Sự khác nhau về mối quan hệ giữa sản xuất và dịch vụ

Điểm khác nhau về mối quan hệ trong sản xuất và dịch vụ:

06/11/2020 155

Câu hỏi Đáp án và lời giải
Câu Hỏi:
Điểm khác nhau về mối quan hệ trong sản xuất và dịch vụ:
A. Sản xuất có mối quan hệ trực tiếp còn dịch vụ có mối quan hệ gián tiếp
B. Cả hai điều có mối quan hệ gián tiếp
C. Trong dịch vụ và sản xuất đều có cả hai mối quan hệ trực tiếp và gián tiếp
D. Dịch vụ có mối quan hệ trực tiếp còn sản xuất có mối quan hệ gián tiếp
Câu hỏi trong đề: Trắc nghiệm Quản trị sản xuất đề số 1 (Có đáp án)
Đáp án và lời giải
đáp án đúng: D

Điền Chính Quốc (Tổng hợp)

Báo đáp án sai Facebook twitter

Kết quả

Phân biệt giữa hoạt động sản xuất và hoạt động dịch vụ:

Những năm gần đây, quản trị tác nghiệp được sử dụng khá phổ biến trong các doanh nghiệp. Những khái niệm và những kỹ thuật được sử dụng trong quản trị sản xuất trong thế giới công nghiệp đã ngày càng được sử dụng rât thành công trong các doanh nghiệp dịch vụ. Đó là khái niệm được dùng để phản ánh chung cho cả hai loại quá trình là quá trình sản xuất và quá trình dịch vụ. Lý do giải thích cho xu hướng mới đó là cả hai loại quá trình này đều có những chức năng chung như hoạch định , thiết kế, tổ chức, kiểm tra hệ thông sản xuất hoặc dịch vụ. Bất kỳ hoạt động nào của sản xuât hay dịch vụ đều cần thực hiện những chức năng trên. Hơn nữa, ngày nay các doanh nghiệp thường tham gia kinh doanh trên nhiều lĩnh vực khác nhau bao gồm cả hoạt động sản xuất và hoạt động cung cấp dịch vụ. Xu hướng sử dụng khái niệm quản trị tác nghiệp bao trùm được cả hai loại hoạt động trên trong doanh nghiệp, cho phép doanh nghiệp xây dựng được nhưng chiến lực phat triển thích hợp với cả sản xuât và dịch vụ. Ngoài ra cung còn cần tính đến xu hướng dịch chuyển cơ cầu kinh tế của các nước trong thời đại ngày nay, đó là khi trình độ kinh tế phát triển càng cao thì vai trò và tỷ trọng của khu vực dịch vụ càng tăng. Đó cũng là lý do các doanh ngiệp càng ngày càng quan tâm tới quá trình dịch vụ và quản trị nó.

Tuy có những chức năng chung và xu hướng vận dụng những khái niệm, phương pháp quản trị chung nhưng do đặc điểm của quá trình này có những net đặc thù cần phải nghiên cứu và vận dụng thỏa đáng. Những điểm khác biệt giữa quá trình sản xuât và quá trình cung cấp dịch vụ thương bao gồm:

- Đặc điểm đầu vào và đầu ra;

- Mối quan hệ của doanh nghiệp với khách hàng;

- Sự tham gia của khách hàng trong quá trình biến đổi;

- Thời gian từ khi sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ đến khi tiêu dùng;

- Khả năng đo lường, đánh giá năng suất, chất lượng.

Bảng 1.4.Sự khác biệt giữa hoạt động sản xuất và dịch vụ

Sự khác nhau về mối quan hệ giữa sản xuất và dịch vụ

Những đặc trưng trên đòi hỏi khi thiêt kế, hoạch định và quản trị hệ thống sản xuât/ tác nghiệp của mỗi doanh nghệ cần phải nghiên cứu và giải quyết và tìm ra phương pháp quản trị thích hợp và hiệu quả.

Giáo trình Quản trị tác nghiệp

TS.Trương Đức Lực – THS. Nguyễn Đình Trung( Đồng chủ biên)

Quantri.vn biên tập

Mục lục

  • 1 Sản xuất là một nguồn gốc của phúc lợi kinh tế
    • 1.1 Các bên liên quan trong quá trình sản xuất
    • 1.2 Các quy trình chính của một doanh nghiệp sản xuất
    • 1.3 Hiệu suất và sự tăng trưởng của sản xuất
    • 1.4 Thu nhập tuyệt đối và thu nhập trung bình
  • 2 Các mô hình sản xuất
    • 2.1 Mô hình thu nhập sản xuất
    • 2.2 Mô hình phân tích sản xuất
    • 2.3 Hạch toán và giải thích kết quả
  • 3 Các hàm mục tiêu
    • 3.1 Quy trình lập hàm mục tiêu
    • 3.2 Cách tiếp cận kép trong việc lập hàm mục tiêu
  • 4 Tham khảo
  • 5 Xem thêm
  • 6 Liên kết ngoài

Sản xuất là một nguồn gốc của phúc lợi kinh tếSửa đổi

Theo nguyên lý thì có hai hoạt động chính trong một nền kinh tế, đó là sản xuất và tiêu dùng. Tương tự, hai chủ thể chính tương ứng là người sản xuất và người tiêu dùng. Phúc lợi được tạo ra từ việc sản xuất hiệu quả và từ việc tương tác giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Trong mối tương tác đó, người tiêu dùng đóng hai vai trò, cả hai đều tạo ra phúc lợi. Người tiêu dùng vừa có thể là khách hàng của người sản xuất, lại vừa có thể là người cung cấp cho người sản xuất. Phúc lợi của khách hàng có được từ hàng hóa mà họ mua và phúc lợi của người cung cấp chính là thu nhập họ nhận được từ việc cung cấp đầu vào sản xuất cho người sản xuất.

Các bên liên quan trong quá trình sản xuấtSửa đổi

Interactive contributions of a company’s stakeholders (Saari, 2011,4)

Các bên liên quan trong quá trình sản xuất có thể là cá nhân, tập thể hoặc tổ chức có hứng thú với một doanh nghiệp sản xuất. Phúc lợi kinh tế bắt nguồn từ việc sản xuất hiệu quả và được phân bổ thông qua sự tương tác giữa các bên tham gia vào doanh nghiệp. Các bên tham gia vào doanh nghiệp là các chủ thể kinh tế có mối quan tâm đối với doanh nghiệp dựa. Dựa trên sự tương đồng này của họ, các bên tham gia có thể được phân thành ba nhóm sau đây để phân biệt mối quan tâm của họ và mối quan hệ chung:

  • Khách hàng,
  • Người cung cấp,
  • Người sản xuất.

