Nếu và phân tích các đặc điểm của chủ thể pháp luật doanh nghiệp

Pháp nhân – một thuật ngữ được dùng để phân biệt tư cách của các chủ thể là tổ chức với cá nhân trong các quan hệ pháp lý. Thông thường đây sẽ là cách gọi được dùng cho những loại hình doanh nghiệp được hình thành và đáp ứng được các điều kiện để hình thành pháp nhân theo quy định của pháp luật.

Điều này đồng nghĩa với việc không phải bất cứ doanh nghiệp hay loại hình tổ chức nào cũng có tư cách chủ thể này. Vì khi đã được xác lập là pháp nhân đồng nghĩa với việc tổ chức đó có một số quyền lợi nhất định mà những chủ thể khác không thể nào đạt được.

Nếu và phân tích các đặc điểm của chủ thể pháp luật doanh nghiệp

Pháp nhân là gì?

Là một tổ chức (một chủ thể pháp luật) có tư cách pháp lý độc lập, có thể tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội… theo quy định của pháp luật. Đây là một khái niệm trong luật học dùng để phân biệt với thể nhân (cá nhân). Nếu một tổ chức có “tư cách pháp nhân” thì tổ chức đó có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của một pháp nhân mà luật đã quy định.

Ví dụ về pháp nhân: Các cơ quan nhà nước (như Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy ban nhân dân các cấp, Tòa án, các trường đại học,…) là những tổ chức có tư cách pháp nhân.

Điều kiện để có tư cách pháp nhân

Theo điều 94 Bộ luật Dân sự, một tổ chức được công nhận là có tư cách pháp nhân khi hội đủ 4 điều kiện sau đây:

  1. Tổ chức đó được thành lập hợp pháp (theo quy định của pháp luật Việt Nam).
  2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ.
  3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản độc lập đó.
  4. Nhân danh mình tham gia vào quan hệ pháp luật một cách độc lập..

Sau đây chúng ta sẽ làm rõ 4 điều kiện này:

1. Pháp nhân là một chủ thể pháp luật được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam

Theo như định nghĩa thì rõ ràng pháp nhân không phải là một người (một cá nhân) mà phải là một tổ chức. Tổ chức này được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập. Vì thế tổ chức đó được công nhận là có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận thành lập.

Như vậy, một doanh nghiệp có thể được coi là có tư cách pháp nhân tại thời điểm doanh nghiệp đó được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, tức là được pháp luật công nhận việc khai sinh ra doanh nghiệp. Tuy nhiên không phải doanh nghiệp nào cũng là pháp nhân (ví dụ doanh nghiệp tư nhân) vì nó chưa hội đủ các điều kiện theo quy định của Bộ luật Dân sự.

Mỗi một người khi sinh ra đều có tên gọi (do cha mẹ đặt) nên việc khai sinh ra pháp nhân thì cũng phải có tên gọi. Việc đặt tên cho cá nhân thì không có quy định (tùy theo sở thích của cha mẹ) nhưng việc đặt tên cho pháp nhân thì pháp luật đã có quy định: Pháp nhân phải có tên gọi bằng tiếng Việt thể hiện rõ loại hình tổ chức và có thể phân biệt với các pháp nhân khác trong cùng một lĩnh vực. Tên gọi của pháp nhân được pháp luật công nhận và bảo vệ cho nên pháp nhân bắt buộc phải sử dụng tên gọi đó trong các giao dịch dân sự. Đối với pháp nhân là doanh nghiệp thì việc đặt tên doanh nghiệp là rất quan trọng, vì vậy luật pháp các nước đều có quy định riêng về tên doanh nghiệp.

2. Pháp nhân phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ

Ngoài tên riêng được đăng ký để gọi và sử dụng trong các giao dịch, pháp nhân phải có điều lệ hoạt động rõ ràng, có cơ cấu tổ chức cụ thể, có người đại diện theo pháp luật để nhân danh (thay mặt, đại diện) cho pháp nhân thực hiện các giao dịch:

  • Điều lệ của pháp nhân do các sáng lập viên hoặc đại hội thành viên xây dựng và thống nhất thông qua. Nếu pháp nhân được thành lập theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì điều lệ do cơ quan nhà nước đã thành lập chuẩn y.
  • Pháp nhân phải có cơ quan điều hành bao gồm các bộ phận, phòng ban được phân chia cụ thể. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng bộ phận, phòng ban được quy định rõ ràng trong điều lệ hoặc trong quyết định thành lập.
  • Pháp nhân có con dấu riêng do người đại diện của tổ chức quản lý và sử dụng.

