Thành tựu của công tác đánh giá người học hiện nay

MỘT SỐ KHÓ KHĂN TRONG CÔNG TÁC kiểm tra đánh giá kết quả người học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [62.82 KB, 3 trang ]

MỘT SỐ KHÓ KHĂN TRONG CÔNG TÁC
KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NGƯỜI HỌC
ThS. Nguyễn Huyền Trang
Kiểm tra, đánh giá kết quả người học là khâu quan trọng trong quá trình dạy
học và giáo dục. Xu hướng đánh giá mới trong giáo dục là đánh giá dựa theo năng
lực người học, tức là đánh giá khả năng tiềm ẩn của người học dựa trên kết quả đầu
ra cuối một giai đoạn học tập, là quá trình tìm kiếm minh chứng về việc người học
đã thực hiện thành công các sản phẩm đó. Đánh giá năng lực nhằm giúp giáo viên
có thông tin kết quả học tập của sinh viên để điều chỉnh hoạt động giảng dạy, giúp
học sinh điều chỉnh hoạt động học tập, giúp giáo viên và nhà trường xác nhận, xếp
hạng kết quả học tập. Trong quá trình giảng dạy thực tế, giáo viên còn gặp phải một
số khó khăn trong công tác kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực người
học. Cụ thể:
Một là: Bản thân người giáo viên chưa thực sự hiểu một cách sâu sắc về nội
dung và phương pháp đổi mới kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực
người học. Vì vậy giáo viên còn lúng túng trong quá trình kiểm tra đánh giá. Việc
lựa chọn các câu hỏi trong các bài kiểm tra còn chưa mang lại hiệu quả tốt trong
việc đánh giá năng lực của người học, chưa có độ phân hóa người học cao. Suy nghĩ
của người giáo viên vẫn theo lối mòn của các hình thức kiểm tra và đánh giá cũ đó
là kiểm tra và đánh giá kiến thức của người học mà vẫn chưa xem trọng việc đánh
giá năng lực, quá trình học tập và sự tiến bộ của người học.
Hai là: Trong thực tế giảng dạy, phương pháp kiểm tra đánh giá còn nghèo
nàn, thiếu tính thực tiễn và sáng tạo. Phần lớn phương pháp kiểm tra đánh giá người
học chủ yếu là làm bài kiểm tra trên giấy, với các hình thức: tự luận, trắc nghiệm
khách quan và hiện tại đang tăng cường hình thức: vấn đáp, thực hành. Các hình
thức này chủ yếu là chứng minh người học nắm vững kiến thức để giải một số bài
tập hoặc giải thích một số hiện tượng liên quan đến những kiến thức đã học. Năng
lực mà người học thể hiện qua các hình thức kiểm tra đánh giá này chủ yếu là năng
lực trình bày, diễn đạt, lập luận, kĩ năng làm bài tập,…Một số kỹ năng mềm như
thuyết trình, xử lý tình huống, làm việc nhóm, tư duy độc lập sáng tạo,… rất cần
trong cuộc sống nhưng khó xác định với cách kiểm tra, đánh giá như trên. Các


