So sánh viêm thần lên yêu sư năm 2024

Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh Thùy - Bác sĩ Nội thận - Lọc máu - Ghép thận - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.

Viêm thận bể thận cấp là nhiễm khuẩn tiết niệu thường gặp, bệnh tiến triển cấp tính và có thể gây nên các biến chứng nguy hiểm nếu không được phát hiện và xử trí kịp thời, vậy viêm thận bể thận cấp nguy hiểm như thế nào?

Viêm thận bể thận cấp là nhiễm khuẩn tiết niệu trên, bao gồm tình trạng nhiễm khuẩn cấp tính các đài thận, bể thận, niệu quản và nhu mô thận.

Vi khuẩn đến bể thận, thận và gây viêm theo 2 đường: Ngược dòng từ bàng quang lên niệu quản vào đài bể thận hoặc theo đường máu khi có nhiễm khuẩn huyết.

Nguyên nhân gây viêm thận bể thận là do vi khuẩn, chủ yếu là các vi khuẩn gram âm như E.Coli, Klebsiella, Proteus mirabilis, Enterobacter.., các vi khuẩn Gram dương ít gặp hơn như: Tụ cầu, liên cầu..

Các tình trạng thuận lợi cho viêm thận bể thận như:

  • Nhiễm khuẩn tiết niệu dưới
  • Sau phẫu thuật hệ tiết niệu
  • Tắc nghẽn đường tiết niệu do sỏi, khối u, hội chứng chỗ nối, xơ sau phúc mạc, hẹp bể thận niệu quản và có thai...
  • Có ổ viêm khu trú: viêm bàng quang, viêm tuyến tiền liệt, viêm trực tràng, viêm ruột thừa, viêm phần phụ...

Các dấu hiệu lâm sàng của bệnh:

  • Sốt cao đột ngột, rét run, thể trạng suy sụp nhanh chóng, môi khô nứt nẻ, lưỡi bẩn...
  • Đau ở vùng sườn lưng một bên hoặc cả hai bên, đau âm ỉ, có những cơn đau dữ dội lan xuống vùng bàng quang và bộ phận sinh dục ngoài.
  • Hố sườn lưng bệnh nhân có phản ứng, đau, tức
  • Hội chứng bàng quang
  • Đái buốt, đái rắt (mót đái, phải rặn liên tục), đái ra máu
  • Chán ăn, ăn không ngon, buồn nôn, nôn, bụng trướng, cơ thể mệt mỏi

Nếu điều trị muộn hoặc không đầu đủ, bệnh sẽ gây biến chứng như hoại tử nhú thận, ứ mủ thận, nhiễm khuẩn huyết, suy thận, tăng huyết áp... những biến chứng này có thể làm bệnh nhân tử vong.

So sánh viêm thần lên yêu sư năm 2024

Nguyên nhân gây viêm thận bể thận do vi khuẩn

2. Mức độ nguy hiểm của viêm thận bể thận cấp

So sánh viêm thần lên yêu sư năm 2024

Viêm thận bể thận cấp tính rất nguy hiểm

Viêm thận bể thận là một bệnh cấp tính, với các biểu hiện nhiễm trùng rầm rộ, bệnh đáp ứng khá tốt với điều trị kháng sinh, nếu được chẩn đoán và điều trị kịp thời bệnh có thể khỏi hẳn sau 10 đến 14 ngày. Nếu không được điều trị đúng, bệnh có thể gây nên các biến chứng nguy hiểm.

  • Áp xe thận và quanh thận

Khi có tình trạng áp xe việc điều trị kéo dài hơn và có thể cần phải dẫn lưu ổ áp xe.

  • Nhiễm khuẩn huyết

Là tình trạng vi khuẩn lan tràn vào trong máu, biểu hiện tình trạng nhiễm trùng toàn thân nặng, có thể gây nên tình trạng sốc nhiễm khuẩn và suy đa tạng. Nhiễm khuẩn huyết có thể nguy hiểm đến tính mạng nếu không được điều trị đúng mực

  • Suy thận cấp

Đây là biến chứng nguy hiểm của viêm thận bể thận cấp, biểu hiện bằng việc thiểu niệu hay vô niệu, xét nghiệm máu nồng độ ure/creatinin tăng rất cao. Tình trạng suy thận cấp có thể gây nên các biến chứng như tăng huyết áp cấp hay phù phổi cấp có thể nguy hiểm đến tính mạng, nếu không được điều trị đúng mực suy thận cấp có thể tiến triển thành suy thận mạn tính.