Mối quan tâm của các bên liên quan cũng như mối quan hệ của họ đối với doanh nghiệp được mô tả ngắn gọn như hình vẽ bên. Mục đích của chúng ta là thiết lập một nền tảng cơ bản để có thể đi vào phân tích sâu hơn.

Khách hàng

Khách hàng của một doanh nghiệp có thể là khách hàng điển hình, người sản xuất từ các thị trường khác hay người sản xuất từ khu vực công. Mỗi người trong số họ đều có hàm sản xuất cá nhân riêng. Bởi vì tính chất cạnh tranh, tỷ lệ giá cả - chất lượng của các mặt hàng có xu hướng được cải thiện và mang lại lợi ích cho các khách hàng. Khách hàng có thể mua được nhiều hàng hơn, có chất lượng tốt hơn với giá ngày càng rẻ hơn. Ở khu vực công cộng và hộ gia đình, điều này có nghĩa là nhiều nhu cầu được thỏa mãn với mức giá ngày càng giảm. Vì lý do này, năng suất của các khách hàng sẽ tăng lên theo thời gian, dù cho mức lương của họ có thể vẫn không đổi.

Người cung cấp

Người cung cấp của doanh nghiệp có thể là người sản xuất nguyên liệu, năng lượng, người cung cấp vốn, dịch vụ điển hình. Tương tự, họ đều có hàm sản xuất cá nhân riêng của mình. Sự thay đổi trong mức giá và chất lượng của các mặt hàng có tác động lên hàm sản xuất của cả hai chủ thể kinh tế (doanh nghiệp và người cung cấp). Do vậy, chúng ta có thể kết luận rằng hàm sản xuất của doanh nghiệp và người cung cấp trong trạng thái thay đổi liên tục.

Đầu vào hay nguồn nguyên liệu được dùng trong quá trình sản xuất được các nhà kinh tế học gọi là các yếu tố sản xuất. Chúng thường được chia thành bốn nhóm sau:

  • Nguyên liệu thô
  • Lao động
  • Tư liệu sản xuất
  • Đất đai

Trong dài hạn, tất cả các yếu tố trên đều có thể điều chỉnh được bởi người quản lý. Tuy nhiên, trong ngắn hạn thì phải có ít nhất một yếu tố sản xuất phải được cố định, theo như định nghĩa của thuật ngữ "ngắn hạn" trong kinh tế học.

Một yếu tố cố định của sản xuất là yếu tố mà số lượng của nó không dễ dàng thay đổi được, ví dụ như những phần thiết yếu trong máy móc, không gian nhà máy, đội ngũ cán bộ quản lý chủ chốt…

Một yếu tố biến đổi của sản xuất là yếu tố mà tỷ lệ sử dụng của nó có thể dễ dàng thay đổi được, ví dụ như lượng điện tiêu thụ, dịch vụ vận tải và hầu hết các nguyên liệu thô đầu vào. Trong ngắn hạn, quy mô hoạt động của doanh nghiệp sẽ quyết định sản lượng tối đa có thể được sản xuất ra. Tuy nhiên, trong dài hạn thì lại không có giới hạn nào về quy mô.

Nhóm người sản xuất

Những người tham gia vào sản xuất (lực lượng lao động, chủ sở hữu, xã hội) sẽ có được thu nhập từ quá trình này. Những người kể trên ở đây được gọi là các nhóm người sản xuất, hay nói một cách ngắn gọn hơn là những người sản xuất. Các nhóm người sản xuất có chung mối quan tâm về việc tối đa hóa thu nhập của họ. Thu nhập của họ sẽ được tăng lên khi có sự tăng trưởng và phát triển trong quá trình sản xuất.

Phúc lợi thu được từ việc tiêu dùng hàng hóa bắt nguồn từ mối quan hệ giữa giá cả và chất lượng của các loại mặt hàng. Nhờ có sự cạnh tranh và phát triển trên thị trường mà mối quan hệ giữa giá cả và chất lượng của hàng hóa có xu hướng ngày càng được cải thiện, thông thường sẽ là sự gia tăng về mặt chất lượng và sự giảm xuống về mặt giá cả của hàng hóa. Sự phát triển này có ảnh hưởng tích cực lên hàm sản xuất của các khách hàng, do vậy nhu cầu của khách hàng được thỏa mãn ngày càng nhiều hơn với mức giá ngày càng rẻ hơn. Cách thức tạo ra phúc lợi này chỉ có thể được tính toán một cách không toàn bộ dựa trên dữ liệu sản xuất. Nhóm người sản xuất kiếm được thu nhập từ những yếu tố đầu vào mà họ cung cấp cho quá trình sản xuất. Khi quá trình sản xuất phát triển và trở nên hiệu quả hơn, thu nhập của họ cũng có xu hướng tăng lên. Trong sản xuất, điều này làm tăng thêm khả năng chi trả lương, thuế... Sự tăng trưởng của quá trình sản xuất và sự cải thiện về mặt năng suất tạo ra thêm thu nhập cho nhóm người sản xuất. Nói một cách tương tự, thu nhập cao có được là nhờ sự cải thiện trong chất lượng của quá trình sản xuất. Cách thức tạo ra phúc lợi này – như đã đề cập ở trên – có thể được tính toán một cách đáng tin cậy dựa trên dữ liệu sản xuất.

Các quy trình chính của một doanh nghiệp sản xuấtSửa đổi

Một quy trình sản xuất có thể được chia nhỏ thành nhiều quy trình con theo nhiều cách khác nhau; nhưng 5 quy trình con dưới đây được coi là quy trình chính, mỗi quy trình đều có nhân tố chủ chốt, lý thuyết, mục tiêu và logic của riêng nó. Điều quan trọng là phải xem xét từng quy trình một cách riêng rẽ; nhưng như là một phần của tổng thể, để có thể đo lường và hiểu rõ chúng. Các quy trình chính của một doanh nghiệp bao gồm:

  • Quy trình thực tế
  • Quy trình phân phối thu nhập
  • Quy trình sản xuất
  • Quy trình tiền tệ
  • Quy trình giá trị thị trường
Main processes of a company

Sản phẩm được tao ra trong quy trình thực và thu nhập từ sản phẩm được phân phối trong quy trình phân phối thu nhập. Hai quy trình cùng nhau tạo nên quy trình sản xuất. Quy trình sản xuất và các quy trình con của nó diễn ra một cách đồng thời, và chỉ có quy trình sản xuất mới xác định và đo lường được bằng phương pháp kế toán truyền thống. Quy trình thực tế và quy trình phân phối thu nhập có thể được xác định và đo lường bằng các tính toán khác, và đó là lý do vì sao chúng cần phải được phân tích một cách riêng rẽ để hiểu được logic của sản xuất.