phương pháp như người học tự đánh giá, đánh giá theo dự án,… mới chỉ được thực
hiện trong một vài học phần hoặc trong các đề tài nghiên cứu khoa học.
Ba là: Kiểm tra đánh giá tập trung nhiều vào mục tiêu dạy kiến thức mà chưa
chú trọng đến mục tiêu kỹ năng của người học. Việc đo lường năng lực người học
chủ yếu dựa vào điểm số các bài thi, trong khi những tiêu chí rất quan trọng như sức
khỏe, kĩ năng sống, lý tưởng của người học chưa được quan tâm đúng mức. Chính
vì vậy mọi hoạt động của nhà trường đặt trọng tâm vào các kỳ thi, những hoạt động
khác nhằm rèn luyện đạo đức, nâng cao sức khỏe, nâng cao kĩ năng sống chưa đúng
với vai trò và tầm quan trọng của nó. Kiểm tra đánh giá hiện nay chưa chú trọng
đến kỹ năng, thái độ của người học, đôi khi còn mang tính áp đặt. Việc kiểm tra
đánh giá hiện nay chưa làm tăng cường một số kỹ năng ở người học như: kỹ năng
làm việc độc lập, năng lực sáng tạo, năng lực sử dụng công nghệ thông tin, khả
năng hợp tác với những người xung quanh, khả năng giải quyết xung đột cá nhân,
mức độ tham gia các hoạt động tập thể, khả năng giải quyết vấn đề, khả năng đặt
mục tiêu để hoàn thiện trong tương lai.
Việc đánh giá về đạo đức và sự tiến bộ của người học còn chưa được đề cao.
Việc coi trọng đánh giá về đạo đức và sự tiến bộ của người học không chỉ có tác
dụng hỗ trợ giúp đỡ người học tiến bộ mà sự phối hợp giữa giáo viên và gia đình
trong việc giáo dục người học cũng sẽ được nâng cao hiệu quả. Tuy nhiên, sự phối
hợp giữa phụ huynh và nhà trường trong đánh giá học sinh còn chưa được quan tâm
đúng mực. Đa phần việc liên hệ với gia đình người học chỉ trong những trường hợp
cảnh cáo kết quả học tập.
Bốn là: Mỗi một học phần có 3-4 bài kiểm tra định kì, việc kiểm tra theo hình
thức này đôi khi còn chưa đạt được hiệu quả cao, chưa đánh giá đúng thực chất cả
quá trình học tập của người học và chưa thể hiện được những năng lực người học có
và cần có trong học tập và cuộc sống.
Ngoài ra, quá trình tự học chưa được người học nhận thức đúng, người học
chưa dành nhiều thời gian cho việc tự học, tự nghiên cứu. Một số bộ phận người
học đến sát kì thi mới học, học tủ, học lệch, chưa coi trọng các môn học, chỉ học để
đối phó với các kỳ thi mà chưa nhận thức được ý nghĩa của các môn học trong quá


trình hình thành kiến thức cũng như kĩ năng sống cho bản thân. Người học chưa chủ
đông trong quá trình kiểm tra đánh giá, còn chưa có ý thức trong việc phát huy các
năng lực của bản thân, còn ỉ lại, không chịu khó học hỏi và ngại tham gia các hoạt
động tập thể cũng như các hoạt động ngoại khóa.
Bên cạnh đó các kĩ năng mềm của người học còn hạn chế và chưa được
người học thực sự quan tâm. Trong quá trình lên lớp người học còn e ngại trong
việc thể hiện bản thân mình, chưa chủ động và tích cực trao đổi, giao lưu với bạn bè
và giáo viên về các kiến thức chưa hiểu rõ. Khả năng làm việc một cách độc lập của
người học còn chưa tốt, mặt khác việc hợp tác làm việc nhóm cũng chưa đạt hiệu
quả cao. Thực trạng khi giao bài tập nhóm thì chỉ một vài cá nhân học khá làm bài
thay cho cả nhóm và thiếu sự trao đổi chung cũng như sự làm việc của tất cả các cá
nhân trong nhóm. Kĩ năng thuyết trình trước đám đông chưa được người học quan
tâm nhiều. Khi được giao bài trình bày trước tập thể thì người học thường đùn đẩy
nhau mà chưa tự giác và chưa ý thức về nhiệm vụ của mình. Kĩ năng sử dụng công
nghệ thông tin trong các bài học, bài thảo luận, bài thuyết trình của người học còn
chưa tốt. Các học phần tin học còn chưa thực sự thu hút được người học dẫn đến
tình trạng người học học một cách chống chế và qua loa và chưa ứng dụng những gì
đã được học vào trong thực tiễn. Bên cạnh những yếu tố tích cực, sự hiện đại của
mạng xã hội, của công nghệ thông tin mang đến cho người học đời sống ảo dẫn đến
sự hợp tác làm việc trong đời thực, chẳng hạn sự hợp tác để làm việc nhóm giải
quyết các bài tập lớn còn hạn chế. Người học còn thiếu sự quan tâm lẫn nhau và
thậm chí một số người học còn thờ ơ lãnh đạm với những người xung quanh. Điều
này dẫn đến kết quả của bài tập lớn còn chưa phản ánh đúng thực trạng của việc hợp
tác nhóm.
Trên đây là một số khó khăn mà giáo viên gặp phải khi thực hiện việc kiểm
tra, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực người học mà cá nhân tôi muốn trao đổi,
nhằm tìm ra các giải pháp để cải thiện tình trạng kiểm tra đánh giá hiện nay cũng
như để phát huy tốt nhất những năng lực của người học, để việc kiểm tra đánh giá
kết quả sẽ phản ánh đúng những gì người học cố gắng trong suốt quá trình học tập.
Hơn nữa, để người học nhìn vào kết quả kiểm tra đánh giá để cố gắng hoàn thiện


bản thân mình cả về kiến thức và kĩ năng sống. Để người học có thể phát huy hết
những năng lực mà mình có. Và người học sẽ đáp ứng được nhu cầu của xã hội.

Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ nêu 9 thành tựu và 5 hạn chế của ngành giáo dục

Sau 7 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, Bộ trưởng GD-ĐT cho biết ngành giáo dục và đào tạo đã có một số kết quả nổi bật.

Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ báo cáo tham luận tại Đại hội Đảng lần thứ XIII.

Trongbài tham luận của Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, những kết quả mà ngành giáo dục đào tạo đạt được như sau:

Những kết quả nổi bật

Hệ thống cơ chế, chính sách trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cơ bản được hoàn thiện

Bộ GD-ĐT đã rà soát, trình Chính phủ, Quốc hội ban hành và ban hành theo thẩm quyền các cơ chế, chính sách khắc phục những hạn chế, bất cập tồn tại từ nhiều năm trước. Lần đầu tiên trong 2 năm liên tiếp, Bộ đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018 và Luật Giáo dục [sửa đổi, ban hành mới] năm 2019, giải quyết những “nút thắt” và tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo.

Năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân.

Đến nay, về cơ bản các chủ trương của Nghị quyết 29 đã được thể chế hóa và được cụ thể trong các văn bản hướng dẫn thực hiện.

Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non; duy trì, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở

Chỉ tiêu về đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non trên toàn quốc cho trẻ 5 tuổi đã hoàn thành ngay từ đầu năm 2017 với tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo 5 tuổi đạt 99,98%.

Bên cạnh đó, cả nước đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2, trong đó có 18/63 tỉnh, thành phố đạt mức độ; cả nước đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 1, trong đó có 19/63 tỉnh, thành phố đạt mức độ 2, mức độ 3...

browser not support iframe.

Theo Bộ trưởng Nhạ, chủ trương một chương trình, nhiều bộ sách giáo khoa nhằm khuyến khích sự sáng tạo trong dạy và học của giáo viên đã có những thành công bước đầu.

Ban hành và tích cực triển khai Chương trình giáo dục phổ thông mới

Cuối năm 2019, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT đã phê duyệt 5 bộ sách giáo khoa lớp 1, với tổng số 46 quyển của 9 môn học và hoạt động giáo dục cho phép sử dụng trong năm học 2020-2021. Việc lựa chọn sách giáo khoa được các địa phương thực hiện cơ bản nghiêm túc, công khai, minh bạch. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử ngành giáo dục nước ta thực hiện chủ trương này và đã có kết quả bước đầu đáng khích lệ.

Công tác tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục ngày càng thực chất, hiệu quả hơn

Đổi mới thi, kiểm tra và đánh giá chất lượng đối với giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông được triển khai theo hướng đánh giá năng lực, kết hợp kết quả quá trình với kết quả cuối năm học.

Các bậc học sau phổ thông đã chuyển việc tổ chức đào tạo theo niên chế sang tích lũy mô đun hoặc tín chỉ. Việc kiểm tra, đánh giá trình độ đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ được thực hiện chặt chẽ hơn; chất lượng các luận văn, luận án từng bước theo tiêu chuẩn quốc tế.

Công tác đổi mới thi tốt nghiệp trung học phổ thông, tuyển sinh đại học, cao đẳng được triển khai theo hướng đánh giá năng lực, kết hợp kết quả quá trình với kết quả cuối năm học, giảm áp lực và tốn kém cho xã hội.

Chất lượng giáo dục phổ thông cả đại trà và mũi nhọn đều được nâng lên, được quốc tế ghi nhận, đánh giá cao

Theo báo cáo năm 2020 của Ngân hàng Thế giới về Vốn nhân lực, thành phần kết quả giáo dục của Việt Nam đứng thứ 15, tương đương với các nước như Hà Lan, New Zealand, Thụy Điển.

Nhiều chỉ số về Giáo dục của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực, như: tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành Chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN; kết quả Chương trình Đánh giá kết quả học tập của học sinh tiểu học các nước Đông Nam Á [SEA PLM] năm 2019 cho thấy chất lượng giáo dục tiểu học của Việt Nam đứng vào tốp đầu của các nước ASEAN. Trong các đợt đánh giá PISA, Việt Nam có kết quả vượt trội so với trung bình của các nước trong khối OECD trong khi mức đầu tư cho giáo dục thấp hơn hẳn.