  • Hoại tử nhú thận

Tình trạng nhiễm trùng nặng viêm thận bể thận kéo dài gây hoại tử các nhú thận, làm nhú thận bong ra và theo nước tiểu gây nên tình trạng tắc nghẽn ở niệu quản hoặc niệu đạo. Gây nặng thêm tình trạng ứ mủ bể thận. Có thể gây nên suy thận cấp và các cơn đau quặn thận.

  • Viêm thận bể thận mạn, suy thận mạn tính

Viêm thận bể thận cấp tái phát nhiều lần, hoặc tình trạng suy thận cấp không được điều trị thỏa đáng sẽ dẫn đến tình trạng viêm thận bể thận mạn tính và suy thận mạn tính.

XEM THÊM:

  • Công dụng thuốc L-Stafloxin 500
  • Công dụng thuốc Levofloxacin SPM 250
  • Siêu âm có thể giúp phát hiện những bệnh gì ở tuyến tiền liệt?

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

Bệnh thận đa nang (PKD) là một rối loạn di truyền về sự hình thành nang thận gây ra sự tăng kích thước dần dần của cả hai thận, đôi khi kèm theo sự tiến triển đến suy thận. Hầu như tất cả các thể đều do đột biến gen di truyền có tính chất gia đình gây ra. Các triệu chứng và dấu hiệu bao gồm đau thắt và bụng, đái máu và tăng huyết áp. Chẩn đoán bằng CT hoặc siêu âm. Điều trị là điều trị triệu chứng trước khi có suy thận và lọc máu hoặc ghép thận sau đó.

Di truyền bệnh thận đa nang (PKD) là

  • Tính trạng trội
  • Lặn
  • Đơn lẻ (hiếm)

Trong 86 đến 96% trường hợp, ADPKD là do đột biến gen PKD1 trên nhiễm sắc thể số 16, mã hóa cho protein polycystin 1; hầu hết các trường hợp khác là do đột biến gen PKD2 trên nhiễm sắc thể số 4, mã hóa cho polycystin 2. Một vài trường hợp có tính chất gia đình không liên quan đến một trong hai locus.

Polycystin 1 có thể điều hòa sự kết dính và biệt hóa của tế bào biểu mô ống thận; polycystin 2 có thể hoạt động như một kênh ion, với các đột biến gây bài tiết dịch vào trong nang. Các đột biến trong các protein này có thể làm thay đổi chức năng của các vi nhung mao tế bào ống thận, cho phép các tế bào ống thận cảm nhận được tốc độ dòng chảy. Một giả thuyết hàng đầu đề xuất rằng sự tăng sinh và biệt hóa tế bào ống thận có liên quan đến tốc độ dòng chảy và do đó rối loạn chức năng vi nhung mao có thể dẫn đến sự chuyển đổi nang.

Vasopressin thúc đẩy phát triển tế bào và bài tiết dịch thông qua con đường AMP vòng, dẫn đến tăng kích thước và số lượng u nang trong bệnh thận đa nang.

Giai đoạn sớm của bệnh, các ống thận giãn nở và từ từ được lấp đầy bởi dịch lọc cầu thận. Cuối cùng, các ống thận tách khỏi nephron chức năng và lấp dần bởi các dịch tiết hơn là các dịch lọc, tạo thành nang. Chảy máu nang thận có thể xảy ra, gây ra đái máu. Bệnh nhân cũng có nguy cơ cao bị viêm thận bể thận Tổng quan về nhiễm trùng đường tiết niệu Nhiễm trùng đường tiết niệu có thể được chia thành nhiễm trùng đường tiết niệu cao, bao gồm thận ( viêm thận bể thận), và nhiễm trùng đường tiết niệu thấp, có liên quan đến bàng quang ( viêm... đọc thêm cấp, nhiễm trùng nang thận và (trong 20%). Cuối cùng xơ cứng mạch và xơ hóa kẽ thận tiến triển thông qua các cơ chế chưa được biết đến và thường ảnh hưởng < 10% số ống thận; tuy nhiên, suy thận Tổn thương thận cấp (AKI) Tổn thương thận cấp là sự suy giảm nhanh chức năng thận trong vài ngày tới vài tuần, gây ra sự tích tụ các sản phẩm nitơ trong máu (Azotemia) có hoặc không có giảm số lượng nước tiểu. Nguyên... đọc thêm diễn ra ở khoảng 35-45% số bệnh nhân ở độ tuổi 60.

