông còn là thủy đạo nối liền Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương qua Eo biển Malacca. Mọi di chuyển bằng hàng hải giữa các quốc gia thuộc Vòng đai Thái Bình Dương với vùng Đông Nam Á, Ấn Độ, Tây Á, Địa Trung Hải và xuống châu Úc đều thường xuyên đi qua vùng biển này. Hoàng Sa là một quần đảo nằm trên thủy lộ đó. Những tranh chấp căng thẳng đã và đang xảy ra tại Hoàng Sa cho thấy việc kiểm soát Hoàng Sa vô cùng quan trọng trong việc nắm quyền kiểm soát thủy đạo quan trọng của Đông Nam Á và của thế giới. Điều này ảnh hưởng đến quyền tự do hàng hải của tất cả các quốc gia trên thế giới chứ không chỉ liên quan đến lợi ích riêng của các nước tham gia tranh chấp quần đảo Hoàng Sa. Ngoài ra, Biển Đông còn là nguồn cung cấp hải sản, dầu thô, và khí đốt rất đáng kể. Theo Cục Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), ở Biển Đông chỉ có khoảng 11 tỷ thùng dầu và 190 nghìn tỷ feet khối khí đốt tự nhiên. Các mỏ dầu và khí đốt tại đây thường nằm trong các vùng lãnh thổ không có tranh chấp, gần bờ biển của các quốc gia xung quanh biển Đông nhưng Biển Đông đóng góp tới 10% sản lượng cá đánh bắt được trên toàn cầu tạo ra giá trị hàng tỷ USD. Việc kiểm soát Hoàng Sa là lợi thế đối với việc giành quyền kiểm soát biển Đông và các nguồn tài nguyên tại đây. Đối với Việt Nam
Đối với Trung Quốc
Ghi chú
|