Quy trình thực tế tạo ra sản phẩm đầu ra từ đầu vào, và nó có thể được mô tả như là quy trình sản xuất. Nó đề cập đến một chuỗi các hoạt động, trong đó các đầu vào với chất lượng và số lượng khác nhau được kết hợp lại để tạo thành các sản phẩm cũng với chất lượng và số lượng khác nhau. Sản phẩm có thể là hàng hóa vật chất, dịch vụ phi vật chất, hoặc có thể là sự kết hợp của cả hai. Các đặc điểm tạo thành sản phẩm của người sản xuất bao hàm giá trị thặng dư cho người tiêu dùng. Dựa trên cơ chế giá cả, giá trị thặng dư này được chia sẻ bởi cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng trên thị trường. Đây là cơ chế mà qua đó người sản xuất và người tiêu dùng tạo ra giá trị thặng dư. Điều đáng chú ý là giá trị thặng dư của khách hàng không thể đo lường được bằng bất kì dữ liệu sản xuất nào. Tuy nhiên giá trị thặng dư của người sản xuất lại có thể đo lường được, thể hiện qua giá trị danh nghĩa và giá trị thực tế. Giá trị thực tế đối với người sản xuất chính là sản phẩm từ quá trình thực, thu nhập và năng suất.

Khái niệm "quy trình thực tế" với ý nghĩa cơ cấu định lượng cua quá trình sản xuất được lần đầu tiên giới thiệu trong kế toán quản trị của Phần Lan vào những năm 1960. Kể từ đó, nó đã trở thành hòn đá tảng trong lý thuyết kế toán quản trị của Phần Lan. (Riistama và cộng sự 1971).

Quy trình phân phối thu nhập đề cập đến một chuỗi các hoạt động, trong đó mức giá của các đầu ra và đầu vào có chất-lượng-không-đổi thay đổi dẫn đến sự thay đổi trong phân phối thu nhập giữa các bên tham gia vào quá trình trao đổi. Cường độ của sự thay đổi trong phân phối thu nhập trực tiếp tỷ lệ thuận với sự thay đổi trong mức giá và chất lượng của các đầu vào cũng như đầu ra. Năng suất thu được cũng được phân bổ, ví dụ, đặt mức giá thấp hơn cho khash hàng và trả lương cao hơn cho đội ngũ nhân viên.

Quy trình sản xuất bao gồm bao gồm quy trình thực tế và quy trình phân phối thu nhập. Tiêu chí và kết quả của sự thành công của chủ sở hữu chính là khả năng tạo lợi nhuận. Các yếu tố doanh thu và chi phí làm nên khả năng tạo lợi nhuận của doanh nghiệp. Chúng khác với các yếu tố của quy trình thực tế, trong khi các yếu tố của khả năng tạo lợi nhuận được cho sẵn tại mức giá danh nghĩa thì các yếu tố của quá trình thực được cho tại mức giá cố định theo từng thời kì.

Quy trình tiền tệ đề cập đến các vấn đề liên quan đến việc tài trợ cho quá trình kinh doanh. Quy trình giá trị thị trường đề cập đến chuỗi các hoạt động mà trong đó các nhà đầu tư là người quyết định giá trị thị trường của doanh nghiệp trên các thị trường đầu tư.

Hiệu suất và sự tăng trưởng của sản xuấtSửa đổi

Sự tăng trưởng của sản xuất thường được định nghĩa như là sự gia tăng sản lượng đầu ra của quá trình sản xuất. Nó thường được biểu hiện như là tỷ lệ tăng trưởng, mô tả sự tăng trưởng của quá trình sản lượng sản xuất thực. Sản lượng thực là giá trị thực tế của các sản phẩm được tạo ra trong quy trình sản xuất và khi chúng ta lấy sản lượng thực tế trừ đi nguồn đầu vào thực tế thì ta có được thu nhập thực tế. Sản lượng thực tế và thu nhập thực tế được tạo ra quy trình sản xuất thực tế sử dụng nguồn đầu vào thực tế.

Quy trình thực tế có thể được mô tả thông qua hàm sản xuất. Hàm sản xuất là một đồ thị hình học hoặc một công thức toán học thể hiện mối quan hệ giữa đầu vào được sử dụng trong quá trình sản xuất và đầu ra thu được. Hàm sản xuất là một cách mô tả đơn giản của cơ chế của việc tạo ra thu nhập từ quy trình sản xuất. Nó bao gồm hai thành phần, đó là sự thay đổi trong đầu vào sản xuất và sự thay đổi trong năng suất.[3]

Components of economic growth

Hình vẽ bên mô tả quá trình tạo ra thu nhập (được phóng đại lên để cho rõ ràng). Giá trị T2 (giá trị tại thời điểm 2) cho biết sự tăng trưởng của đầu vào so với giá trị T1 (giá trị tại thời điểm 1). Mỗi thời điểm đều có đồ thị hàm sản xuất riêng của nó (các đường thẳng). Sản lượng đầu ra được đo tại thời điểm 2 lớn hơn sản lượng tại thời điểm một trong cả hai thành tố của sự tăng trưởng: sự gia tăng của đầu vào và sự gia tăng của năng suất. Một phần của sự tăng trưởng xuất phát từ sự gia tăng của đầu vào được thể hiện trên đường số 1, và nó không làm thay đổi mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra. Phần còn lại của sự tăng trưởng xuất phát từ sự gia tăng của năng suất được thể hiện trên đường số 2, có độ dốc lơn hơn so với đường 1. Do đó, năng suất được tăng lên phản ánh sản lượng đầu ra lớn hơn trên mỗi đơn vị đầu vào.

Sự gia tăng của sản lượng đầu ra không nói lên điều gì về hiệu suất của quá trình sản xuất. Hiệu suất của quá trình sản xuất đo lường khả năng tạo ra thu nhập của nó. Bởi vì thu nhập từ sản xuất được tạo ra từ quy trình thực tế, nên ta có thể gọi nó là thu nhập thực tế. Tương tự, bởi vì hàm sản xuất biểu diễn quy trình thực tế, nên ta còn có thể gọi nó là "thu nhập được tạo ra từ hàm sản xuất".