Biểu hiện ngoài thận là phổ biến:

  • Hở van động mạch chủ là hậu quả của sự giãn đoạn gốc động mạch chủ do thay đổi thành động mạch (bao gồm phình động mạch chủ).
  • Các phình động mạch vành xuất hiện.

Triệu chứng và dấu hiệu của bệnh thận đa nang di truyền gen trội nhiễm sắc thể thường

Bệnh thận đa nang di truyền gen trội nhiễm sắc thể thường ban đầu thường không có triệu chứng; một nửa số bệnh nhân vẫn không có triệu chứng, không bao giờ tiến triển đến suy thận và không bao giờ được chẩn đoán. Hầu hết các bệnh nhân xuất hiện các triệu chứng vào cuối những năm tuổi 20 của họ.

Các triệu chứng bao gồm đau thắt lưng nhẹ, đau bụng và đau lưng dưới do nang tăng kích thước và nhiễm trùng nang. Đau cấp tính, khi nó xảy ra, thường là do xuất huyết vào u nang hoặc sỏi thoát ra ngoài Sỏi tiết niệu Sỏi tiết niệu là những phân tử rắn trong hệ tiết niệu. Chúng có thể gây đau, buồn nôn, nôn ói, đái máu và có thể gây sốt, rét run vì nhiễm trùng thứ phát. Chẩn đoán dựa trên chẩn đoán hình ảnh... đọc thêm . Sốt thường gặp ở viêm thận bể thận Tổng quan về nhiễm trùng đường tiết niệu Nhiễm trùng đường tiết niệu có thể được chia thành nhiễm trùng đường tiết niệu cao, bao gồm thận ( viêm thận bể thận), và nhiễm trùng đường tiết niệu thấp, có liên quan đến bàng quang ( viêm... đọc thêm cấp và vỡ các nang vào khoang sau phúc mạc có thể gây sốt kéo dài hàng tuần. Nang gan U nang gan Các nang độc lập thường được phát hiện ngẫu nhiên trên siêu âm hoặc CT bụng ( 1). Các nang này thường không có triệu chứng và không có ý nghĩa trên lâm sàng. Gan đa nang bẩm sinh hiếm gặp và... đọc thêm có thể gây đau bụng vùng hạ sườn phải nếu chúng tăng kích thước hoặc bị nhiễm trùng.

Các triệu chứng không đặc hiệu bao gồm đái máu Đái máu đơn độc Đái máu là tình trạng có hồng cầu (RBCs) trong nước tiểu, đặc biệt > 3 tế bào hồng cầu trên mỗi vi trường có độ phóng đại cao ở mẫu nước tiểu xét nghiệm. Nước tiểu có thể có màu đỏ, màu máu... đọc thêm và tăng huyết áp Tăng huyết áp Tăng huyết áp là tình trạng tăng liên tục của huyết áp tâm thu lúc nghỉ (≥ 130 mmHg) hoặc huyết áp tâm trương lúc nghỉ (≥ 80 mm Hg), hoặc cả hai. Tăng huyết áp mà không có nguyên nhân rõ ràng... đọc thêm

So sánh viêm thần lên yêu sư năm 2024
(gặp ở khoảng 40 đến 50%) và ở 20% bệnh nhân, protein niệu ở dưới ngưỡng thận hư (< 3,5g/24 giờ ở người lớn). Thiếu máu ít phổ biến hơn so với các thể khác của bệnh thận mạn Bệnh thận mạn Bệnh thận mạn (CKD) là sự suy giảm chức năng thận tiến triển, kéo dài. Các triệu chứng tiến triển chậm và trong các giai đoạn tiến triển có các triệu chứng bao gồm chán ăn, buồn nôn, nôn ói... đọc thêm
So sánh viêm thần lên yêu sư năm 2024
, có lẽ vì sự tổng hợp erythropoietin được bảo tồn. Trong giai đoạn bệnh tiến triển, hai thận có thể trở nên rất to và có thể sờ thây, gây tức nặng ở vùng bụng trên và thắt lưng.