3. Có tài sản độc lập và tự chịu trách nhiệm với các tài sản đó

Theo quy định của pháp luật thì pháp nhân phải sở hữu một lượng tài sản nhất định để sử dụng trong các giao dịch và hoàn toàn chịu trách nhiệm với các tài sản đó. Tài sản này được pháp luật công nhận thuộc quyền sở hữu của pháp nhân, tức là pháp nhân có toàn quyền sử dụng mà không chịu sự chi phối, kiểm soát của bất kỳ ai. Tài sản đó phải hoàn toàn tách biệt với tài sản của các cá nhân là thành viên nên các thành viên chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp vào tổ chức. Đây là sự khác biệt rất lớn để phân biệt giữa pháp nhân với thể nhân (cá nhân).

Để làm rõ hơn cho sự khác biệt này chúng ta cùng xem xét ví dụ sau:

Ba người A,B,C rủ nhau thành lập công ty TNHH 2 thành viên trở lên với vốn điều lệ là 2 tỷ đồng (A góp một ngôi nhà trị giá 1 tỷ, B góp ô tô trị giá 500 triệu còn C góp tiền mặt 500 triệu) – lấy tên là công ty TNHH ABC.

Sau 3 năm hoạt động thì số vốn sở hữu đã tăng lên 6 tỷ đồng. Để tiếp tục phát triển kinh doanh thì công ty ABC vay ngân hàng 10 tỷ và nhập một lô sữa từ Nhật về Việt Nam nhưng do bảo quản không tốt nên toàn bộ số sữa đều hỏng. Công ty TNHH ABC bị tòa án tuyên bố phá sản.

Toàn bộ tài sản của công ty TNHH ABC bị đem ra thanh lý theo quy định của pháp luật được 8 tỷ đồng. Số tiền này được đem trả nợ cho ngân hàng, ngân hàng bị mất 2 tỷ mà không thể đòi các ông A,B,C vì loại hình công ty TNHH 2 thành viên trở lên có tư cách pháp nhân nên các ông A,B,C chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Còn các tài sản riêng của mỗi người A,B,C không liên quan đến tài sản của công ty.

Công ty có nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty hợp danh… nhưng nếu xét về trách nhiệm tài sản của người chủ doanh nghiệp đối với các khoản nợ của doanh nghiệp thì chỉ có hai loại:

  • Hoặc là chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp;
  • Hoặc là chủ doanh nghiệp chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp, loại doanh nghiệp này có tư cách pháp nhân.
Nếu và phân tích các đặc điểm của chủ thể pháp luật doanh nghiệp
Đảm bảo tư cách pháp luật doanh nghiệp

Do đó, loại hình doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân vì không có tài sản độc lập với chủ doanh nghiệp (chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình) Quý khách có thể tìm hiểu chi tiết hơn tại bài viết: Tư vấn thành lập công ty

Tham khảo thêm về dịch vụ công bố sản phẩm Việt Tín cung cấp:

  • Công bố thực phẩm
  • Công bố mỹ phẩm

4. Pháp nhân có quyền nhân danh chính mình tham gia vào các quan hệ pháp luật

Pháp nhân có quyền nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật thông qua người đại diện theo pháp luật. Người này là một cá nhân có quyền thực hiện mọi giao dịch dân sự phát sinh trong quá trình hoạt động. Tham gia với tư cách là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trước tòa án, trọng tài và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

Nếu và phân tích các đặc điểm của chủ thể pháp luật doanh nghiệp
Dịch vụ pháp lý doanh nghiệp cùng luật Việt Tín

Trong trường hợp người đại diện theo pháp luật bị bắt giam, bị bỏ tù, bị chết hoặc không còn đủ khả năng đại diện nữa thì pháp nhân đó có quyền bầu ra người đại diện theo pháp luật mới để tiếp tục hoạt động (có nghĩa là pháp nhân không bị phụ thuộc vào bất cứ một cá nhân nào).