Quá trình tạo ra thu nhập thực tế đi theo logic của hàm sản xuất. Hai thành phần còn có thể được phân biệt trong sự thay đổi thu nhập: thay đổi thu nhập bắt nguồn từ thay đổi khối lượng sản xuất và thay đổi thu nhập bắt nguồn từ thay đổi năng suất. Phần gia tăng thu nhập bắt nguồn từ gia tăng khối lượng sản xuất được xác định bằng cách di chuyển (move) dọc đồ thị hàm sản xuất, còn phần gia tăng thu nhập bắt nguồn từ gia tăng năng suất được xác định bằng cách dịch chuyển (shift) đồ thị hàm sản xuất. Sự thay đổi của thu nhập thực tế như mô tả trên được thể hiện bằng việc di chuyển từ điểm 1 đến điểm 2 trên đồ thị hàm sản xuất. Nếu chúng ta muốn tối đa hóa hiệu suất quá trình sản xuất thì cần phải tối đa hóa phần gia tăng thu nhập được tạo ra bởi hàm sản xuất.

Nguồn gốc của sự gia tăng về năng suất và khối lượng sản xuất được giải thích như sau. Tăng trưởng năng suất được xem như là chỉ số kinh tế quan trọng của sự đổi mới. Việc giới thiệu thành công một sản phẩm mới, hay một quy trình, cấu trúc tổ chức, hệ thống và mô hình doanh nghiệp mới tạo ra sự gia tăng sản lượng đầu ra vượt quá sự gia tăng khối lượng sản xuất. Điều này dẫn đến sự tăng trưởng về năng suất hay sản lượng trên mỗi đơn vị đầu vào. Sự tăng thêm về thu nhập còn có thể diễn ra bằng việc sao chép các công nghệ có sẵn mà không cần phải đổi mới công nghệ. Chỉ với sự sao chép mà không cần đổi mới công nghệ, sản lượng đầu ra sẽ tăng lên tương ứng với đầu vào (Jorgenson và cộng sự 2014,2). Đây là trường hợp gia tăng thu nhập thông qua gia tăng khối lượng sản xuất.

Jorgenson và cộng sự (2014,2) đưa ra một ví dụ thực nghiệm. Họ chỉ ra rằng ưu thế lơn của sự tăng trưởng kinh tế ở Mỹ năm 1947 liên quan đến việc sao chép các công nghệ có sẵn thông qua việc đầu tư vào các trang thiết bị, cơ sở, các phần mềm cũng như sự gia tăng về lực lượng lao động. Hơn thế, họ còn chỉ ra rằng sự đổi mới công nghệ chỉ chiếm 20% trong sự tăng trưởng kinh tế của Mỹ.

Trong trường hợp chỉ có một quá trình sản xuất (được mô tả ở trên), sản lượng đầu ra được xem như là giá trị kinh tế của hàng hóa, dịch vụ được sản xuất ra. Khi chúng ta muốn nghiên cứu một quá trình trong nhiều quá trình sản xuất, chúng ta phải tổng hợp giá trị gia tăng được tạo ra từ quá trình sản xuất đơn đó. Điều này được thực hiện để tránh việc hạch toán kép các đầu vào trung gian. Giá trị gia tăng thu được bằng cách lấy sản lượng đầu ra trừ đi các đầu vào trung gian. Phương pháp tính giá trị gia tăng phổ biến và hay được sử dụng nhất đấy là GDP (tổng sản phẩm quốc nội). Nó được sử dụng rộng rãi như là một thước đo của sự tăng trưởng kinh tế của ngành cũng như của quốc gia.

Thu nhập tuyệt đối và thu nhập trung bìnhSửa đổi

Hiệu suất của quá trình sản xuất có thể được đo lường bởi mức thu nhập tuyệt đối hoặc mức thu nhập trung bình. Việc biểu diễn hiệu suất sản xuất bằng mức sản lượng tuyệt đối lẫn mức sản lượng trung bình đều rất hữu ích trong việc hiểu được tác động của phúc lợi lên sản xuất. Để đo hiệu suất sản xuất trung bình, chúng ta dùng công thức sau:

  • Đầu ra thực tế/ Đầu vào thực tế.

Để tính mức thu nhập tuyệt đối của hiệu suất, ta lấy hiệu sau:

  • Thu nhập tuyệt đối (thực tế) = Đầu ra thực tế - đầu vào thực tế.
Average and marginal productivity

Sự tăng lên của mức thu nhập thực tế chính là sự gia tăng về giá trị kinh tế, cái mà được phân bổ cho các bên liên quan tới quá trình sản xuất. Với sự trợ giúp của các mô hình sản xuất, ta có thể thực hiện phép hạch toán trung bình lẫn tuyệt đối chỉ với một phép tính. Việc tối đa hóa hiệu suất sản xuất đòi hỏi phải sử dụng phép đo tuyệt đối, tức là mức thu nhập tuyệt đối.

Sự khác biệt giữa thước đo hiệu suất trung bình và tuyệt đối có thể được mô tả trên đồ thị biểu diễn năng suất trung bình và năng suất cận biên. Đồ thị này là cách biểu diễn truyền thống của năng suất trung bình và cận biên. Hiệu suất sản xuất đạt cực đại tại điểm mà năng suất cận biên bằng 0. Giá trị cực đại của hiệu suất sản xuất cũng chính là giá trị cực đại của mức thu nhập thực tế. Trong ví dụ này, giá trị cực đại của mức thu nhập thực tế đạt được tại khối lượng sản xuất là 7,5 đơn vị. Giá trị cực đại của năng suất trung bình đạt được tại khối lượng sản xuất là 3,0 đơn vị. Điều đáng chú ý ở đây là giá trị cực đại của năng suất trung bình và thu nhập thực tế là không giống nhau.

Hình vẽ trên là một sự miêu tả hơi phóng đại, bởi vì toàn bộ hàm sản xuất đã được biết. Trong thực tiễn, quyết định được đưa ra dựa trên hiểu biết bị giới hạn về hàm sản xuất, nhưng nguyên tắc vẫn không đổi; mục tiêu hướng đến vẫn là tối đa hóa mức thu nhập thực tế. Một kết luận quan trọng có thể được rút ra: khi chúng ta cố gắng tối đa hóa sự ảnh hưởng phúc lợi đối với quá trình sản xuất, chúng ta phải tối đa hóa mức thu nhập thực tế. Tối đa hóa năng suất sẽ dẫn đến tổn thất đối với mức thu nhập (suboptimum).

