Phương pháp tư duy so sánh tương đồng

Theo định nghĩa so sánh lớp 6, đây là biện pháp đối chiếu giữa các sự vật, sự việc, hiện tượng có nét tương đồng để tăng thêm tính gợi hình, gợi cảm và sự lôi cuốn trong diễn đạt.

“Trẻ em như búp trên cành

Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan”.

Trong câu thơ trên, “trẻ em như búp trên cành” là phép so sánh được sử dụng để nhấn mạnh sự non nớt, yếu đuối và cần được bao bọc, chăm sóc của trẻ em.

Các em đang đến với hướng dẫn khái niệm Văn 6 chương trình Ngữ Văn 6 làm quen với thuật ngữ khái niệm so sánh là gì, các kiểu và ví dụ về hình thức so sánh. Chỉ vài thông tin thôi bên dưới sẽ giúp các em lớp 6 sẽ hiểu hơn về hình thức diễn đạt quan trọng trong Tiếng Việt này.

Theo khái niệm chuẩn xác trong Sách Giáo Khoa Ngữ Văn lớp 6 tập 2 đề cập so sánh là biện pháp tu từ sử dụng nhằm đối chiếu các sự vật, sự việc này với các sự vật, sự việc khác giống nhau trong một điểm nào đó với mục đích tăng gợi hình và gợi cảm khi diễn đạt.

Ví dụ: “Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”

“Công cha” được so sánh với “núi Thái Sơn”, “nghĩa mẹ” được so sánh với “nước trong nguồn”

Biện pháp so sánh sử dụng nhằm làm nổi bật khía cạnh nào đó của sự vật hoặc sự việc cụ thể trong từng trường hợp khác nhau.

Hoặc so sánh còn giúp hình ảnh, sự vật hiện tượng trở nên sinh động hơn. Việc so sánh thường lấy cụ thể để so sánh cái không cụ thể hoặc trừu tượng. Cách này giúp người đọc, người nghe dễ dàng hình dung được sự vật, sự việc đang được nói đến.

Ngoài ra, so sánh còn giúp lời văn trở nên thú vị, bay bổng. Vì vậy được nhiều nhà văn, nhà thơ sử dụng trong tác phẩm của mình.

Trong câu sử dụng biện pháp tu từ so sánh có các dấu hiệu nhận biết đó là từ so sánh ví dụ như: như, là, giống như. Đồng thời qua nội dung bên trong đó là 2 sự vật, sự việc có điểm chung mang đi so sánh với nhau.

– Vế A [tên sự vật, con người được so sánh].

– vế B. [tên sự vật, con người được so sánh với vế A].

– Từ ngữ chỉ phương tiện so sánh.

Ví dụ: Trẻ em như búp trên cành. “Trẻ em” là vế A, từ ngữ so sánh là “như”, vế B “như búp trên cành”.

Có một số trường hợp câu nhân hóa không tuân theo cấu tạo.

– Phương diện và từ so sánh bị lược bỏ.

Ví dụ: Trường Sơn: chí lớn ông cha.

Vế A Phương diện so sánh Từ so sánh Vế B Trường Sơn Chí lớn ông cha

– Đảo vế B lên đầu kèm theo từ so sánh.

Ví dụ: Như loài kiến, con người nên cố gắng chăm chỉ.

Vế A Phương diện so sánh Từ so sánh Vế B Con người nên cố gắng chăm chỉ như loài kiến

-So sánh ngang bằng là kiểu so sánh các sự vật, sự việc, hiện tượng có sự tương đồng với nhau. Mục đích ngoài tìm sự giống nhau còn là để thể hiện sự hình ảnh hóa các bộ phận hay đặc điểm nào đó của sự vật giúp người nghe, người đọc dễ hiểu.

-Các từ so sánh ngang bằng: như, y như, tựa như, giống như, giống, là…

Ví dụ: “Trẻ em là búp trên cành”

“Anh em như thể tay chân”

“Trên trời mây trắng như bông

Ở giữa cánh đồng bông trắng như mây”

-So sánh hơn kém là loại so sánh đối chiếu sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ hơn kém để làm nổi bật cái còn lại.