Kết quả thi Olympic của học sinh Việt Nam những năm vừa qua có bước tiến bộ vượt bậc với 49 huy chương Vàng trong giai đoạn 2016-2020 so với 27 huy chương Vàng trong giai đoạn 2011-2015; nhiều học sinh Việt Nam đạt điểm số cao nhất ở các nội dung thi.

Tự chủ đại học được đẩy mạnh, chất lượng đào tạo đại học có nhiều chuyển biến tích cực

Nếu như trước đây chỉ có hai đại học quốc gia được giao quyền tự chủ cao, thì từ năm 2014 đã có 23 cơ sở giáo dục đại học được thí điểm thực hiện tự chủ tương đối toàn diện theo Nghị quyết 77 của Chính phủ.

Năm 2019, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng 12 bậc so với năm 2018. Lần đầu tiên, Việt Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học được vào top 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới; có 11 cơ sở giáo dục đại học Việt Nam nằm trong danh sách 500 trường đại học hàng đầu Châu Á.

Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên có nhiều chuyển biến tích cực

Trong Chương trình giáo dục phổ thông mới, nội dung giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống tiếp tục được chú trọng, thực hiện thông qua tất cả các môn học, hoạt động giáo dục.

Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành giáo dục

Toàn ngành Giáo dục đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động quản lý, dạy và học.

Lần đầu tiên, toàn ngành Giáo dục đã xây dựng cơ sở dữ liệu ngành về giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông. Công nghệ thông tin được sử dụng rộng rãi trong các trong các hoạt động dạy và học; dạy học qua internet, trên truyền hình được thực hiện mạnh mẽ, nhất là trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội để phòng, chống dịch Covid-19.

Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo.

Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác giáo dục với hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Thí sinh phấn chấn kết thúc ngày thi đầu tiên

5 hạn chế, bất cập

Cũng theo Bộ trưởng Nhạ, sau 7 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 29 của Trung ương, ngành giáo dục vẫn còn một số hạn chế, bất cập.

Đó là công tác quản lý nhà nước, quản trị nhà trường còn bất cập, trách nhiệm còn chồng chéo; việc kiện toàn Hội đồng trường các cơ sở giáo dục đại học còn chậm, hoạt động chưa thực chất, chưa phát huy tốt vai trò của Hội đồng trường.

Thứ hai là tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ vẫn chưa được giải quyết triệt để ở một số địa phương; chất lượng đội ngũ giáo viên chưa đồng đều, còn một bộ phận giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, cá biệt có những giáo viên vi phạm đạo đức nhà giáo, gây bức xúc xã hội.

Thứ ba là quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông ở một số địa phương chưa phù hợp, còn tình trạng thiếu trường, lớp ở một số khu đô thị, khu công nghiệp; thiếu đất cho xây dựng trường học, đặc biệt là ở các thành phố lớn; quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học và sư phạm còn chậm.

Thứ tư là hệ thống quản lý, quản trị, kết nối, khai thác dữ liệu ngành phục vụ công tác quản lý, điều hành, dạy học còn chưa đồng bộ; một số nơi hạ tầng công nghệ thông tin, thiết bị kết nối còn thiếu, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn,chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.

Và bất cập thứ năm là công tác truyền thông về giáo dục còn hạn chế, chưa tạo được đồng thuận cao trong xã hội khi bắt đầu triển khai nhiều chủ trương, chính sách mới của ngành. Truyền thông nội bộ ngành chưa hiệu quả, còn những ý kiến trái chiều ngay trong đội ngũ giáo viên khi triển khai chính sách mới.

Ông Nhạ cũng trình bày một loạt giải pháp tiếp tục thực hiện trong thời gian tới. Các giải pháp này thuộc 5 nhóm, trong đó được coi là đột phá là nhóm giải pháp về đổi mới cơ chế quản lý nhà nước và quản trị nhà trường.

Ngoài ra là các nhóm giải pháp về Phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; Tiếp tục rà soát, quy hoạch mạng lưới trường, lớp; Đẩy nhanh chuyển đổi số trong giáo dục và Tăng cường công tác truyền thông.

Ngân Anh

Tham luận của Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo tại Đại hội XIII

Bài tham luận của Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, sáng 27/1.

