Nhà nước ta đã vận dụng quy luật giá trị như thế nào

Nhà nước đã vận dụng quy luật giá trị như thế nào vào nước ta?

A. Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển.

B. Xóa bỏ mô hình kinh tế cũ.

C. Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đáp án chính xác

D. Để mọi cá nhân tự do sản xuất bất cứ mặt hàng nào.

Xem lời giải

Quy luật giá trị là gì?

“ Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng hóa, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị.” Yêu cầu chung của quy luật giá trị là việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí sức lao động xã hội cần thiết.

Về nội dung quy luật giá trị: Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là hao phí lao động xã hội cần thiết.

Trong sản xuất, người tiến hành sản xuất phải có sự hao phí sức lao động cá biệt của mình nhỏ hơn hoặc bằng với mức hao phí sức lao động xã hội cần thiết, thì mới đạt được lợi thế trong cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh là những lợi thế giúp người sản xuất đó có thể có ưu thế hơn so với những người sản xuất khác.

Quy luật giá trị và vận dụng quy luật giá trị ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [102.37 KB, 9 trang ]

Quy luật giá trị và vận dụng quy luật giá trị ở Việt Nam
a, Quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin về quy luật giá trị:
• Nội dung và yêu cầu của quy luật giá trị:
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa, ở
đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của
quy luật giá trị.
Yêu cầu chung của quy luật giá trị: việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải
dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.
Trong kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất tự quyết hao phí lao động cá biệt
của mình, nhưng giá trị của hàng hoa không phải được quyết định bởi hao phí lao
động cá biệt của từng người sản xuất hàng hóa, mà bởi hao phí lao động xã hội cần
thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng hóa, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản
xuất phải điều chỉnh làm sao cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với
mức chi phí mà xã hội chấp nhận được.
Trong lưu thông, hay trao đổi hàng hóa cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao
động xã hội cần thiết, có nghĩa là trao đổi theo nguyên tắc ngang giá.
Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa.
Vì giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, nên
trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hóa nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ
cao và ngược lại. Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân
tố khác như: cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân
tố này làm cho giá cả hàng hóa trên thị trường tách rời với giá trị và lên xuống xoay
quay cột giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng hóa xoay quanh trục
giá trị của nó là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của
giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng.
• Tác động của quy luật giá trị
Trong sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có ba tác động chủ yếu sau:
Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.


Điều tiết sản xuất tức là điều hòa, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành,


các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác động này của quy luât giá trị lưu thông qua sự
biến động của giá cả trên thị trường dưới tác động của quy luật cung cầu. Nếu ở
ngành nào đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hóa sẽ lên cao hơn giá trị, hàng hóa
bán chạy, lãi cao, thì người sản xuất sẽ đổ xô vào hàng hóa ấy. Do đó, tư liệu sản
xuất và sức lao động được chuyển dịch vào ngành ấy tăng lên. Ngược lại, khi cung
ở ngành đó vượt quá cầu, giá cả hàng hóa giảm xuống, hàng hóa bán không chạy và
có thể lỗ vốn. Tình hình ấy buộc người sản xuất phải thu hẹp quy mô sản xuất lại
hoặc chuyển sang đầu tư vào ngành có giá cả hàng hóa cao.
Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cung thông qua giá cả trên thị trường.
Sự biến động của giá cả trên thị trường cũng có tác dụng thi hút nguồn hàng từ nơi
giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hóa thông suốt.
Như vậy, sự biến động của giá cả thị trường không những chỉ rõ sự biến động
về kinh tế, mà còn tác động điều tiết nền kinh tế hàng hóa.
Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao
động, thúc đẩy lực lượng sản xuất hàng hóa phát triển.
Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất hàng hóa là một chủ thể kinh
tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều
kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt của mỗi người khác nhau,
người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội của
hàng hóa ở thế có lợi sẽ thu được lãi cao hơn. Người sản xuất nào có hao phí lao
động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để
giành lợi thế trong cạnh tranh và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao
phí lao động cá biệt của mình, sao cho bằng hao phí lao động cần thiết. Muốn vậy,
họ phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm
chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình
này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội
được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.
Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa
thành người giàu, người nghèo.