-Các từ so sánh hơn kém: hơn, kém, hơn là, kém hơn, kém gì…

-Để chuyển từ so sánh ngang bằng sang so sánh hơn kém, người ta chỉ cần thêm vào trong câu các từ phủ định như “không, chưa, chẳng..” và ngược lại để chuyển từ so sánh hơn kém sang so sáng ngang bằng.

“Những trò chơi game cuốn hút tôi hơn cả những bài học trên lớp” – Từ so sánh “hơn cả”

“Ngôi nhà sàn dài hơn cả tiếng chiêng”

“Lịch trình làm việc của anh ấy dài hơn cả giấy sớ” => Thêm từ phủ định “không”, câu chuyển thành so sánh ngang bằng: “Lịch làm việc của anh ấy không dài hơn giấy sớ”.

Nhằm giúp học sinh thuận tiện hơn trong việc làm bài tập chúng tôi sẽ giới thiệu với các bạn về các kiểu so sánh thường gặp trong chương trình ngữ văn 6.

1. So sánh sự vật này với sự vật khác.

Đây là cách so sánh thông dụng nhất, là kiểu so sánh đối chiếu một sự vật này với sự vật khác dựa trên nét tương đồng.

– Cây gạo to lớn như một tháp đèn khổng lồ.

– Màn đêm tối đen như mực.

2. So sánh sự vật với con người hoặc ngược lại.

Đây là cách so sánh dựa trên những nét tương đồng về một đặc điểm của sự vật với một phẩm chất của con người. Tác dụng để làm nổi bật lên phẩm chất của con người.

– Trẻ em như búp trên cành.

– Dù ai nói ngả nói nghiêng, lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.

3. So sánh âm thanh với âm thanh

Đây là kiểu so sánh dựa trên sự giống nhau về đặc điểm của âm thanh này với đặc điểm của âm thanh kia, có tác dụng làm nổi bật sự vật được so sánh.

– Tiếng chim hót líu lo như tiếng sáo du dương.

– Sông ngòi vùng Cà Mau chằng chịt hệt như mạng nhện.

4. So sánh hoạt động với các hoạt động khác.

Đây cũng là cách so sánh thường được sử dụng với mục đích cường điệu hóa sự vật, hiện tượng, hay được dùng trong ca dao, tục ngữ.

Ví dụ: Con trâu đen chân đi như đập đất

“Cày đồng đang buổi ban trưa

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày”

Phép so sánh biện pháp tu từ cơ bản được sử dụng rất nhiều, qua hướng dẫn trên trên chắc chắn các em đã hiểu được so sánh là gì các kiểu so sánh đúng không nào ? Chúc các em học thật giỏi.

Xem thêm:

  • đặc sản đà nẵng tại tphcm
  • Kinh nghiệm du lịch đồ sơn 2 ngày 1 đêm
  • Url chính sách quyền riêng tư facebook

TRIỀU NGUYÊN
Thạc sĩ [chuyên ngành Lí luận ngôn ngữ]
[Hội Văn nghệ dân gian Thừa Thiên Huế]

TÓM TẮT

Bài viết là sự miêu tả hai nhóm so sánh tương đồng được sử dụng trong ca dao: nhóm so sánh ngang bằng và nhóm so sánh tương tự. Việc hệ thống hoá các dạng so sánh thuộc hai nhóm vừa nêu theo các mô hình so sánh không những giúp việc nhận diện vấn đề đặt ra mà còn cho thấy cái hay, cái đẹp của phương thức tu từ, cũng như sự thích ứng của nó đối với thể loại ca dao.