Pháp nhân là một tổ chức được thành lập hợp pháp hoặc được pháp luật thừa nhận khi đáp ứng được các điều kiện mà pháp luật quy định, pháp nhân là một loại chủ thể thường xuyên và cơ bản của tư pháp quốc tế, các pháp nhân tham gia quan hệ tư pháp quốc tế có thể là pháp nhân Việt Nam và cả pháp nhân nước ngoài.

Pháp nhân nước ngoài là pháp nhân mang quốc tịch nước ngoài. Việc xác định quốc tịch của pháp nhân có một ý nghĩa quan trọng bởi hệ thuộc luật quốc tịch của pháp nhân là một trong những hệ thuộc luật cơ bản của tư pháp quốc tế, thường được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ liên quan đến việc thành lập, giải thể, nguyên tắc tổ chức hoạt động của pháp nhân… Nếu không xác định được quốc tịch của pháp nhân sẽ khó có cơ sở để xác định pháp luật áp dụng đối với các quan hệ nêu trên. Vì vậy vấn đề xác định quốc tịch của pháp nhân là rất quan trọng.

Tuy nhiên, trong BLDS năm 2005 không có một quy phạm xung đột nào quy định về việc xác định pháp luật áp dụng đối với quốc tịch của pháp nhân, điều này dẫn đến nhiều khó khăn trong công tác thực tiễn. Nay khoản 1 Điều 676 BLDS năm 2015 quy định “Quốc tịch của pháp nhân được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp nhân thành lập”.

Với quy định này, pháp luật Việt Nam dựa vào dấu hiệu nơi thành lập pháp nhân để xác định quốc tịch của pháp nhân. Pháp nhân thành lập ở đâu thì pháp luật được đó sẽ là căn cứ để xác định quốc tịch của pháp nhân. Ví dụ Viettel là một doanh nghiệp trong lĩnh vực viễn thông, thành lập ở Việt Nam nên Viettel mang quốc tịch nước nào sẽ phải do pháp luật Việt Nam quy định.

Pháp luật Việt Nam cụ thể là BLDS năm 2015 tại Điều 80 quy định: “Pháp nhân được thành lập theo pháp luật Việt Nam là Pháp nhân Việt Nam”. Như vậy, Viettel thành lập ở Việt Nam sẽ là pháp nhân Việt Nam, hay Viettel có quốc tịch Việt Nam. Khi Viettel mở rộng phạm vi hoạt động của mình không chỉ trên lãnh thổ Việt Nam mà còn ở nước ngoài, ví dụ, Viettel thành lân 2 doanh nghiệp X 100% vốn của mình tại Lào, khi xem xét vấn đề quốc tịch của doanh nghiệp sẽ do quan có thẩm quyền của Việt Nam sẽ căn cứ vào Điều 676 BLDS năm 2015 của nước CHXHCN Việt Nam

Doanh nghiệp X có quốc tịch nước nào phải do pháp luật của nước nơi doanh nghiệp X được thành lập quy định, hay doanh nghiệp quốc tịch nào phải căn cứ vào pháp luật của Lào.

– Pháp nhân là một chủ thể thường xuyên của tư pháp quốc tế, nên năng lực chủ thế của pháp nhân là một vấn đề cần làm rõ. Theo lý luận chung, năng lực chủ thể gom hai loại đó là năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Tương tự như trong phân năng lực chủ thể của cá nhân đã trình bày ở phần trên, năng lực pháp luật là khả năng có được các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định, còn năng lực hành vi là khả năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó.

Song, đôi với pháp nhân, do là một tổ chức nên pháp nhân không giống cá nhân, không có quá trình sinh trưởng sinh học nên năng lực hành vi đương nhiên có và nó xuất hiện đông thời với năng lực pháp luật của pháp nhân, pháp nhân thực hiện năng lực hành vi của mình thông qua người đại diện của mình. Vì vậy, pháp luật không quy định về năng lực hành vi của pháp nhân mà chỉ quy định năng lực pháp luật của pháp nhân mà thôi. – Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân, tên gọi của pháp nhân; đại diện theo pháp luật của pháp nhân; việc tổ chức, tổ chức lại, giải thể pháp nhân; quan hệ giữa pháp nhân với thành viên của pháp nhân; trách nhiệm của pháp nhân và thành viên của pháp nhân đối với các nghĩa vụ của pháp nhân được xác định theo pháp luật của nước mà pháp nhân có quốc tịch, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này.