Qúa trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người
có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên
có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát
tài, giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh
doanh. Ngược lại, những người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc
gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn đến phá sản trở thành nghèo khó.
Những tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn hết sức to lớn: một mặt, quy luật giá trị chi phối sự lựa chon tự
nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển; mặt khác,
phân hóa xã hội thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội.
b, Vận dụng quy luật giá trị ở Việt Nam
Không một nền kinh tế nào có thể coi là hoàn thiện, là phát triển tốt tuyệt đối
cho dù đó có là nền kinh tế của một quốc gia phát triển nhất thế giới đi nữa. Lúc nào
nó cũng chứa những mặt trái, những mặt còn chưa tốt, những hạn chế cần được tiếp
tục khắc phục. Việc áp dụng các quy luật kinh tế vào việc vận hành và quản lý nền
kinh tế của một quốc gia luôn luôn tiềm ẩn những nguy cơ đổ vỡ nền kinh tế do vận
dụng không đúng cách, không đúng yêu cầu thực tế. Đó vẫn là một trong những vấn
đề nan giải của rất nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có cả nước Việt Nam của
chúng ta. Vậy hiện nay, chúng ta cần phải làm gì và làm như thế nào để phát triển
nền kinh tế yếu kém, lạc hậu đi lên một nền kinh tế mới phát triển hơn, hoàn chỉnh
hơn. Trước khi xét điều đó ta sẽ đi phân tích nền kinh tế nước ta trong những năm
gần đây để thấy được thực trạng nền kinh tế của đất nước. Nền kinh tế của một quốc
gia luôn biến động cùng với nền kinh tế thế giới. Để phát triển kinh tế thì ta phải
biết những vấn đề tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam để vạch khắc phục.
Thứ nhất, để phát triển kinh tế thì chúng ta cần phải có vốn, đó là vấn đề
đáng quan tâm hàng đầu của nước ta hiện nay. Trên thực tế những năm gần đây
nước ta luôn trong tình trạng thiếu hụt nguồn vốn vì tổng thu ngân sách luôn nhỏ
hơn tổng chi ngân sách.
Thứ hai, là cơ sở vật chất của đất nước. Điều không thể không thừa nhận là


nước ta là cơ sở vật chất kém phát triển, chậm phát triển. Các khu công nghiệp ít, hệ
thống máy nước trang thiết bị lạc hậu. Cơ sở vật chất không đáp ứng đủ cho việc


thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Hệ thống giao thông không thuận lợi, kém phát
triển, lại thêm sự ảnh hưởng của thiên nhiên và môi trường càng làm cho hệ thống
cơ sở vật chất của nước ta ngày càng bị sa sút nghiêm trọng. Chính sách đầu tư cho
phát triển cơ sở hạ tầng còn chưa được quan tâm thích đáng. Các nguồn tài nguyên
thiên nhiên bị lãng phí hoặc bị bỏ quên còn nhiều. Những điều đó đã gây ảnh hưởng
không nhỏ tới nền kinh tế quốc dân.
Thứ ba, là con người. Trình độ văn hoá của con người thấp kém, khả năng ứng
dụng máy nước, trang thiết bị hiện đại trong phát triển sản xuất không đạt yêu cầu
thực tế. Hơn nữa những người có tay nghề, kỹ thuật cao chiếm số ít trong lực lượng
lao động của đất nước. Thái độ lao động của nhiều người còn không nghiêm túc.
Những người có trình độ, có tri thức vận dụng tài năng của minh để tham ô tài sản
nhà nước. Tất cả các yếu tố trên đã góp một phần không nhỏ vào việc kìm hãm sự
phát triển của nền kinh tế đất nước.
Thứ tư, là vấn đề kỹ thuật và công nghệ. Trình độ khoa học kỹ thuật và công
nghệ còn yếu. Không có thành tựu nào là đáng kể trong nghiên cứu khoa học mà chỉ
thừa hưởng những công nghệ đã lạc hậu ở nước tiên tiến trên thế giới chuyển giao
lạ. Điều đáng nói là ngay cả việc giám định các công nghệ chuyển giao cũng không
có. Nó đã gây lãng phí ngân sách Nhà nước rất nhiều vì chúng ta phải nhận những
máy móc, công nghệ đã qua sử dụng với giá cả ngang bằng giá của máy móc, công
nghệ mới. Nguyên nhân cơ bản là do Nhà nước không có chính sách đầu tư thích
đáng cho nghiên cứu, ứng dụng triển khai các thành tựu khoa học kỹ thuật mới.
Thứ năm, là cơ cấu kinh tế. Tuy nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ
chế thị trường nhưng cơ cấu kinh tế của nước ta vẫn chưa chặt chẽ, hợp lý, vẫn còn
nhiều kẽ hở lớn, cơ cấu ngành nghề còn nhiều điều bất cập. Các vùng kinh tế chưa
được chú ý phát triển đồng đều về các mặt. Do đó sự phát triển của nền kinh tế quốc
dân vẫn bị kìm hãm.