  • Siêu âm
  • Đôi khi CT hoặc MRI hoặc xét nghiệm di truyền

Chẩn đoán bệnh thận đa nang được nghĩ tới ở bệnh nhân có những dấu hiệu sau đây:

  • Tiền sử gia định bị bệnh thận đa nang
  • Các triệu chứng hoặc dấu hiệu điển hình
  • Các nang được phát hiện tình cờ trên chẩn đoán hình ảnh

Bệnh nhân nên được tư vấn trước khi làm các xét nghiệm chẩn đoán, đặc biệt nếu họ không có triệu chứng. Ví dụ, nhiều tác giả khuyến cáo không nên chỉ định xét nghiệm ở những bệnh nhân trẻ không có triệu chứng vì không có điều trị làm thay đổi được bệnh có hiệu quả ở tuổi này và chẩn đoán có những nguy cơ ảnh hưởng không tốt đối với tinh thần và khả năng nhận được bảo hiểm nhân thọ với các điều kiện thuận lợi.

Chẩn đoán thường dựa vào chẩn đoán hình ảnh, cho thấy các nang thận to nhỏ không đều trải khắp hai thận, chúng thường tăng kích thước và có bề ngoài lởm chởm do các nang thận đã thay thế mô thận chức năng. Những thay đổi này tiến triển theo tuổi và thường ít xuất hiện hoặc ít rõ ràng ở những bệnh nhân trẻ tuổi hơn.

Siêu âm thường được chỉ định đầu tiên. Đối với bệnh nhân có tiền sử gia đình mắc ADPKD, tiêu chuẩn siêu âm (dựa trên tuổi và số lượng nang thận) được sử dụng để chẩn đoán hoặc loại trừ ADPKD. Tiêu chuẩn chẩn đoán hình ảnh không được thiết lập ở những bệnh nhân không có tiền sử bị bệnh hoặc không rõ tiền sử bị bệnh. Chụp CT hoặc chụp MRI thường được thực hiện sau khi xác định chẩn đoán ADPKD. Chụp CT và chụp MRI nhạy hơn siêu âm trong việc phát hiện u nang và có thể hữu ích trong các trường hợp nghi ngờ và để đo thể tích nang và thể tích thận, có thể có ý nghĩa tiên lượng.

Xét nghiệm nước tiểu phát hiện protein niệu nhẹ, đái máu đại thể và vi thể. Đái máu đại thể có thể là do sỏi Sỏi tiết niệu Sỏi tiết niệu là những phân tử rắn trong hệ tiết niệu. Chúng có thể gây đau, buồn nôn, nôn ói, đái máu và có thể gây sốt, rét run vì nhiễm trùng thứ phát. Chẩn đoán dựa trên chẩn đoán hình ảnh... đọc thêm thận di chuyển hoặc chảy máu từ nang thận vỡ. Đái ra mủ khá phổ biến ngay cả khi không có nhiễm khuẩn; do đó việc chẩn đoán nhiễm khuẩn nên dựa trên kết quả nuôi cấy và dấu hiệu lâm sàng (ví dụ như tiểu khó, sốt, đau thắt lưng) cũng như xét nghiệm nước tiểu. Ban đầu, nitơ urê máu (BUN) và creatinine bình thường hoặc chỉ tăng nhẹ, nhưng các chất này tăng dần, đặc biệt là khi có tăng huyết áp. Hiếm khi, công thức máu có tình trạng đa hồng cầu.

Xét nghiệm di truyền đối với đột biến PKD hiện đang được thực hiện cho bất kỳ trường hợp nào sau đây:

  • Bệnh nhân nghi ngờ BTĐN và không có tiền sử gia đình bị bệnh.
  • Bệnh nhân chưa đủ chẩn đoán bệnh trên chẩn đoán hình ảnh.
  • Bệnh nhân trẻ tuổi (như < 30 tuổi, trong đó kết quả chẩn đoán hình ảnh thường không đủ để chẩn đoán xác định) ở người cần phải được chẩn đoán (ví dụ, một người có nguyện vọng cho thận)

Tư vấn về di truyền được khuyến cáo đối với thân nhân thế hệ thứ 1 của bệnh nhân có ADPKD.

  • Kiểm soát các biến chứng (ví dụ, tăng huyết áp, nhiễm trùng, suy thận)
  • Các biện pháp hỗ trợ
  • Đối kháng hoặc ức chế vasopressin

Các biện pháp hỗ trợ bao gồm tăng lượng dịch (đặc biệt là nước) để ức chế giải phóng vasopressin, ngay cả khi chỉ một phần, trên bệnh nhân có khả năng bài tiết chất tải một cách an toàn.