ABSTRACT

The article is the description of two similar comparison groups which is used in folk song: equal comparison and similar comparison groups. The systermatization of the comparison types just mentioned by the model compared, not also help everyone identifies the problem set up but also show the attractiveness, the beauty of the rhetorical methods, as well as its adaptatuon to the folk genre.

x
x x

1. Khái niệm

Các giáo trình nghiên cứu về phong cách học đều khá thống nhất về cách tu từ so sánh: “So sánh tu từ là cách công khai đối chiếu hai hay nhiều đối tượng cùng có một dấu hiệu chung [nét giống nhau] nào đấy, nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc điểm của một đối tượng” [3, 272]; “So sánh [hình ảnh] là sự đối chiếu hai đối tượng cùng có một dấu hiệu chung nào đấy nhằm biểu hiện một cách hình tượng đặc điểm của một trong hai đối tượng đó” [4, 145]; “So sánh là phương thức diễn đạt tu từ khi đem sự vật này đối chiếu với sự vật khác miễn là giữa hai sự vật có một nét tương đồng nào đó, để gợi ra hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của người đọc, người nghe” [2, 188].

Cơ sở của so sánh là sự tương đồng về thuộc tính giữa hai đối tượng A và B. Thí dụ:

Sự thật đã rõ như ban ngày

A + t + tss + B + [t]

[t: thuộc tính, nét giống nhau giữa A và B [t thường ẩn]; tss: từ so sánh] [1]

Có thể chia cách tu từ so sánh làm hai loại, là so sánh có từ ngữ so sánh, và so sánh không có từ ngữ so sánh. So sánh có từ ngữ so sánh dựa vào sự tương đồng hay dị biệt về thuộc tính mà chia làm hai loại, là so sánh tương đồng và so sánh dị biệt. Bài viết này chỉ trình bày loại so sánh có từ ngữ so sánh, dạng tương đồng, và chỉ xét trong ca dao người Việt. Tài liệu ca dao được dùng để xem xét là Kho tàng ca dao người Việt [1], sách này tập hợp 12.487 lời ca dao, từ 40 cuốn [49 tập] sách sưu tập ca dao, trong đó có 13 tập viết bằng chữ Hán, chữ Nôm [ra đời khoảng cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XX], số còn lại viết bằng chữ quốc ngữ, xuất bản trước 1975.

2. Miêu tả dạng so sánh tương đồng được sử dụng trong ca dao

Dạng so sánh tương đồng được sử dụng trong ca dao, có thể chia làm hai nhóm: nhóm so sánh ngang bằng và nhóm so sánh tương tự.

2.1. Nhóm so sánh ngang bằng

Nhóm này dùng các từ ngữ so sánh: là, tày, bằng, cũng bằng, bao nhiêu… bấy nhiêu.

2.1.1. Dùng tss là, tày

[a] Tiền là gạch, ngãi là vàng,

Muốn bán vàng mua ngãi, ngại chàng giá cao.

[b] Hồn tôi là hồn con cua,

Tám chân hai mắt, biết bò ngang ngang.

Lời ca dao có mô hình so sánh A là B, [đặc tính của B] ⇒ t: [“hồn tôi”] mạnh mẽ, đầy cá tính, không dễ bị đè nén, sai bảo.

[c] Tuy rằng áo rách tày sàng,

Đủ đóng đủ góp với làng thì thôi.

Lời ca dao có mô hình Tuy rằng P [nhưng đã] Q thì thôi, so sánh được thực hiện ở P [“áo rách tày sàng”], P = A tày B ⇒ t: thủng rất nhiều lỗ.

2.1.2. Dùng tss bằng, cho bằng

[a] Cao Li sâm đem sắc với ngưu hoàng,

Uống vô không mát dạ bằng gặp mặt nàng, nàng ơi!

[b] Ơn cha rộng thênh thênh như biển,

Nghĩa mẹ dài dằng dặc bằng sông.

Dòng sau có mô hình so sánh A t bằng B: A = “nghĩa mẹ”; t: dài dằng dặc; B = “sông”.

[c] Em về mua thuốc nhuộm răng,

Mua khăn chít lại cho bằng duyên anh.

A = “em về mua thuốc nhuộm răng, mua khăn chít lại”; B = “duyên anh”; ⇒ t: làm đẹp để được yêu.

2.1.3. Dùng tss cũng bằng – mô hình A cũng bằng B

[a] Con gái lấy phải ông già,

Cũng bằng con lợn cọp tha vào rừng.