Thứ sáu là mức tăng dân số quá nhanh.Tuy những năm gần đây tỷ lệ tăng dân
số có giảm hơn trước nhưng vẫn còn cao. Nó đồng nghĩa với việc số lao động ngày
càng gia tăng trong khi việc làm thì ngày càng ít do sự phát triển của khoa học công
nghệ. Chính những người thất nghiệp này là nguy cơ dẫn đến sự gia tăng của tệ nạn
xã hội, an ninh không được đảm bảo.


Cuối cùng là thể chế chính trị và quản lý của Nhà nước. Đây cũng là nhân tố
quan trọng nhất có vai trò quyết định trong phát triển kinh tế của đất nước. Tuy rằng
nước ta có một thể chế chính trị ổn định và tiến bộ nhưng khả năng định hướng cho
sự phát triển kinh tế còn nhiều khuyết điểm, mà lý do chính là sự điều tiết hướng
phát triển của nền kinh tế còn chưa phù hợp, gây ô nhiễm môi trường, làm phân hóa
giàu nghèo, nạn thất nghiệp ngày càng gia tăng.
Thời kỳ trước năm 1986 nền kinh tế nước ta vẫn còn là cơ chế kế hoạch hoá
tập trung. Mọi kế hoạch sản xuất của cả nền kinh tế đều được cơ quan chính phủ
vạch định ra sẵn từ: sản xuất cái gì? sản xuất bao nhiêu? rồi từ đó phân bổ chỉ tiêu
cho các đơn vị sản xuất. Còn các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thì cứ như chỉ
tiêu của nhà nước đã giao cho mà làm, còn ngoài ra các doanh nghiệp không phải lo
đầu ra đầu vào tất cả đều đã có sự sắp xếp của nhà nước. Nếu doanh nghiệp sản xuất
có mà hàng không bán được thì nhà nước sẽ bù lỗ cho doanh nghiệp vì đó có thể coi
như “Lỗi của nhà nước”. Nói chung các doanh nghiệp dù là “tồn tại” hay là “sống”
cũng gần như nhau cả, vì đã là doanh nghiệp của nhà nước thì chắc chắn sẽ không
bị “đói”. Điều đó đã không làm phát huy được sự năng động sáng tạo của mỗi
doanh nghiệp cũng như mỗi cá nhân trong doanh nghiệp như bị thui chột đi cái
năng động trong mỗi người công nhân. Chính vì vậy ta thấy giai đoạn này quy luật
giá trị thực sự không được vận dụng và phát huy được vai trò của nó đối với nền
kinh tế. Hơn nữa giai đoạn này thì thành phần kinh tế tư nhân và thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh khác không được khuyến khích nên việc vận dụng quy luật giá trị
ở thời kỳ này dường như không được chú ý.
Sau khi nhà nước ta quyết tâm cải cách sau đại hội Đảng lần thứ VI thì đã có


