Nguyên nhân phản ứng sốt
Chủ nhật, 12/8/2018, 08:48 (GMT+7) Show
Nhiều người cho rằng sốt là một bệnh, lo lắng tìm mọi cách để hạ sốt nhanh nhất. Tuy nhiên, sốt thực sự có lợi nhiều hơn hại. Phó giáo sư Nguyễn Tiến Dũng, nguyên Trưởng khoa Nhi, Bệnh viện Bạch Mai cho biết, sốt thường là triệu chứng của các bệnh nhiễm trùng. Sốt cũng có thể là dấu hiệu bệnh không nhiễm trùng như bệnh ác tính hoặc do một số loại thuốc. Khi tác nhân gây sốt tác động vào cơ thể, trung tâm điều nhiệt bị ảnh hưởng làm cơ thể tăng tạo nhiệt và giảm thải nhiệt. Sốt là khi thân nhiệt của cơ thể tăng cao hơn so với mức bình thường. Nhiệt độ đo được ở hậu môn từ 38 độ C trở lên. Dựa vào nhiệt độ đo được ở hậu môn, sốt được chia thành 4 mức độ như sốt nhẹ (38-39 độ C; sốt vừa (39-40 độ C); sốt cao (40-41 độ C) và sốt kịch phát từ 41 độ C trở lên. Nhiệt độ đo ở nách thấp hơn nhiệt độ đo ở hậu môn khoảng 0,5 độ C. Có rất nhiều nguyên nhân gây sốt như do nội sinh và ngoại sinh, do nhiễm trùng, viêm, miễn dịch, ung thư, chuyển hóa, thuốc... Nguyên nhân gây sốt ở trẻ em được phân hai nhóm: - Nguyên nhân gây sốt dưới 7 ngày: Nhiễm khuẩn hô hấp; các bệnh nhiễm trùng hay gặp như sốt xuất huyết, sởi; nhiễm trùng tiết niệu; nhiễm trùng huyết; viêm não màng não; sốt rét. - Nguyên nhân gây sốt từ 7 ngày trở lên bao gồm: Sốt rét; thương hàn; nhiễm trùng tiết niệu; lao; bệnh hệ thống; áp xe sâu; viêm nội tâm mạc. Wikipedia tiếng Việt không bảo đảm và không chịu trách nhiệm về tính pháp lý và độ chính xác của các thông tin có liên quan đến y học và sức khỏe. Độc giả cần liên hệ và nhận tư vấn từ các bác sĩ hay các chuyên gia. Khuyến cáo cẩn thận khi sử dụng các thông tin này. Xem chi tiết tại Wikipedia:Phủ nhận y khoa và Wikipedia:Phủ nhận về nội dung.Một cặp nhiệt độ đo được nhiệt độ là 38.7 °C Sốt là dấu hiệu y khoa thông thường đặc trưng bởi sự gia tăng nhiệt độ cơ thể cao hơn khoảng dao động bình thường của nhiệt độ cơ thể người là 36.5–37.5 °C (98–100 °F).[1] Sốt thường là đáp ứng của cơ thể với một bệnh nhiễm trùng, thường kéo dài hơn 2 đến 3 ngày. Ngoài ra, sốt còn có thể do những bệnh không nhiễm trùng khác, tiếp xúc với nước nóng, tập thể dục, sau chích ngừa hoặc khóc nhiều cũng làm tăng thân nhiệt. Nguyên nhân[sửa | sửa mã nguồn]Sốt là triệu chứng thông thường của nhiều bệnh:
Sốt dai dẳng mà hiện nay y học vẫn chưa tìm được nguyên nhân được gọi là sốt không rõ nguồn gốc. Các giai đoạn của sốt[sửa | sửa mã nguồn]Sốt gồm ba giai đoạn:
Cơ chế gây sốt[sửa | sửa mã nguồn]Yếu tố trực tiếp gây ra cơn sốt trong cơ thể là các chất gây sốt nội sinh - là một loại protein được hình thành bên trong cơ thể. Ngày nay người ta đã tìm ra 11 chất gây sốt nội sinh, trong đó phổ biến nhất là các loại interleukin. Quá trình diễn ra sốt bắt đầu từ lúc tác nhân lạ xâm nhập vào cơ thể và tiết ra các chất gây sốt ngoại sinh (độc tố của vi sinh vật, bản thân tác nhân lạ,...). Chất gây sốt ngoại sinh kích thích các đại thực bào và bạch cầu trung tính tiết ra chất gây sốt nội sinh. Chất này tác động lên trung tâm điều nhiệt của cơ thể làm trung tâm này hoạt hóa acid arachidonic, làm sản sinh monoamin gây thay đổi setpoint (điểm đặt nhiệt) dẫn tới tăng sản nhiệt và giảm thải nhiệt toàn cơ thể, gây ra cơn sốt. Một con đường khác bắt đầu khi các lympho T kết hợp với kháng nguyên, sẽ tiết ra lymphokin kích hoạt bạch cầu đa nhân và đại thực bào tíết ra chất gây sốt nội sinh. Các diễn tiến tiếp sau đó là tương tự. Các rối loạn trong sốt[sửa | sửa mã nguồn]Rối loạn chuyển hóa[sửa | sửa mã nguồn]
Rối loạn các cơ quan[sửa | sửa mã nguồn]
Các loại sốt[sửa | sửa mã nguồn]
Điều trị[sửa | sửa mã nguồn]Để điều trị sốt đúng cách cần phải biết nguyên nhân gây ra sốt. Trong hầu hết các trường hợp, ngoại trừ tăng thân nhiệt, thì acetaminophen hoặc ibuprofen đều có thể làm hạ thân nhiệt. Nên cung cấp thêm dịch cho cơ thể qua đường miệng hoặc tiêm tĩnh mạch để chống mất nước nếu cần thiết. Sốt do nhiễm siêu vi (sốt siêu vi) có thể tự khỏi. Có thể bệnh nhân sẽ được cho những loại thuốc điều trị những triệu chứng đặc biệt khác. Có thể đó là những loại thuốc làm giảm thân nhiệt, trị nghẹt mũi, giảm đau họng hoặc trị sổ mũi. Virus có thể gây nôn ói và tiêu chảy và cần phải truyền dịch qua đường tĩnh mạch cùng với dùng thuốc để làm chậm lại tốc độ tiêu chảy và nôn ói. Một số ít loại nhiễm siêu vi có thể được điều trị bằng thuốc kháng siêu vi, trong đó có Herpes và influenza virus. Nếu bệnh nhân có thể uống nước được và triệu chứng nhẹ, bệnh nhân có thể về nhà được mà không cần ở lại bệnh viện. Những bệnh nhiễm vi khuẩn cần phải có loại thuốc kháng sinh đặc hiệu để điều trị tùy thuộc và loại vi khuẩn được tìm thấy và nơi ở của nó trong cơ thể người. Các bác sĩ sẽ xác định xem người bệnh có cần phải nhập viện không hay có thể ra về được. Quyết định tùy thuộc vào bệnh hiện tại và những bệnh kèm theo khác của bệnh nhân. Hầu hết những trường hợp nhiễm nấm đều có thể được điều trị bằng thuốc kháng nấm. Sốt do thuốc có thể giảm sau khi ngưng thuốc. Nếu bị huyết khối thuyên tắc, bạn nên đến bệnh viện và sử dụng thuốc tán huyết. Đối với bệnh nhân bị sốt do tiếp xúc với nhiệt độ nóng ở môi trường cần phải được làm mát bằng cách cởi bỏ hết quần áo, mở quạt có phun sương, theo dõi sát dấu hiệu sinh tồn. Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
|