[b] Đứng xa thấy dạng em cười,

Cũng bằng vàng chín vàng mười trao tay.

[c] Duyên mình bắt bén duyên ta,

Cũng bằng tiến sĩ đi ba lọng vàng.

Phân tích lời [a]: A = “con gái lấy phải ông già”; B = “con lợn cọp tha vào rừng”; tss: “cũng bằng”; t: [là] một sự uổng phí thấy rõ mà khó bề cứu chữa.

2.1.4. Dùng tss bao nhiêu… bấy nhiêu – mô hình: [Tạo] A, A bao nhiêu a ,… thương [sầu, nhớ,… ]… bấy nhiêu [a: danh từ, và a ∈ A]

[a] Qua cầu dừng bước trông cầu,

Cầu bao nhiêu nhịp, dạ em sầu bấy nhiêu.

[b] Sơn lâm mấy cội tương vàng,

Cành bao nhiêu lá, thương chàng bấy nhiêu.

[c] Tay cầm quyển sách bìa vàng,

Sách bao nhiêu chữ, thương nàng bấy nhiêu.

[d] Chiều chiều bước xuống ghe buôn,

Sóng bao nhiêu gợn, dạ em buồn bấy nhiêu.

Phân tích lời [a]: [Tạo] A = “Qua cầu dừng bước trông cầu” [A = “cầu”]; a = “nhịp” [“nhịp” ∈ “cầu”]; vì a được hiểu là rất nhiều, không đếm xuể, nên nỗi thương [sầu, nhớ,…] là chất ngất; t: điều lớn lao, vô hạn [[i]].

2.2. Nhóm so sánh tương tự

Nhóm này dùng các từ ngữ so sánh: như, như thể, như là, cũng như, giả như, tỉ như, tựa, khác nào, khác thể, khác như, khác gì, kém gì, ví như, như dường, thức như, cầm như, cũng thể như, cũng tỉ như,… Dưới đây, là các từ ngữ so sánh thường gặp, kèm mô hình so sánh liên quan.

2.2.1. Dùng tss như

A. Mô hình A như B

[a] Bạn ơi có nhớ ta chăng,

Ta thời nhớ bạn như trăng nhớ trời.

[b] Bàng màng một tí ngoài da,

Trong thời rỗng tuếch như hoa muống rừng.

[c] Bây giờ ta gặp nhau đây,

Như con cá cạn gặp ngày trời mưa.

Phân tích: phạm vi của mô hình A như B có thể chỉ một dòng thơ – như dòng bát của [a] và [b]; có thể gồm hai dòng – lời [c]. Với lời [c]: A = “[bây giờ] ta gặp nhau đây”; B = “con cá cạn gặp ngày trời mưa”; ⇒ t: hạnh phúc tràn trề.

B. Mô hình A như B, như B’

[a] Bây giờ em đã có chồng,

Như chim vào lồng, như cá cắn câu.

[b] Tình cờ anh gặp nàng đây,

Như cá gặp nước, như mây gặp rồng.

[c] Thiếp xa chàng như rồng nọ xa mây,

Như con chèo bẻo xa cây măng vòi.

Phân tích: Tuy mô hình được thể hiện trên cặp lục bát, nhưng ở [a] và [b] dòng lục biểu đạt A, trong lúc ở [c], dòng lục không chỉ biểu đạt A mà còn thêm như B. Với lời [a]: A = “bây giờ em đã có chồng”; B = “chim vào lồng”; B’ = “cá cắn câu”; t: bị lệ thuộc, mất tự do.

C. Mô hình A như B, như B’, như B’’ [có thể thêm như B’’’]

[a] Lấy chồng như trống cặp kèn,

Như dao cặp thớt, như đèn cặp khâu.

[b] Trông em như lửa trông lư,

Như mực trông giấy, như ngư trông mồi.

[c] Đôi ta như lửa mới nhen,

Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu.

[d] Vợ anh như trúc, như thông,

Như hoa mới nở, như rồng mới thêu.