thay đổi trong nền kinh tế của cả nước trong cách quản lý hay đối với từng doanh
nghiệp. Từ bước ngoặt đó thì các doanh nghiệp nhà nước đã phải tự hạch toán kinh
tế, hơn nữa từ 1986 thì các doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh cũng được khuyến khích phát triển. Mỗi doanh nghiệp bây giờ là một chủ thể
độc lập, họ phải tự tìm hướng đi cho mỗi doanh nghiệp của mình . Đối với các
doanh nghiệp nhà nước thì nhà nước tách quyền sử dụng và quyền sở hữu riêng,
quyền sở hữu vẫn thuộc về nhà nước nhưng quyền sử dụng thì nhà nước giao cho
doanh nghiệp. Doanh nghiệp tự mình tổ chức hoạt động kinh doanh, tự nghiên cứu


thị trường xác định mặt hàng sản xuất, lựa chọn công nghệ sản xuất cho đến khâu
cuối cùng là tiêu thụ sản phẩm. Nhà nước chỉ thể hiện quyền sở hữu của mình thông
qua thuế và doanh nghiệp nộp lợi nhuận. Nhà nước không còn can thiệp vào các
hoạt động của công ty và bây giờ nhà nước chỉ can thiệp vào bằng các biện pháp vĩ
mô để ổn định thị trường. Trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp là người
sản xuất hàng hoá, để đứng vững được trên thị trường thì họ phải tính đến hiệu quả
sản xuất kinh doanh thông qua các hình thức giá trị, giá cả, lợi nhuận, chi phí…và
phải thường xuyên đối chiếu đầu vào và đầu ra. Đối với các vận dụng quy luật giá
trị để biết được lợi thế và sửa chữa những khuyết điểm và cạnh tranh cùng với các
loại hàng hoá khác trên thị trường khẳng định vị thế của hàng hoá của Việt Nam
trên thị trường quốc tế thì lợi nhuận luôn luôn là mục tiêu để phấn đấu, để đạt được
mục tiêu đó thì các doanh nghiệp phải tự tìm cách hạ thấp chi phí sản xuất bằng
cách hợp lý hoá sản xuất, tiết kiệm chi phí vật chất, tăng năng suất lao động, … Để
làm được điều đó thì doanh nghiệp phải lắm vững và vận dụng tốt quy luật giá trị.
Thời gian qua ta đã thấy được đã có rất nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả,
điều đó cho thấy các doanh nghiệp đã vận dụng khá tốt quy luật giá trị và các chính
sách của nhà nước thực sự đã có tác động vào nền kinh tế. Nhà nước ta đã quyết
định cổ phần hoá phần lớn các doanh nghiệp nhà nước, và nhà nước chỉ giữ lại một
số ngành có tính chất an ninh quốc gia. Các doanh nghiệp rồi sẽ dần chuyển thành
các công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu và mỗi cổ đông sẽ vì lợi ích của chính


mình để đầu tư vào sản xuất và cố gắng sao cho lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Bởi
vậy việc việc vận dụng quy luật giá trị của mỗi công ty cổ phần thời kỳ này là một
việc hết sức quan trọng và cần thiết đối với mỗi công ty cổ phần. Vận dụng quy luật
giá trị để tính toán, đưa ra những phương pháp tối ưu để nâng cao hiệu quả kinh
doanh. Hơn nữa trong quá trình quốc tế hội nhập như hiện nay và việc chúng ta
chuẩn bị ra nhập WTO thì các doanh nghiệp phải thực hiện tốt việc vận dụng quy
luật giá trị để biết được lợi thế và sửa chữa những khuyết điểm và cạnh tranh cùng
với các loại hàng hoá khác trên thị trường. Khẳng định vị thế của hàng hoá của Việt
Nam trên thị trường quốc tế.
Sau đại hội Đảng lần VI [1986], triển khai nghị quyết TW3 về đổi mới quản lý
kinh tế thì chính phủ đã ra quyết định 217, quy định mọi người lao động trong các