Một ví dụ thực tiễn để mô tả trường hợp trên. Khi một người thất nghiệp kiếm được việc làm trên thị trường sản xuất, ta có thể giả định rằng đấy là một công việc năng suất thấp. Do đó, mức năng suất trung bình giảm xuống nhưng mức thu nhập thực tế đầu người lại tăng lên. Hơn thế, phúc lợi của toàn xã hội cũng được gia tăng. Ví dụ này cho thấy sự khó khăn trong việc giải thích sự thay đổi tổng năng suất một cách chính xác. Sự kết hợp giữa gia tăng khối lượng sản xuất và suy giảm tổng sản lượng dẫn đến sự cải thiện về mặt hiệu suất trong trường hợp này, bởi vì hàm sản xuất lúc này đang ở giai đoạn "hiệu suất giảm dần". Nếu chúng ta đang ở trong giai đoạn "hiệu suất tăng dần" của hàm sản xuất thì sự kết hợp giữa gia tăng khối lượng sản xuất và gia tăng tổng sản lượng sẽ dẫn đến sự cải thiện về hiệu suất sản xuất. Không may thay, trong thực tế chúng ta không thể biết hàm sản xuất đang ở trong giai đoạn nào. Bởi vậy, một cách giải thích đúng đắn về sự thay đổi hiệu suất chỉ có thể có được bằng việc đo lường sự thay đổi trong thu nhập thực tế.

Về mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam

Ngày phát hành: 28/08/2020 Lượt xem 187681


Hiện nay đang có một số quan điểm, nhận thức khác nhau về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, thậm chí có những quan điểm xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác- Lênin về mối quan hệ biện chứng của quy luật cơ bản này. Việc nhận thức, vận dụng mối quan hệ này phù hợp với thực tiễn Việt Nam sẽ góp phần thực hiện thành công mục tiêu vì “ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Sự khác nhau về mối quan hệ giữa sản xuất và dịch vụ

1. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được thể hiện thành một quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển xã hội loài người - quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong phương thức sản xuất. Quy luật này do C. Mác phát hiện ra và đó là quy luật khách quan, cơ bản, phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại và cùng với các quy luật khác làm cho lịch sử loài người vận động từ thấp đến cao, từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn, quy định sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.

Như chúng ta đã biết: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cấu thành của phương thức sản xuất, có tác động biện chứng với nhau một cách khách quan. Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp ở đây có nghĩa quan hệ sản xuất phải là “hình thức phát triển” tất yếu của lực lượng sản xuất, tạo địa bàn, động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Về mặt khoa học cần nhận thức sự phù hợp một cách biện chứng, lịch sử - cụ thể, là một quá trình, trong trạng thái động. Lực lượng sản xuất là yếu tố động, biến đổi nhanh hơn, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, biến đổi chậm hơn, thậm chí lạc hậu hơn. Do đó, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt đối lập biện chứng trong phương thức sản xuất. C. Mác đã chứng minh vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất, đồng thời cũng chỉ ra tính độc lập tương đối của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội của sản xuất, tác động đến lợi ích của người sản xuất, từ đó hình thành một hệ thống những yếu tố hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất trong phương thức sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất, quy luật gốc của sự phát triển xã hội. Sự biến đổi, phát triển xã hội loài người, xét đến cùng là bắt nguồn từ quy luật này. Khác với quy luật của tự nhiên, quy luật xã hội là quy luật hoạt động của con người, tồn tại và tác động thông qua hoạt động của con người, gắn với điều kiện thực tiễn, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Vì vậy, việc nhận thức và vận dụng quy luật xã hội nói chung, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng phải phù hợp với điều kiện thực tiễn cụ thể của từng quốc gia dân tộc, từng giai đoạn phát triển của đất nước và sự biến đổi của tình hình thế giới.

Ngược dòng thời gian, chúng ta thấy: Sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, nước Nga tuy đã trải qua giai đoạn phát triển trung bình của chủ nghĩa tư bản, trong thời kỳ nội chiến, chống thù trong giặc ngoài, V.I. Lê-nin và những người Bôn-sê-vích cũng đã tưởng rằng có thể áp dụng “chính sách cộng sản thời chiến” để tiến nhanh lên chủ nghĩa cộng sản. Song, cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội mùa xuân năm 1921 đã cho thấy đây là một sai lầm rất nghiêm trọng có hại cho sự phát triển của nước Nga. Nhận thức được vấn đề, V.I. Lê-nin đã chỉ rõ: “Chúng ta chưa tính toán đầy đủ mà đã tưởng là - có thể trực tiếp dùng pháp lệnh của nhà nước vô sản để tổ chức theo kiểu cộng sản chủ nghĩa trong một nước tiểu nông, việc nhà nước sản xuất và phân phối sản phẩm. Đời sống thực tế đã vạch rõ sai lầm của chúng ta”(2). V.I. Lê-nin đã kịp thời phê phán bệnh ảo tưởng lúc bấy giờ vì không sát thực tiễn trong việc vận dụng quy luật. Người đã quyết định chuyển sang chính sách kinh tế mới (NEP) thay thế chế độ trưng thu lương thực bằng chế độ thuế lương thực, khuyến khích phát triển quan hệ hàng hóa - tiền tệ, quan hệ thị trường, cho phép phát triển kinh tế tư nhân, cá thể, tư bản tư nhân, chính sách tô nhượng, cho phép sử dụng chuyên gia tư sản trong phát triển kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế phù hợp với thực tiễn của nước Nga.

Ở nước ta sau cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thống nhất Tổ quốc 30/4/1975 đến trước thời kỳ đổi mới 1986, thực hiện cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp. Mặc dù đã huy động được sức người, sức của cho kháng chiến và kiến quốc, nhưng kinh tế tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng, hiệu quả thấp. Do chưa nhận thức được hiện thực khách quan, nên không thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, coi cơ chế thị trường chỉ là thứ yếu bổ sung cho kế hoạch hoá; thủ tiêu cạnh tranh, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, kìm hãm tiến bộ khoa học, công nghệ… quá nhấn mạnh một chiều cải tạo quan hệ sản xuất mà không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất, coi nhẹ quan hệ quản lý, quan hệ phân phối. Khi xác lập quan hệ sản xuất, chúng ta tuyệt đối hoá vai trò của công hữu, làm cho quan hệ sản xuất chỉ còn tồn tại giản đơn dưới hai hình thức toàn dân và tập thể; kỳ thị, nóng vội xoá bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, không chấp nhận các hình thức sở hữu hỗn hợp, sở hữu quá độ; xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân một cách ồ ạt, trong khi nó đang tạo điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Dẫn đến lực lượng sản xuất không phát triển, tình trạng trì trệ kéo dài, sản xuất đình đốn, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn. Những hạn chế đó, có nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chủ yếu là chúng ta đã chủ quan, nóng vội, duy ý chí dẫn đến việc nhận thức và vận dụng chưa đúng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chúng ta đã thoát ly khỏi điều kiện thực tiễn của một đất nước kinh tế kém phát triển, còn nghèo nàn lạc hậu nhưng lại muốn tạo ra một quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Nhưng hậu quả thì ngược lại. Đúng như văn kiện Đại hội VI của Đảng đã khẳng định: “Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ:lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”(3). Lúc đó chúng ta đã chủ quan muốn tạo ra một quan hệ sản xuất vượt trước trình độ lực lượng sản xuất, làm cho mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở nên gay gắt, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Chúng ta đã có những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh; mặt khác, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, kìm hãm sự phát triển của đất nước. Phải giám nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật là chúng ta vừa chủ quan nóng vội, vừa bảo thủ trì trệ, hai mặt đó cùng tồn tại và làm cản trở bước tiến phát triển của đất nước. Sự nhận thức sai quy luật chứng tỏ sự lạc hậu về nhận thức tư duy lý luận và vận dụng quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; thành kiến không đúng những quy luật của sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị; coi nhẹ việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Chính cuộc sống đã dạy cho chúng ta một bài học thấm thía là không thể nóng vội làm trái quy luật, hiện thực khách quan được.