Phân tích: các lời [a], [b], [c] theo mô hình A như B, như B’, như B’’ [thí dụ, với [a]: A = “lấy chồng”; B = “trống cặp kèn”; B’ = “dao cặp thớt”; B’’ = “đèn cặp khâu”], lời [d] thêm như B’’’ [B’’’ = “rồng mới thêu”]; t của [a]: mối hoà kết tạo ra sự đồng điệu, hợp lẽ; t của [d]: xinh đẹp, đáng yêu.

D. Mô hình A như B, [đặc tính của B] [B có thể kép]

[a] Anh chưa có vợ như chợ chưa có đình,

Trời mưa dông đôi ba hột, biết ẩn mình vô mô?

[b] Anh đã có vợ con riêng,

Như bông hoa riềng, nửa đắng nửa cay.

[c] Nghĩa nhân mỏng dánh,

Như cánh chuồn chuồn,

Khi vui nó đậu, khi buồn nó bay.

[d] Đôi ta như bấc với dầu,

Khêu ra cho rạng, kẻo sầu tương tư.

[e] Anh với em như mía với gừng,

Gừng cay mía ngọt, ngát lừng mùi thơm.

Phân tích:

– Việc thể hiện A như B của mô hình ở các lời ca dao: với các lời [a], [d], [e] là dòng đầu; với lời [b] là dòng lục và nửa đầu dòng bát; với lời [c] là hai dòng đầu. B ở các lời [d], [e] kép [thí dụ, B của [d] = “bấc” + “dầu”].

– t được suy theo [đặc tính của B], dạng khái quát hoá đặc tính này; thí dụ: t của [a]: thiếu chỗ để cậy nhờ; t của [b]: [riêng em] thật khó đặt quan hệ với anh; t của [c]: không sâu dày nên nhạt nhẽo, tuỳ tiện;…

2.2.2. Dùng tss giả như, cũng như, cũng thể như, cầm như; tỉ như, ví như; cũng tỉ như; khác thể, khác nào, khác gì; như thể, như là, như dường

A. Mô hình A giả như [cũng như, cũng thể như, ngẫm như, cầm như] B

[a] Bữa nay ta lại gặp ta,

Giả như lụa mới thêu hoa vẽ rồng.

[b] Trai cách đời vợ gặp gái trở đời chồng,

Cũng như triêng nặng qua sông gặp đò.

[c] Anh xa em ngày tháng đeo phiền,

Cũng thể như Thuý Kiều xa Kim Trọng, mười mấy niên đoạn trường.

[d] Đôi ta đã quyết thì liều,

Ngẫm như con trẻ chơi diều đứt dây.

[e] Một đêm nằm ở thuyền rồng,

Cầm như chín tháng ở trong thuyền chài.

Phân tích: giữa các từ ngữ so sánh có sự gần nghĩa, chúng đều được đặt ở vị trí đầu dòng bát, và trong một chừng mực nhất định về sai số ngữ nghĩa cho phép, thì chúng có thể thay thế cho nhau. Thử suy t: t của [a]: cuộc gặp gỡ đẹp đẽ; t của [b]: cuộc gặp gỡ tương xứng; t của [c]: nỗi đau buồn khi yêu nhau mà phải xa nhau,…

B. Mô hình A tỉ như [ví như] B

[a] Trai tơ gặp gái đương xuân,

Tỉ như trời hạn nửa chừng gặp mưa.

[b] Vắng em một bữa anh buồn,

Tỉ như con chim nhạn dưới luồng mây xanh.

[c] Thiếp xa chàng trăm người trăm tiếc,

Chàng xa thiếp vạn kẻ vạn thương;Trăm năm chiếu nỏ bén giường,

Ví như đòn gánh gãy giữa đường chàng ơi!

Phân tích: A của [a], [b] là dòng lục, của [c] là “thiếp xa chàng” [hoặc “chàng xa thiếp”]. Suy t: t của [a]: sự khát khao được đáp ứng; t của [b]: [buồn] vì nỗi trống vắng, lẻ loi; t của [c]: cái đau của việc “giữa đường gãy gánh”.