doanh nghiệp nhà nước được thu nhập theo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và
năng suất, hiệu quả lao động của mỗi người. Nhưng do nhà nước chưa có hướng
dẫn thi hành kịp thời nên mỗi đơn vị hiểu và làm theo cách riêng của mình. Doanh
nghiệp nào lương thấp quá thì tìm mọi biện pháp để nâng lương nên và gây ra sự rối
loạn chế độ tiền lương đối với doanh nghiệp nhà nước. Bởi vậy năm 1989 nhà nước
đã chỉnh lại chế độ quản lý tiền lương theo đơn giá sản phẩm được tính trên cơ sở
bảng lương và trượt giá, nhưng do tình hình lạm phát quá cao nên chính sách này
cũng không phù hợp. Tới năm 1995 nhà nước lại ban hành chế độ tiền lương tối
thiểu là 120.000[đồng/tháng] .Nhưng mức lương này thực tế vẫn chưa đảm bảo sinh
hoạt cho công nhân với giá cả hàng hoá thực tế. Tới đầu năm 2000 tăng tiền lương
tối thiểu lên 180.000[đồng/tháng], năm 2001 là 210.000 [đồng/tháng], năm 2003 là
290.000[đồng/tháng] và theo dự kiến sẽ là 400.000[đồng/tháng]. Ta thấy theo sự
tăng lên của giá cả thì nhà nước cũng tăng mức tiền lương tối thiểu đảm bảo cuộc
sống cho cán bộ công nhân viên. Qua đó ta thấy nhà nước đã có sự vận dụng nhạy
bén quy luật giá trị vào trong cơ chế tiền lương. Tuy tiền lương ở nước ta đã được
hoàn thiện nhiều lần nhưng thực sự vẫn còn rất nhiều bất cập. Mức lương vẫn còn
thấp, không đủ để tái sản xuất giản đơn sức lao động, tiền lương thực tế bị hạ


thấp.Tiền lương tối thiểu tuy đã tăng nên rất nhiều nhưng thực sự vẫn chưa đảm bảo
được ổn định mức sống của người lao động. Điều đó cho ta thấy rằng mặc dù đã cố
gắng nhưng cơ chế tiền lương vẫn chưa thực sự thay đổi phù hợp với quy luật giá
trị.Chính vì vậy mà trong thực tế tiền lương vẫn chưa thể trở thành đòn bẩy kinh tế
khuyến khích người lao động học tập, nâng cao trình độ,nâng cao năng suất lao
động, chất lượng sản phẩn. Chính điều đó cũng hạn chế đi sự tăng trưởng kinh tế.
Bởi tiền lương và quan hệ kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nền kinh tế có
tăng trưởng thì tiền lương mới tăng và thu nhập tăng kích thích người lao động làm
việc và tăng mức tiêu dùng của người lao động là cơ sở để tiêu thụ sản phẩm.
Như ta đã biết thời kỳ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp thì tất cả giá cả của
các loại hàng hoá đều do Chính phủ kiểm soát. Bởi ở trong giai đoạn này nền kinh
tế nước ta vẫn còn yếu kém và nếu để thị trường tự điều tiết sẽ có những bất ổn
không kiểm soát được về giá. Quả thật đúng như vậy năm 1986 đã cải cách và để
cho một số hàng hoá được thị trường tự điều tiết của giá cả cùng với sự yếu kém


của nền kinh tế đã đẩy nạn lạm phát nên tới 747.7%. Nhà nước đã rời bỏ quyền can
thiệp trực tiếp, định giá hầu hết các loại hàng hoá, dịch vụ mang tính độc quyền và
trả lại cho thị trường quyền quyết định của các hàng hoá dịch vụ còn lại. Nhà nước
cũng đã xác định từ thời kỳ này nước ta thực hiện cơ chế một giá đó là giá kinh
doanh thương nghiệp, chính sách giá cả phải vận dụng tổng hợp các quy luật, trong
đó quy luật giá trị có tác động trực tiếp. Giá cả phải phù hợp với giá trị của đồng
tiền và trong sự tác động với quy luật cung cầu, không thể giữ giá theo ý muốn chủ
quan cứng nhắc bất chấp các quan hệ cung cầu, bất chấp sức mua của đồng tiền và
các yếu tố hình thành giá cả khác. Qua đây cho ta thấy ngay trong nhà nước cũng đã
nhận ra được vai trò quan trọng của quy luật giá trị trong việc hình thành giá cả
trong nền kinh tế thị trường. Lúc này quy luật giá trị thực sự đã phát huy tác dụng
về mặt tác động vào giá cả cũng như cũng như hướng tác động vào cơ chế tiền
lương của nước ta.
Nhận thức và vận dụng quy luật giá trị thể hiện chủ yếu trong việc hình thành