Như vậy pháp nhân mang quốc tịch nước nào các vấn đề liệt kê trên sẽ phải xác định theo pháp luật nước đó. Ví dụ, theo pháp luật Việt Nam đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể có nhiều người nhưng theo pháp luật của nước mà pháp nhân mang quốc tịch thì đại diện theo pháp luật của pháp nhân chỉ có một người. Trường hợp này phải áp dụng pháp luật của nước mà pháp nhân mang quốc tịch tức là chỉ có 1 người là đại diện theo pháp luật của pháp nhân mà thôi.

– Khoản 3, cũng giống như cá nhân Trường hợp pháp nhân nước ngoài các lập, thực hiện giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài đó được xác định theo pháp luật Việt Nam. Quy định này đảm bảo mọi hoạt động giao dịch của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam phải phù hợp với pháp luật Việt Nam.

Ví dụ: Văn phòng đại diện của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam có khả năng kinh doanh hay không do pháp luật Việt Nam quy định, và pháp luật Việt Nam không quy định văn phòng đại diện có chức năng kinh doanh nên nêu một văn phòng đại diện của một pháp nhân nước ngoài mà xác lập một hợp đồng mua bán với một pháp nhân Việt Nam tại Việt Nam sẽ là không hợp pháp.

Nếu và phân tích các đặc điểm của chủ thể pháp luật doanh nghiệp

Đặc điểm của pháp nhân

Pháp nhân có những đặc điểm sau đây

– Pháp nhân được thành lập một cách hợp pháp:

Theo Điều 82 BLDS năm 2015, pháp nhân có thể được thành lập theo sáng kiến của cá nhân, tổ chức hoặc theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và có mục đích, nhiệm vụ hợp pháp. Quy định này loại bỏ tư cách pháp nhân của những tổ chức được thành lập bất hợp pháp. Ví dụ: Các tổ chức phản động, chống phá chính quyền không được công nhận là nhân vì thành lập bất hợp pháp.

– Pháp nhân có cơ cấu tổ chức chặt chẽ:

Tổ chức là một tập thể người được dưới một hình thức nào đó (doanh nghiệp, công ty, bệnh viện, trường học tác xã…) phù hợp với chức năng và lĩnh vực hoạt động bảo đảm tính hiệu quả trong hoạt động của loại hình tổ chức đó, Pháp nhân phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ để biến một tập thể người thành một thể thống nhất (một chủ thể) có khả năng thực hiện có hiệu quả nhất nhiệm vụ của tổ chức đó đặt ra khi thành lập.

Bên cạnh đó, pháp nhân phải là một tổ chức độc lập, tức là: Pháp nhân không bị chi phối bởi các chủ thể khác khi quyết định các vấn đề có liên quan đến nhiệm vụ của tổ chức đó trong phạm vi điều lệ, quyết định thành lập và các quy định của pháp luật đối với tổ chức đó; Pháp nhân có ý chí riêng và hành động theo ý chí của mình; Sự tồn tại của pháp nhân không phụ thuộc vào sự thay đổi các thành viên của pháp nhân. Có nhiều tổ chức thống nhất nhưng không độc lập như các phòng, ban, khoa… trong các trường học, các tổ chức là một bộ phận của pháp nhân.

– Pháp nhân phải có tài sản độc lập và tự chịu trách nhiệm độc lập bằng tài sản đó:

Tài sản của pháp nhân hình thành từ các nguồn như: Nhà nước giao để thực hiện chức năng, nhiệm vụ (các pháp nhân là tổ chức chính trị, cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang…); từ nguồn vốn đóng góp của các thành viên; Từ hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp; được thừa kế, tặng cho… Để một tổ chức tham gia vào các quan hệ tài sản với tư cách là chủ thể độc lập thì tổ chức đó phải có tài sản riêng của mình – tài sản độc lập. Sự độc lập về tài sản của pháp nhân thể hiện như sau:

– Tài sản của pháp nhân độc lập với tài sản của cá nhân – thành viên của pháp nhân, độc lập với cơ quan cấp trên của pháp nhân và các tổ chức khác.

– Tài sản độc lập của pháp nhân là tài sản thuộc quyền của pháp nhân đó, do pháp nhân chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trong phạm vi nhiệm vụ và phù hợp với mục đích của pháp nhân.