C. Mô hình A khác gì [khác nào] B

[a] Có chồng mà chẳng có con,

Khác gì hoa nở trên non một mình.

[b] Thương nhau chẳng đặng chờ nhau,

Khác chi con trẻ trèo cau đứt nài.

[c] Thân em đi lấy chồng chung,

Khác nào làm cái bung xung chịu đòn.

Phân tích: quan hệ liên tưởng giữa A và B của mô hình này sâu rộng hơn mô hình A giả như B đã trình bày; suy t: t của [a]: có cũng như không, vì không được thừa nhận; t của [b]: hết hi vọng; t của [c]: chịu cảnh đoạ đày, nhục mạ.

D. Mô hình A như thể [khác thể] B, [đặc tính của B]

[a] Em đẹp như thể ông sao,

Để anh đi lại ra vào mỏi chân.

[b] Tìm em như thể tìm chim,

Chim bay bể Bắc, đi tìm bể Đông.

[c] Thân em khác thể tai bèo,

Sóng dồi gió dập, khổ phận nghèo lắm thay!

Phân tích: mô hình này tương tự mô hình A như B, [đặc tính của B] đã trình bày, nhưng mức độ sử dụng hạn chế hơn nhiều. Có sự phân bố đều đặn: A như thể [khác thể] B thực hiện ở dòng lục; [đặc tính của B] thực hiện ở dòng bát. Suy t theo [đặc tính của B]: t của [a]: sự hấp dẫn, lôi cuốn bởi cái đẹp của em; t của [b]: chẳng biết đâu là chốn ở; t của [c]: bị vùi dập khiến phải nổi trôi, lận đận.

3. Nhận xét, kết luận

Trong các hình thức so sánh thuộc dạng so sánh tương đồng, lối so sánh sử dụng từ so sánh như phổ biến hơn cả, ngoài những lời đã dẫn, còn một số lời khác mà cả cái được so sánh lẫn cái so sánh đều tạo ấn tượng mạnh, như:

– Nếu đẹp đã có tiếng đồn,

Lọ là nhí nhảnh như trôn chích choè.

– Thương ai rồi lại nhớ ai,

Mặt buồn rười rượi như khoai mới trồng.

– Trai làng có thiếu gì đâu,

Sao em vỏng vảnh như cau cuối mùa.

Đặc biệt, là mô hình so sánh A như B, [đặc tính của B], và mô hình gần gũi A như thể [khác thể] B, [đặc tính của B]. Hai mô hình này đã tạo được nhiều lời so sánh hay đã dẫn. Cũng xuất phát từ chúng mà ta có những so sánh lạ, như:

– Thân em như thể hàng săng,

Anh nào muốn chết thì quăng mình vào!

– Con gái như thể hàng săng,

Bán thì muốn bán, biết răng chào mời.

Cái “hàng săng” [quan tài] của lời đầu có đặc tính “anh nào muốn chết thì quăng mình vào!”, phù hợp với một “thân em” có cá tính mạnh mẽ, muốn thách thức, mời gọi đám mày râu. Cái “hàng săng” của lời sau có đặc tính “bán thì muốn bán, biết răng chào mời”, không thể mời ai mua quan tài, cũng như mời ai đến cưới cô con gái của mình, dù trong lòng người làm cha mẹ rất muốn. Ta thấy, khi cùng B mà khác A, thì [đặc tính của B] tuỳ thuộc vào A tương ứng: A thế nào, đặc tính của B thế ấy. Điều này khẳng định vai trò của thuộc tính so sánh t. Đó là lí do vì sao t luôn được quan tâm khi tìm hiểu vấn đề.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật [Đồng Chủ biên], Kho tàng ca dao người Việt, hai tập, NXB Văn hoá Thông tin, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây kết hợp xuất bản, Hà Nội, 2001.

[2] Đinh Trọng Lạc [Chủ biên], Nguyễn Thái Hoà, Phong cách học tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1993.

[3] Cù Đình Tú, Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1983.

