Phương pháp phát hành chứng khoán trực tiếp

Mục lục bài viết

  • 1. Khái niệm về phát hành chứng khoán
  • 2. Mệnh giá chứng khoán
  • 3. Chủ thể phát hành chứng khoán
  • 3.1. Chính phủ và Chính quyền địa phương
  • 3.2. Các doanh nghiệp
  • 3.3. Các quỹ đầu tư chứng khoán

1. Khái niệm về phát hành chứng khoán

Phát hành chứng khoán là hình thức đưa ra lưu hành chứng khoán mới để huy động vốn (tư bản) cần thiết cho người phát hành chứng khoán và trao cho người mua (chủ sở hữu chứng khoán) quyền nhận thu nhập dưới dạng lợi tức nhất định (nhận ngay khi mua phiếu hoặc sau một thời gian nhất định). Như vậy, việc chào bán lần đầu tiên chứng khoán mới gọi là phát hành chứng khoán.

Chứng khoán được phát hành dưới hình thức chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với vốn hoặc tài sản của tổ chức phát hành. Tổ chức phát hành chứng khoán là doanh nghiệp cần huy động vốn cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh hay Chính phủ huy động vốn để trang trải nhu cầu chỉ tiêu của ngân sách nhà nước. Việc phát hành các loại chứng khoán có thể chuyển nhượng được và lượng chứng khoán phát hành bán cho những người mua (người đầu tư) ngoài tổ chức phát hành đạt mức pháp luật quy định gọi là phát hành chứng khoán ra công chúng.

Khác với quan hệ mua, bán lại chứng khoản, quan hệ phát hành chứng khoán được thiết lập trực tiếp giữa người gọi vốn (tổ chức phát hành) và người đầu tư nên việc phát hành chứng khoán làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế. Để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư và bảo đảm thị trường phát triển lành mạnh, pháp luật quy định chặt chẽ các điều kiện bắt buộc đối với việc phát hành chứng khoán. Có thể coi việc phát hành là cầu nối giữa thị trường sơ cấp với thị trường thứ cấp và nó có một vai trò vô cùng quan trọng trong việc tạo ra hàng hóa (các chứng khoán) để làm động lực cho thị trường.

2. Mệnh giá chứng khoán

Trước khi phát hành chứng khoán ra thị trường, theo quy định của Luật chứng khoán thì tất cả các công ty cổ phẩn sẽ phải đổi toàn bộ số cổ phiếu của mình về mệnh giá gốc là 10.000 đồng/ cổ phiếu. Với trái phiếu thì mệnh giá gốc sẽ là 100.000 đồng/ trái phiếu hoặc bội số của 100.000 đồng (200.000 đồng, 300.000 đồng…,1.000.000 đồng). Như vậy có thể hiểu mệnh giá chứng khoán là giá gốc của một cổ phiếu hoặc một trái phiếu khi góp vốn ban đầu. Trên cơ sở giá gốc đó với giá thị trường hiện tại và tình trạng công ty, ta có thể đánh giá được là giá đó là đang “đắt” hay “rẻ”.

3. Chủ thể phát hành chứng khoán

Chủ thể phát hành chứng khoán là tổ chức huy động vốn bằng cách bán chứng khoán cho người đầu tư. Theo pháp luật hiện hành, chủ thể phát hành bao gồm: Chính phủ và Chính quyền địa phương, các doanh nghiệp và các quỹ đầu tư chứng khoán. Trong đó, Chính phủ (thông qua Bộ Tài chính) và Chính quyền địa phương (thông qua Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) chỉ phát hành các loại trái phiếu để huy động vốn cho ngân sách hoặc để đầu tư vào các chương trình, dự án. Các doanh nghiệp có thể phát hành cả cổ phiếu và trái phiếu để huy động vốn từ công chúng phục vụ cho việc đổi mới công nghệ, mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc để tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp. Còn các quỹ đầu tư phát hành các chứng chỉ quỹ để huy động vốn cho các lĩnh vực đầu tư của mình.

3.1. Chính phủ và Chính quyền địa phương

Trái phiếu gồm có trái phiếu Chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp. Tùy vào đặc điểm và mục đích phát hành từng loại trái phiếu, pháp luật quy định những chủ thể khác nhau có thể phát hành những loại trái phiếu này. Việc phát hành trái phiếu Chính phủ và trái phiếu Chính quyền địa phương là một phương án thường được áp dụng khi cần huy động vốn cho nguồn ngân sách nhà nước để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Một cách tổng quát, Chính phủ sẽ chủ trì việc phát hành trái phiếu Chính phủ để bổ sung cho ngân sách trung ương; còn ở địa phương, Chính quyền địa phương sẽ chủ trì việc phát hành trái phiếu Chính quyền địa phương để bổ sung cho ngân sách địa phương. Tuy nhiên, không thể tùy tiện phát hành các trái phiếu này mà phải căn cứ vào từng thời kỳ, dựa trên các nguyên tắc, điều kiện nhất định và phải có kế hoạch, đề án cụ thể.