Sự khác nhau về mối quan hệ giữa sản xuất và dịch vụ

Từ sự nghiên cứu một cách nghiêm túc khách quan, khoa học, nhìn thẳng vào sự thật, có thể rút ra một số sai lầm phổ biến trong nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở các vấn đề sau đây:

- Chưa nhận thức, chưa hiểu đúng quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, tách rời quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, cường điệu quan hệ sản xuất mà coi nhẹ lực lượng sản xuất, coi nhẹ việc phát triển, giải phóng lực lượng sản xuất, muốn tạo ra quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất, muốn nhanh chóng thực hiện nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nền kinh tế của đất nước còn rất lạc hậu, mới thống nhất được đất nước, tàn dư của chiến tranh còn rất nặng nề.

- Nhận thức quan hệ sản xuất không trong một chỉnh thể, cường điệu chế độ sở hữu, nhất là muốn nhanh chóng thiết lập chế độ công hữu với bất kỳ giá nào, coi sở hữu tư nhân nằm ngoài bản chất của chủ nghĩa xã hội và cần phải nhanh chóng xóa bỏ; coi nhẹ quan hệ tổ chức - quản lý và phân phối; coi nhẹ động lực lợi ích cá nhân của người lao động, trong khi đời sống của nhân dân đang gặp muôn vàn khó khăn, thiếu thốn

- Duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, coi nhẹ quy luật giá trị, quan hệ hàng hóa - tiền tệ, cơ chế thị trường, từ đó tạo thành cơ chế kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Muốn tạo ra một quan hệ sản xuất nhất loạt như nhau trong những ngành sản xuất kinh tế khác nhau, những vùng miền, địa bàn khác nhau (vùng đồng bằng, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo) với những trình độ lực lượng sản xuất rất khác nhau, tức là cào bằng trong quan hệ sản xuất gây ra nhiều cản trở, khó khăn, nhất là trong quản lý kinh tế, xã hội.

Những sai lầm trên đây chính là do nhận thức không đúng bản chất quy luật quan hệ sản xuất phù hợp trình độ lực lượng sản xuất, những điều kiện tác động của nó, không tính đến điều kiện thực tiễn khi vận dụng, kết cục không tránh khỏi rơi vào thất bại. Nhận thức được vấn đề, tại Đại hội VI, Đảng ta đã phê phán bệnh chủ quan duy ý chí do vi phạm quy luật khách quan mà trước hết và chủ yếu là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Từ đó Đại hội đã rút ra bài học rất quan trọng là “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”, phải “làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất”. Công cuộc đổi mới xét về thực chất chính là quay trở về với quy luật, nhận thức đúng hiện thực khách quan với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin phù hợp với thực tiễn đất nước và thời đại mới.

2.Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong 35 năm qua nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng, phát trển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc; trong đó có thành tựu quan trọng về nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Càng ngày chúng ta càng nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, sự phù hợp và mâu thuẫn giữa chúng trong từng giai đoạn phát triển. Về đặc trưng kinh tế trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, đã chuyển từ “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” (Cương lĩnh năm 1991) sang “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” (Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011). Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Không ngừng hoàn thiện chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh lành mạnh cùng thắng.

Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, khởi đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã nêu ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, với nhiều chế độ sở hữu. Đây là dấu mốc quan trọng trong quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về con đường và phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thể hiện sự nhận thức và vận dụng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; đồng thời, đã đặt cơ sở, nền tảng quan trọng để các nhân tố mới ra đời, tạo tiền đề để từng bước phát triển nền kinh tế của đất nước. Quá trình vận dụng quy luật và xuất phát từ thực tiễn đất nước, tại Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3-1989), Đảng ta đã khẳng định: “Thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, coi đây là chính sách có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội; trong đó mọi người được tự do làm ăn theo pháp luật; các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế vừa hợp tác với nhau, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với nhau trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật”. (4)

Nhìn tổng thể trong 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng, phát triển đất nước. Trong đó, có thành tựu về nhận thức và vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta. Hơn nữa, trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, việc nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất để phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế đang là một yêu cầu cấp thiết.

Đảng và Nhà nước ta đã, đang và sẽ phải tiếp tục thống nhất nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường. Đồng thời, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và chủ động hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Xác lập nền kinh tế Việt nam “có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”(5); thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng và phát triển bền vững đất nước.

Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo “cốt vật chất” cho quan hệ sản xuất mới. Tiếp tục thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hoá dịch vụ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát huy cao độ nội lực, tranh thủ ngoại lực, tiếp thu những thành tựu về khoa học và công nghệ hiện đại trong điều của cuộc cách mạng 4.0. Xây dựng, hoàn thiện luật pháp và chính sách kinh tế để kiến tạo sự phát triển bền vững. Đào tạo nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, nhất là trong bộ máy quản lý, quản trị nhà nước. Đổi mới thể chế nhằm tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật và chính sách; phát huy dân chủ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong toàn xã hội.

Có thể khẳng định công cuộc đổi mới là quá trình chúng ta ngày càng nhận thức và vận dụng đúng đắn hơn quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách và luật pháp nhằm đa dạng hóa các hình thức của quan hệ sản xuất để khuyến khích, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, giải phóng mọi tiềm năng của sản xuất, tạo thêm động lực cho người lao động. Đó là những chính sách, pháp luật liên quan đến đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của kinh tế nhà nước, nhất là doanh nghiệp nhà nước, đến việc củng cố và phát triển kinh tế tập thể, đến phát huy vai trò động lực của kinh tế tư nhân, thu hút mạnh mẽ và phát huy hiệu quả của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, nâng cao chất lượng và hiệu quả cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, phát triển kinh tế hỗn hợp...trong quá trình phát triển nền kinh tế.