Trên cơ sở pháp nhân có tài sản độc lập thì pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng của mình. Việc tự chịu trách nhiệm của pháp nhân thể hiện dưới | các khía cạnh sau đây:

– Cơ quan cấp trên không chịu trách nhiệm thay hoặc trách nhiệm bổ sung cho pháp nhân;

– Pháp nhân cũng không chịu trách nhiệm thay cho cơ quan quản lý cấp trên của pháp nhân hoặc cho thành viên của pháp nhân;

– Thành viên của pháp nhân không phải dùng tài sản riêng của mình để thực hiên nghĩa vụ của pháp nhân vì trách nhiệm của pháp nhận thuộc dạng trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi tài sản riêng của pháp nhân.

– Pháp nhân nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập

Pháp nhân là một chủ thể độc lập của quan hệ pháp luật dân sự, do . Xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự hay các quan hệ khác khi pháp nhân nhân danh chính mình mà không phải nhận danh bất kỳ 1 cá nhân hay pháp nhân nào khác.

Pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật với tư cách riêng, có khả năng hưởng quyền và gánh chịu các nghĩa vụ dân sự do pháp luật quy định nhi hợp với điều lệ của pháp nhân. Đồng thời, trong quan hệ tố tụng, pháp nhân có thể trở thành nguyên đơn hoặc bị đơn trước Toà án.

Ví dụ: Công ty cổ phần Mao Mặc DM ký kết hợp đồng mua 100 tấn vải từ công ty TNHH HL thì chủ thể trong quan hệ này chính là 2 công ty. Và trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng mà 2 bên không thể tự giải quyết được thì một trong 2 bên có thể khởi kiện ra Tòa án với tư cách là nguyên đơn trong vụ kiện và bên còn lại tham gia phiên tòa với tư cách là bị đơn của vụ kiện.

Mọi cá nhân, pháp nhân đều có quyền thành lập pháp nhân. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, luật có quy định khác hạn chế quyền thành lập pháp nhân của cá nhân, tổ chức thi tuân theo quy định đó.

Ví dụ: Khoản 2 Điều 17 Luật doanh nghiệp năm 2020 quy định các tổ chức, cá nhân sau đây không có quyền thành lập và quan lý doanh nghiệp tại Việt Nam:

Tư cách pháp nhân là gì?

Tư cách pháp nhân là tư cách pháp lý được Nhà nước công nhận cho một tổ chức (nhóm người) có khả năng tồn tại, hoạt động độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Điều kiện để có tư cách pháp nhân

Theo điều 74 Bộ luật Dân sự 2015, một tổ chức được công nhận là có tư cách pháp nhân khi đủ 4 điều kiện sau:

“a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;

b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;

c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình;

d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.”

Chúng ta cùng đi phân tích 4 điều kiện để trở thành pháp nhân để có thể phân biệt được các tổ chức là pháp nhân hay không.

Đại diện pháp nhân là gì?

Theo Điều 85 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về đại diện của pháp nhân như sau:

Đại diện của pháp nhân có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Người đại diện của pháp nhân phải tuân theo quy định về đại diện tại Chương IX Phần này.

Theo đó, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm:

+ Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ

+ Người có thẩm quyền đại diện do pháp luật quy định

+ Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án

Doanh nghiệp nào có tư cách pháp nhân?

Theo Luật Doanh nghiệp 2020, hiện nay có 05 loại hình doanh nghiệp bao gồm:

– Công ty TNHH 2 thành viên trở lên;

– Công ty TNHH 1 thành viên;

– Công ty cổ phần;

– Công ty hợp danh;

Doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân

Điển hình của loại doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân là doanh nghiệp tư nhân. Doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn bằng tài sản (bằng toàn bộ tài sản của chủ doanh nghiệp). Chính điều này làm nên sự đặc biệt của DNTN.

Khi thành lập doanh nghiệp tư nhân bạn có thể có mức rủi ro cao. Nhưng lại có được sự tin tưởng cao hơn từ phía khách hàng.

Ngoài ra, còn có đơn vị phụ thuộc doanh nghiệp là chi nhánh và văn phòng đại diện cũng không có tư cách pháp nhân.

Cơ cấu tổ chức, bộ máy hoạt động của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, cơ câu tổ chức của họ phức tạp hơn và được luật quy định nhiều hơn.

Nếu có thắc mắc liên quan đến thành lập doanh nghiệp, độc giả vui lòng liên hệ đến tổng đài 1900 6557 để được hỗ trợ nhanh nhất.