Mục đích của việc phát hành các trái phiếu để huy động vốn là nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách, thực hiện chính sách của nhà nước. Cụ thể, trái phiếu Chính phủ được phát hành cho các mục đích: đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước; bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước từ vay trái phiếu ngắn hạn; cơ cấu lại khoản nợ, danh mục nợ Chính phủ; cho doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng, chính quyền địa phương vay lại theo quy định của phápluật; các mục đích khác nhằm bảo đảm an ninh tài chính quốc gia. Còn trái phiếu Chính quyền địa phương được phát hành cho các mục đích: đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước; đầu tư vào các dự án có khả năng hoàn vốn tại địa phương. Có thể nói, Chính phủ và Chính quyền địa phương là một trong những chủ thể phát hành nhiều nhất của thị trường vốn. Điều này là dễ hiểu vì không phải lúc nào Chính phủ cũng có thể bù đắp sự thiếu hụt vốn xảy ra khá thường xuyên trong chi tiêu của mình bằng cách yêu cầu Ngân hàng Nhà nước in tiền mặt. Cho nên vay của nhân dân trên thị trường sơ cấp là cách làm phổ biến nhất. Đồng thời, xây dựng thị trường trái phiếu Chính phủ hoàn hảo sẽ cung cấp một đường lãi suất chuẩn cho thị trường chứng khoán. Do vậy, việc phát hành trái phiếu Chính phủ không chỉ đơn thuần căn cứ vào nhu cầu vay nợ của ngân sách mà còn được hoạch định trên quan điểm kinh tế vĩ mô nhằm vừa phát triển thị trường tài chính, vừa nhằm quản lý có hiệu quả việc vay nợ của nhà nước, góp phần kiềm chế lạm phát và thực hiện chiến lược kinh tế của Chính phủ.

Như vậy, Chính phủ và Chính quyền địa phương sẽ chủ trì việc phát hành trái phiếu Chính phủ và trái phiếu Chính quyền địa phương. Tuy vậy, họ không trực tiếp làm điều này mà thường ủy quyền cho một cơ quan nhất định. Ở Trung ương, chủ thể phát hành trái phiếu Chính phủ là Bộ Tài chính để huy động vốn cho ngân sách nhà nước hoặc huy động vốn cho chương trình, dự án đầu tư cụ thể thuộc phạm vi đầu tư của nhà nước. Tuy nhiên, Bộ Tài chính sẽ không trực tiếp thực hiện việc này mà ủy quyền cho Kho bạc Nhà nước tổ chức phát hành trái phiếu. Ở địa phương, chủ thể phát hành trái phiếu Chính quyền địa phương là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nhằm huy động vốn cho công trình, dự án đầu tư của địa phương. Việc phát hành này có thể tiến hành dưới hình thức phát hành riêng lẻ hoặc phát hành ra công chúng.

Tóm lại, ở Việt Nam, Bộ Tài chính thông qua Kho bạc Nhà nước là chủ thể phát hành trái phiếu Chính phủ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là chủ thể phát hành trái phiếu Chính quyền địa phương.

3.2. Các doanh nghiệp

Đối với thị trường chứng khoán, các doanh nghiệp giữ vai trò, vị trí rất quan trọng, quyết định đến sự thành bại của thị trường. Các doanh nghiệp có thể tham gia với tư cách là tổ chức phát hành, cung cấp hàng hóa (các chứng khoán) cho thị trường chứng khoán (như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần). Các doanh nghiệp cũng có thể tham gia thị trường chứng khoán với tư cách các tổ chức kinh doanh, cung cấp dịch vụ chứng khoán (công ty chứng, công ty quản lý quỹ, trung tâm thanh toán và bù trừ chứng khoán, v.v..) hoặc tham gia với tư cách nhà đầu tư chứng khoán. Vì vậy, việc nghiên cứu các doanh nghiệp dưới nhiều khía cạnh trong quá trình các doanh nghiệp tham gia vào thị trường chứng khoán là hết sức cần thiết.

Các doanh nghiệp là chủ thể phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Việc thiếu vốn trong kinh doanh, sản xuất, trả lương cho công nhân, mua nguyên vật liệu để tiếp tục sản xuất, v.v., là việc thường thấy trong hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Nhưng không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có thể giải quyết vấn đề thiếu vốn bằng cách vay ngân hàng. Khi đã có thị trường chứng khoán sơ cấp, một cách đơn giản và nhanh chóng là huy động vốn trên thị trường. Phát hành cổ phiếu để mời cộng tác làm ăn, hay phát hành trái phiếu đểvay vốn là những cách phổ biến nhất. Hơn nữa, khi muốn mở rộng sản xuất, đầu tư vào trang thiết bị, máy móc, cơ sở vật chất thì doanh nghiệp thường cần đến các khoản vốn lớn và thường phải mất nhiều năm để thu hồi vốn. Trong những trường hợp như vậy, ngân hàng thường ít mặn mà trong việc cho vay. Do vậy, vay dài hạn trên thị trường bằng cách phát hành trái phiếu là cách tối ưu. Mục đích của việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp là để: Thực hiện các chương trình, dự án đầu tư của doanh nghiệp; tăng quy mô vốn hoạt động của doanh nghiệp; cơ cấu lại các khoản nợ của doanh nghiệp.