Đảng và Nhà nước cũng đã ban hành nhiều chính sách và pháp luật để hoàn thiện các mặt của quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa về sở hữu, tổ chức - quản lý và phân phối. Đã ban hành Luật Đất đai (sửa đổi năm 2013), quy định về sở hữu và đại diện chủ sở hữu, phân định quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế; xác định vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước thông qua định hướng, điều tiết, kế hoạch, quy hoạch, chiến lược, chính sách, chương trình phát triển và các lực lượng vật chất. Thực hiện đa dạng hóa các hình thức phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn, trí tuệ và các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, chăm lo đời sống của người lao động.

Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, biện pháp về đầu tư để xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển một số ngành công nghiệp cơ khí, đóng tàu, vận tải, khai thác vật liệu, xây dựng, chế biến; ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ thông tin; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao... Thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hóa dịch vụ.

Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát huy cao độ nội lực, tranh thủ ngoại lực, tiếp thu những thành tựu về khoa học - công nghệ, về kinh tế tri thức, văn minh của thế giới; kinh nghiệm quốc tế... để phát triển, hiện đại hóa lực lượng sản xuất và củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp để tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các quan hệ song phương và tổ chức đa phương, như ASEAN, APEC, ASEM, WTO..., thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài (FDI, ODA...), xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, trình độ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 187 nước, quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư với hơn 220 quốc gia và vùng lãnh thổ, ký trên 90 hiệp định thương mại, đầu tư….

Sự khác nhau về mối quan hệ giữa sản xuất và dịch vụ

Tuy nhiên, trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong thời gian qua bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng phải thấy rằng, cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém, xuất hiện những mâu thuẫn mới, sự không phù hợp mới giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, làm cản trở sự phát triển của cả lực lượng sản xuất và cả quan hệ sản xuất. Mặc dù đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nước có thu nhập trung bình thấp, song thực chất vẫn là nước nghèo, kinh tế còn lạc hậu, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với thế giới và khu vực ngày càng lớn. Mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa thể đạt được. Hiện nay các ngành công nghiệp cơ khí, chế tạo, chế tác, phụ trợ... còn kém phát triển, chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong GDP. Năng suất lao động, hiệu quả, chất lượng, sức cạnh tranh thấp, yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) thấp. Lực lượng sản xuất yếu kém sẽ tác động tới quy định trình độ, chất lượng của quan hệ sản xuất. Chúng ta chưa chú ý toàn diện, đồng bộ trong xây dựng, hoàn thiện các mặt của quan hệ sản xuất. Vẫn còn xu hướng nặng về thay đổi chế độ sở hữu hơn là cải tiến, đổi mới quan hệ quản lý và quan hệ phân phối sản phẩm. Chúng ta phải thấy rằng, nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đang thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chưa có lực lượng sản xuất công nghiệp hiện đại làm cơ sở cho quan hệ sản xuất mới. Cho nên, không thể nóng vội trong xây dựng quan hệ sản xuất, song cũng không được coi nhẹ việc xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất từng bước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và trong Hiến pháp năm 2013 đều xác định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Nhưng, trong thực tế hiện nay kinh tế nhà nước chưa thực sự giữ vai trò chủ đạo, bởi vì nhìn chung năng suất, chất lượng, hiệu quả thấp, chưa làm gương để dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, nhiều doanh nghiệp nhà nước rơi vào tình trạng sản xuất, kinh doanh thua lỗ, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, làm thất thoát tài sản nhà nước, gây nhiều bức xúc trong dư luận xã hội(có 12 dự án kinh tế bị thất thoát lớn, gây hậu quả nghiêm trọng đang được các cơ quan pháp luật điều tra, xử lý và khắc phục để từng bước đưa vào hoạt động sản xuất, kinh doanh). Doanh nghiệp nhà nước hiện chiếm gần 70% vốn đầu tư toàn xã hội, gần 50% vốn đầu tư nhà nước và 70% vốn ODA,... nhưng khu vực này chỉ đóng góp 26% - 28% tăng trưởng GDP. Các doanh nghiệp nhà nước có hệ số ICOR cao hơn nhiều so với khu vực tư nhân. Suất sinh lời trên vốn của doanh nghiệp nhà nước thấp hơn doanh nghiệp tư nhân. Quản lý doanh nghiệp nhà nước còn nhiều lỏng lẻo, phân định không rõ thẩm quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu và đại diện chủ sở hữu, nhất là trong quản lý vốn, do đó thời gian trước năm 2016 có nhiều doanh nghiệp đầu tư tràn lan, ngoài ngành nhiều, bị “lợi ích nhóm” chi phối, vi phạm pháp luật, nợ xấu tăng lên làm khó khăn cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhiệm kỳ 2016- 2021 đang tích cực xử lý giải quyết hậu quả.

Khu vực kinh tế tập thể còn nhỏ bé, nhiều hợp tác xã trong nông nghiệp mang tính hình thức, chỉ làm khâu dịch vụ đầu vào và đầu ra của sản xuất, quỹ không chia trong hợp tác xã rất thấp, trình độ khoa học - công nghệ, quy mô và trình độ quản lý kinh tế yếu kém.

Khu vực kinh tế tư nhân được xác định là một động lực quan trọng của nền kinh tế, đóng góp nhiều vào tăng trưởng GDP và giải quyết việc làm cho người lao động. Song, các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa nên gặp nhiều bất lợi về cạnh tranh, nguồn vốn và cả bị phân biệt đối xử trong thực tế do cơ chế, chính sách. Tiềm năng của kinh tế tư nhân rất lớn nhưng chưa được tạo điều kiện để phát triển mạnh và đóng góp nhiều hơn cho xã hội.

Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế quan trọng trong đóng góp vào tăng trưởng GDP, thu hút nguồn lao động. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến 20/12/2019 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 38 tỷ USD, tăng 7,2 % so với năm 2018. Tuy nhiên, khu vực này cũng có những hạn chế như: đầu tư vào các lĩnh vực có công nghệ cao, công nghệ nguồn còn ít, phần lớn còn là công nghệ trung bình, thậm chí lạc hậu, gia công, lắp ráp, ít đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn là lĩnh vực có lợi nhuận kém hấp dẫn. Các doanh nghiệp FDI khai thác nguồn tài nguyên, thị trường, nhân lực rẻ tại Việt Nam để phục vụ cho mục tiêu lợi nhuận của họ, thậm chí có cả hiện tượng “chuyển giá”, hạch toán lỗ... nhằm trốn thuế, chuyển lợi nhuận ra nước ngoài( về công ty mẹ) vẫn còn xẩy ra.