Tolvaptan, một thuốc đối kháng thụ thể vasopressin 2, là một loại thuốc có thể có lợi cho bệnh nhân ADPKD ( ). Tolvaptan dường như làm chậm sự gia tăng kích thước thận và sự suy giảm chức năng thận, nhưng nó có thể gây ra những tác dụng không mong muốn thông qua cơ chế bài tiết nước tiểu tự do (như khát, chứng cuồng uống, đa niệu) có thể làm cho sự tuân thủ của bệnh nhân trở nên khó khăn. Ngoài ra, tolvaptan đã được báo cáo gây suy gan nặng và dữ liệu về kết quả lâu dài vẫn chưa đủ để khẳng định cái nào cao hơn ở cán cân lợi ích/nguy cơ. Tolvaptan có thể đặc biệt có lợi cho những bệnh nhân có nguy cơ cao tiến triển nhanh bệnh thận. Tham vấn chuyên gia được khuyến cáo trước khi bắt đầu dùng tolvaptan. Tolvaptan chưa được nghiên cứu ở trẻ em và không được khuyên nghị cho những người < 18 tuổi.

  • 1. Torres VE, Chapman AB, Devuyst O: Tolvaptan in patients with autosomal dominant polycystic kidney disease. N Engl J Med 367(25):2407-2418, 2012. doi: 10.1056/NEJMoa1205511
  • 2. Torres VE, Chapman AB, Devuyst O: Tolvaptan in later-stage autosomal dominant polycystic kidney disease. N Engl J Med 16;377(20):1930-1942, 2017. doi: 10.1056/NEJMoa1710030
  • 3. Cadnapaphornchai MA, George DM, McFann K, et al: Effect of pravastatin on total kidney volume, left ventricular mass index, and microalbuminuria in pediatric autosomal dominant polycystic kidney disease. Clin J Am Soc Nephrol 9(5):889-896, 2014.
  • Chẩn đoán bệnh khi còn trẻ
  • Nam giới
  • Kiểu gen PKD1
  • Thận to và tăng nhanh chóng kích thước
  • Đái máu đại thể
  • Chủng tộc người da đen
  • Tăng protein niệu

ADPKD không làm tăng nguy cơ ung thư thận, nhưng nếu bệnh nhân ADPKD bị ung thư thận, thì thường bị cả hai bên thận. Ung thư thận hiếm khi gây tử vong. Bệnh nhân thường bị tử vong vì bệnh tim (đôi khi là bệnh van tim), nhiễm khuẩn lan tỏa hoặc vỡ phình mạch não.

  • 2. Chonchol M, Gitomer B, Isakova T, et al: Fibroblast growth factor 23 and kidney disease progression in autosomal dominant polycystic kidney disease. Clin J Am Soc Nephrol 12(9):1461-1469, 2017. doi: 10.2215/CJN.12821216
  • Bệnh thận đa nang di truyền gen trội nhiễm sắc thể thường gặp ở khoảng 1/1000 người.
  • Khoảng một nửa số bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng, nhưng ở những người khác có thể có triệu chứng đau lưng hoặc đau bụng, đái máu và/hoặc tăng huyết áp tiến triển dần dần, thường bắt đầu trước 30 tuổi; 35-45% mắc bệnh suy thận ở tuổi 60.
  • Các biểu hiện ngoài thận là phổ biến và gồm phình động mạch não và động mạch vành, bệnh van tim, và bệnh lý nang gan, nang tụy và nang ruột.
  • Chẩn đoán PKD dựa trên các nghiên cứu chẩn đoán hình ảnh và các dấu hiệu lâm sàng, dành xét nghiệm di truyền cho những bệnh nhân không có tiền sử gia đình hoặc có kết quả chẩn đoán hình ảnh không thuyết phục, hoặc ở những bệnh nhân trẻ tuổi mà kết quả có thể ảnh hưởng đến khả năng đủ điều kiện hiến thận. Ý kiến chuyên gia được khuyến nghị trước khi thực hiện xét nghiệm di truyền do nhiều tác động khác nhau.
  • Không sàng lọc thường quy ADPKD ở những bệnh nhân không có triệu chứng hoặc sàng lọc thường quy phình mạch não ở những bệnh nhân ADPKD không có triệu chứng.
  • Sắp xếp tư vấn di truyền cho thân nhân thế hệ thứ 1 của bệnh nhân có ADPKD.

Chỉ định thuốc ức chế men chuyển hoặc thuốc chẹn thụ thể angiotensin điều trị tăng huyết áp và giúp ngăn ngừa hình thành sẹo thận và rối loạn chức năng thận; điều trị các biến chứng khác khi chúng xuất hiện, và xem xét sử dụng tolvaptan.