Các loại hình doanh nghiệp có thể phát hành các chứng khoán theo pháp luật ở Việt Nam:

Công ty cổ phần là một trong những chủ thể chính trong việc cung ứng hàng hóa cho thị trường chứng khoán do có quyền phát hành cả cổ phiếu và trái phiếu. Các loại chứng khoán mà công ty cổ phần có quyền phát hành là: cổ phần phổ thông (được thể hiện dưới hình thức là cổ phiếu) và cổ phần ưu đãi (được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu ưu đãi); các loại trái phiếu: trái phiếu thường, trái phiếu chuyển đổi.

Công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ có thể phát hành trái phiếu để huy động vốn. Tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt công ty trách nhiệm hữu hạn được phát hành cổ phiếu riêng lẻ để chuyển đổi thành công ty cổ phần.

Các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, tín dụng, ngân hàng chính sách của nhà nước thuộc đối tượng được cấp bảo lãnh Chính phủ sẽ được phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và loại trái phiếu này sẽ được Chính phủ bảo lãnh thanh toán.

Các doanh nghiệp thuộc đối tượng được cấp bảo lãnh Chính phủ gồm có: Thứ nhất, doanh nghiệp thực hiện chương trình, dự án được xem xét cấp bảo lãnh Chính phủ bao gồm: Chương trình, dự án đầu tư được Quốc hội hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư; Chương trình, dự án ứng dụng công nghệ cao, dự án trong lĩnh vực năng lượng, khai thác, chế biến khoáng sản hoặc sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ xuất khẩu phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; Chương trình, dự án thuộc lĩnh vực, địa bàn được Nhà nước khuyến khích đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư và các quy định của pháp luật có liên quan; Chương trình, dự án được tài trợ bằng khoản vay thương mại gắn với nguồn vốn ODA dưới dạng tín dụng hỗn hợp.

Thứ hai, Ngân hàng chính sách của Nhà nước và tổ chức tài chính, tín dụng thực hiện chương trình tín dụng có mục tiêu của Nhà nước. Các doanh nghiệp phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh là để đầu tư cho các công trình, dự án sau: Chương trình, dự án đầu tư được Quốc hội hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư, bao gồm cả phương án tái cơ cấu nợ của các chương trình, dự án này; chương trình, dự án ứng dụng công nghệ cao, dự án trong lĩnh vực năng lượng, khai thác, chế biến khoáng sản hoặc sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ xuất khẩu do Thủ tướng Chính phủ quyết định phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; chương trình, dự án thuộc lĩnh vực, địa bàn được nhà nước khuyến khích đầu tư theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; chương trình tín dụng có mục tiêu của nhà nước do Ngânhàng Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Chính sách Xã hội hoặc tổ chức tài chính, tín dụng thực hiện theo quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Các doanh nghiệp có thể phát hành các chứng khoán dưới hình thức phát hành riêng lẻ hoặc phát hành ra công chúng

3.3. Các quỹ đầu tư chứng khoán

Quỹ đầu tư luôn là những tổ chức chuyên nghiệp, hình thành bằng vốn góp của các nhà đầu tư để tiến hành đầu tư vào chứng khoán và các loại hình đầu tư khác với tất cả các khoản đầu tư đều được quản lý chuyên nghiệp, chặt chẽ bởi công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát và các cơ quan có thẩm quyền. Mục đích thành lập quỹ đầu tư là tập hợp và thu hút những nhà đầu tư nhỏ lẻ tham gia kinh doanh, đầu tư vào chứng khoán, bất động sản, v.v.. Như vậy, đặc trưng cơ bản nhất của quỹ đầu tư là quỹ vừa đóng vai trò là tổ chức phát hành bằng việc phát hành ra các chứng chỉ quỹ đầu tư (đối với quỹ đại chúng), các hợp đồng góp vốn (đối với quỹ thành viên) vừa đóng vai trò là các tổ chức đầu tư, kinh doanh chứng khoán. Tuy ở Việt Nam có hai loại hình quỹ đầu tư là quỹ thành viên và quỹ đại chúng (bao gồm quỹ đóng và quỹ mở) nhưng chỉ có quỹđại chúng mới có quyền phát hành chứng chỉ quỹ. Chứng chỉ quỹ được phát hành dưới hình thức phát hành ra công chúng.