[4] Cù Đình Tú, Lê Anh Hiền, Nguyễn Thái Hoà, Võ Bình, Phong cách học tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1982.

Chú thích:

[1] Thí dụ này dẫn theo: Hoàng Kim Ngọc, “So sánh và các phương tiện ngôn ngữ biểu hiện quan hệ so sánh trong ca dao tục ngữ Việt Nam”, trong: Nhiều tác giả, Ngữ học trẻ 2001 [Kỉ yếu Hội thảo, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam tổ chức], Hội Ngôn ngữ học Việt Nam xuất bản, Hà Nội, 2001; tr. 426.

[2] Xem thêm: Triều Nguyên, “Những bài ca dao có câu cuối theo cấu trúc A bao nhiêu a,… thương [sầu, nhớ,… ] bấy nhiêu”, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 1[49], 1995; tr. 59-63.

05/02/2020 Chức năng bình luận bị tắt ở Sự GIAO THOA VĂN HÓA đầu thế kỷ XX qua trường hợp NHÓM HÀN THUYÊN [Lương Đức Thiệp, Nguyễn Đức Quỳnh,…]

Văn hóa Việt Nam hiện nay một mặt luôn giữ gìn những tinh hoa truyền thống của dân tộc, một mặt vẫn có sự tiếp biến giao lưu với văn hóa khu vực và quốc tế. Vậy sự tiếp biến đó bắt đầu từ khi nào? Nó thăng hoa vào giai đoạn nào? Lịch sử dân tộc trải qua nhiều biến cố thăng trầm, song hành với những biến cố đó là nhiều sự dịch chuyển của văn hóa, văn học, nghệ thuật. Trong đó, giai đoạn đầu thế kỷ XX từ 1930 đến 1945 có thể xem là thời kỳ có nhiều thay đổi lớn với sự du nhập của nhiều luồng tư tưởng khác nhau trong xã hội.

Phép so sánh là đối chiếu sự vật, sự việc, hiện tượng này với sự vật, sự việc, hiện tượng khác có nét tương đồng để tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.

Thư viện hỏi đáp sẽ đưa ra các ví dụ về phép so sánh trong ca dao – tục ngữ, trong thơ ca gồm:

Ví dụ phép so sánh trong ca dao – tục ngữ

Ví dụ 1: Cày đồng đang buổi ban trưa – Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.

So sánh mồ hôi như mưa = > ý nói sự vất vả của người nông dân khi làm nông.

Ví dụ 2: Công cha như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

So sánh công Cha núi ngọn núi Thái sơn, tình mẹ như nước trong nguồn.

Ví dụ so sánh trong thơ ca

Ví dụ 1: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo – Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo [ Thu điếu – Nguyễn Khuyến].

So sánh chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Quanh mạn thuyền sóng vỗ [Trích tác phẩm Thuyền và Biển – Xuân Quỳnh].

Phép so sánh biển như cô gái nhỏ.

So sánh là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật, sự việc khác có nét tương đồng đê làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.

Có thể thấy so sánh là một trong 4 biện pháp tu từ rất phổ biến trong văn học và được sử dụng rộng rãi. Chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp biện pháp tu từ này. Ví dụ:

“ Trẻ em như búp trên cành

Biết ăn ngủ biết học hành là ngoan”.

Trẻ em được so sánh như búp trên cành vì có nét tương đồng đều non, trẻ.

“Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

Công cha được so sánh với núi Thái Sơn, nghĩa mẹ được so sánh với nước trong nguồn. Công cha, nghĩa mẹ và núi Thái Sơn, nước trong nguồn có nét tương đồng là: to lớn, nhiều.

20 Tháng Chín, 2021 - by Huongyp - Leave a Comment

Trong các biện pháp tu từ được sử dụng trong môn ngữ văn ở chương trình học phổ thông thì so sánh cũng là một biện pháp được sử dụng khá thường xuyên. Phép so sánh là gì? Biện pháp so sánh là gì, cho ví dụ? Tất cả sẽ được Palada.vn giới thiệu trong bài viết dưới đây, hãy chú ý theo dõi nhé.

Video liên quan