giá cả. Gía cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị, giá cả phải lấy giá trị làm cơ sở thì
mới có tác dụng kích thích tăng năng suất lao động, cải tiến kĩ thuật, cơ sở hạ tầng.
Nhà nước phải chủ động vận dụng cơ chế hoạt động của quy luật giá trị nghĩa là khả
năng giá cả tách rời giá trị, và xu hướng đưa giá cả trở về giá trị. Thông qua chính
sách giá cả, Nhà nước vận dụng quy luật giá trị nhằm:
Thứ nhất, kích thích sản xuất phát triển. Đối với các xí nghiệp chủ yếu là xây
dựng một hệ thống giá cả bán buôn để đưa chế độ hạch toán kinh tế đi vào nề nếp
và vững chắc.
Thứ hai, điều hòa lưu thông hàng tiêu dùng. Trong chế độ kinh tế thị trường,
tổng khối lượng và cơ cấu hàng tiêu dùng do kế hoach lưu chuyển hàng hóa quyết
định căn cứ vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức tăng thu nhập quốc
dân, và thu nhập bằng tiền của nhân dân, nhu cầu về hàng tiêu dùng trong điều kiện
sức mua không đổi, nếu giá cả một loại hàng nào đó giảm xuống thì lượng tiêu thụ
sẽ tăng lên và ngược lại. Nhà nước có thể quy định giá cả cao hay thấp để ảnh
hưởng đến khối lượng tiêu thụ một số loại hàng nào đó nhằm làm cho nhu cầu và
mức tăng của sản xuất về một số hàng tiêu dung ăn khớp với kế hoạch lư chuyển
hàng hóa của nhà nước.


Thứ ba là phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân thông qua chính sách
giá cả, việc quy định hợp lý các tỷ giá, nhà nước phân phối và phân phối lại thu
nhập quốc dân giữa các ngành nhằm phục vụ cho yêu cầu nâng cao đời sống của
nhân dân lao động.
Cuối cùng, nhận thức và vận dụng quy luật giá trị nói rộng ra là biết sử dụng
các đòn bẩy của kinh tế hàng hóa như kinh tế hàng hóa như tiền lương, giá cả, lợi
nhuận… dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết để tổ chức và thực hiện
chế độ hạch toán kinh tế.
Tóm lại đó là một quá trình phát huy tích cực của quy luật giá trị, là một quá
trình vận dụng quy luật giá trị và quan hệ thị trường như là một cung cụ để xây
dựng các mặt kinh tế, kích thích cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, làm cho


giá trị hàng hóa ngày càng hạ, đảm bảo tốt hơn cho nhu cầu đời sống, đồng thời
tăng thêm khối lượng tích lũy.
Đi đôi với việc phát huy tác dụng tích cực của quy luật giá trị đồng thời ngăn
chặn những ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với việc quản lý kinh tế.
Quy luật giá trị tồn tại một cách khách quan trong nền kinh tế. Nhờ nắm vững
tác dụng của các quy luật kinh tế, sử dụng tác dụng tích cực và hạn chế các tác dụng
tiêu cực của quy luật giá trị. Nhà nước đã nâng cao dần trình độ công tác, kế hoạch
hóa kinh tế. Trung ương Đảng nhấn mạnh: Về cơ bản chúng ta đã nắm được nội
dung, tính chất và tác dụng của quy luật giá trị đối với các thành phần kinh tế khác
nhau trong hai lĩnh vực sản xuất và phân phối khác nhau về tư liệu sản xuất và tư
liệu tiêu dùng và đã vận dụng nó phục vụ các nhiệm vụ chính trị và kinh tế của
Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ, công tác kế hoạch hóa giá cả cũng có tiến bộ,
phạm vi ngày càng mở rộng, trình độ nghiệp vụ cũng được nâng lên một bước.



Video liên quan

Chủ Đề