Những hạn chế, yếu kém trên đây của các thành phần kinh tế trong quan hệ sản xuất đã làm cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tình hình trên đây có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.

Về khách quan, việc chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với đa hình thức sở hữu, quản lý, phân phối, đa thành phần kinh tế là mô hình kinh tế chưa có tiền lệ trong lịch sử, chúng ta phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm.

Về chủ quan, công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về kinh tế thị trường, về quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong điều kiện một nước lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới, hội nhập... còn nhiều hạn chế, bất cập…. Nhận thức trên một số vấn đề thuộc chủ trương, quan điểm tuy đã được khẳng định trong các nghị quyết của Đảng, song vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau trong thực tiễn, chẳng hạn(như: xác định thành phần kinh tế hay khu vực kinh tế, vấn đề kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, vấn đề sở hữu và sử dụng đất đai, vấn đề quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa...). Chính vì nhận thức còn khác nhau ở tầm quan điểm nên trong việc thực hiện nghị quyết, chính sách còn ngập ngừng, thiếu nhất quán, không kiên quyết, thiếu đồng bộ, làm hạn chế đến hiệu quả kinh tế. Hơn nữa, tư duy phát triển kinh tế - xã hội và phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm đổi mới; nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể còn thiếu thống nhất, thiếu tính hệ thống; khâu tổ chức thực hiện còn thiếu kiên quyết, quyết liệt, vẫn còn tình trạng dễ làm khó bỏ; quản lý, quản trị nhà nước còn nhiều yếu kém; chưa thể chế hóa kịp thời các quan điểm, chủ trương của Đảng thành các chính sách, biện pháp có tính khả thi, hiệu quả. Đồng thời, có một số chủ trương chưa đủ rõ hoặc chưa phù hợp, chưa có sự thống nhất và thông suốt ở các cấp, các ngành, còn “ trên nóng, dưới lạnh”. Một số cán bộ, đảng viên, thậm chí là cán bộ cao cấp rơi vào suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, năng lực, phẩm chất và uy tín không đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới phát triển bền vững đất nước.

3. Đề xuất một số vấn đề đặt ra về nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong thời gian tới

Một là, đẩy mạnh, nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.

Hai là, tiếp tục đổi mới tư duy lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về sở hữu và các khu vực kinh tế, giải quyết những vấn đề còn vướng mắc, chưa rõ, ý kiến còn khác nhau, nhằm phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại, như vấn đề chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu ở nước ta; vấn đề vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; vấn đề sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước; vai trò kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác; vai trò động lực phát triển của kinh tế tư nhân ở nước ta; vai trò kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; vấn đề kinh tế hỗn hợp, kinh tế cổ phần và các mối quan hệ kinh tế giữa các khu vực kinh tế của nền kinh tế nước ta trong quá trình phát triển bền vững đất nước.

Ba là, tiếp tục đổi mới tư duy và quan điểm phát triển hài hòa cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, chính trị, văn hóa, xã hội. Xây dựng tư duy mới về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về hội nhập, về phương thức phát triển kinh tế. Đẩy mạnh cải cách toàn diện thể chế nhằm huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực; thực hiện cơ chế thị trường và giải quyết hài hòa quan hệ giữa Nhà nước và thị trường trong phân phối các tư liệu sản xuất; bảo đảm bình đẳng thực sự giữa các khu vực kinh tế. Đẩy mạnh xã hội hóa các tổ chức trong cung ứng các dịch vụ công (giáo dục, y tế, khoa học - công nghệ…) và phúc lợi xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, cuộc sống của nhân dân.

Bốn là, thực hiện đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện luật pháp và chính sách kinh tế- xã hội, để kiến tạo sự phát triển bền vững của đất nước. Xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao, trọng dụng nhân tài, nhất là trong bộ máy quản lý, quản trị của nhà nước. Đổi mới thể chế nhằm tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật và chính sách; phát huy dân chủ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ các loại thị trường, bảo đảm nguyên tắc thị trường trong sự vận hành nền kinh tế; hoàn thiện cơ chế vận hành các loại thị trường phù hợp với thực tiễn của đất nước và thông lệ quốc tế. Khẩn trương nghiên cứu và tổ chức thực hiện có hiệu quả Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU(EVFTA) có hiệu lực từ ngày 1/8/2020, để mở cửa các thị trường dịch vụ, đầu tư, tài chính, thương mại điện tử, logistisc, hàng hoá nông sản, thuỷ sản, dệt may, da giày vv…cũng như thu hút làn sóng đầu tư chất lượng cao, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, góp phần quan trọng làm cho kinh tế của đất nước phát triển nhanh, bền vững với chất lượng, hiệu quả cao hơn.

Năm là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực; tạo động lực phát triển; từng bước hoàn thiện chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; gắn kết chặt chẽ 3 trụ cột phát triển bền vững: kinh tế - xã hội - môi trường; vai trò văn hoá, xã hội, con người và đổi mới sáng tạo, công bằng, bình đẳng. Tiếp tục nghiên cứu đổi mới, hoàn thiện chế độ phân phối, phúc lợi xã hội, cải cách chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế…nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động và nhân dân.

***

Nhận thức hiện thực khách quan là một quá trình từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Với thái độ khách quan, khoa học và kinh nghiệm thực tiễn của cách mạng, chúng ta tin tưởng rằng dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội XIII, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục vận dụng sáng tạo mối quan hệ biện chứng giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất, làm cho phương thức sản xuất phát triển bền vững, xây dựng được nền kinh tế giàu mạnh, đất nước phồn vinh, cường thịnh; nhân dân ta có cuộc sống ấm no, văn minh và hạnh phúc./.

TS. Nguyễn Văn Hùng,

Hội đồng lý luận Trung ương

-------------------------------------------

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 73

(2) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1973, t. 44, tr. 189

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2005, tr. 58

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 06- NQ/TW, Hội nghị BCHTW lần thứ 6, khoá VI, ngày29/03/1989 “ Về kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và phương hướng nhiệm vụ ba năm tới”

(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.25

(6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ 11 BCHTW, khoá XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2019.

(7) Tổng cục Thống kê(Bộ Kế hoạch và Đầu tư) - Tình hình kinh tế- xã hội quý IV và năm 2019.