Chuyên gia UNESCO nêu 2 khuyến nghị cho Giáo dục Việt Nam

Bà Dominique Altner, Chuyên gia Chương trình Cao cấp tại Viện chiến lược giáo dục UNESCO, đã có những chia sẻ về sự phát triển của giáo dục Việt Nam trong 5 năm vừa qua.

Đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng tiếp cận năng lực học sinh

Cỡ chữ Màu chữ:

1. Quan niệm về đánh giá theo định hướng tiếp cận năng lực học sinh

Hiện nay có nhiều quan niệm về năng lực, theo OECD: Năng lực là khả năng đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu phức hợp trong một bối cảnh cụ thể; theo Chương trình giáo dục phổ thông mới năm 2018: Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể.

Với những quan niệm trên, đánh giá kết quả học tập theo định hướng tiếp cận năng lực cần chú trọng vào khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. Hay nói cách khác, đánh giá theo năng lực là đánh giá kiến thức, kĩ năng và thái độ trong những bối cảnh có ý nghĩa. Đánh giá kết quả học tập của học sinh đối với các môn học và hoạt động giáo dục theo quá trình hay ở mỗi giai đoạn học tập chính là biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ thực hiện mục tiêu dạy học về kiến thức, kĩ năng, thái độ và năng lực, đồng thời có vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả học tập của học sinh.

Xét về bản chất thì không có mâu thuẫn giữa đánh giá năng lực và đánh giá kiến thức, kĩ năng, đánh giá năng lực được coi là bước phát triển cao hơn so với đánh giá kiến thức, kĩ năng. Để chứng minh học sinh có năng lực ở một mức độ nào đó, phải tạo cơ hội cho học sinh được giải quyết vấn đề trong tình huống mang tính thực tiễn. Khi đó học sinh vừa phải vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã được học ở nhà trường, vừa sử dụng những kinh nghiệm của bản thân thu được từ những trải nghiệm bên ngoài nhà trường [gia đình, cộng đồng và xã hội] để giải quyết vấn đề của thực tiễn. Như vậy, thông qua việc hoàn thành một nhiệm vụ trong bối cảnh thực, người ta có thể đồng thời đánh giá được cả khả năng nhận thức, kĩ năng thực hiện và những giá trị, tình cảm của người học. Mặt khác, đánh giá năng lực không hoàn toàn phải dựa vào chương trình giáo dục của từng môn học như đánh giá kiến thức, kĩ năng, bởi năng lực là tổng hóa, kết tinh kiến thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm, giá trị, chuẩn mực đạo đức,… được hình thành từ nhiều môn học, lĩnh vực học tập khác nhau, và từ sự phát triển tự nhiên về mặt xã hội của một con người.

Có thể tổng hợp một số dấu hiệu khác biệt cơ bản giữa đánh giá năng lực người học và đánh giá kiến thức, kĩ năng của người học như sau:

Một số điểm khác biệt giữa đánh giá tiếp cận nội dung [kiến thức, kĩ năng] và đánh giá tiếp cận năng lực

STT

Đánh giá theo hướng

tiếp cận nội dung

Đánh giá theo hướng

tiếp cận năng lực

1

Các bài kiểm tra trên giấy được thực hiện vào cuối một chủ đề, một chương, một học kì,...

Nhiều bài kiểm tra đa dạng [giấy, thực hành, sản phẩm dự án, cá nhân, nhóm…] trong suốt quá trình học tập

2

Nhấn mạnh sự cạnh tranh

Nhấn mạnh sự hợp tác

3

Quan tâm đến mục tiêu cuối cùng của việc dạy học

Quan tâm đến đến phương pháp học tập, phương pháp rèn luyện của học sinh

4

Chú trọng vào điểm số

Chú trọng vào quá trình tạo ra sản phẩm, chú ý đến ý tưởng sáng tạo, đến các chi tiết của sản phẩm để nhận xét

5

Tập trung vào kiến thức hàn lâm

Tập trung vào năng lực thực tế và sáng tạo

6

Đánh giá được thực hiện bởi các cấp quản lí và do giáo viên là chủ yếu, còn tự đánh giá của học sinh không hoặc ít được công nhận

Giáo viên và học sinh chủ động trong đánh giá, khuyến khích tự đánh giá và đánh giá chéo của học sinh

7

Đánh giá đạo đức học sinh chú trọng đến việc chấp hành nội quy nhà trường, tham gia phong trào thi đua…

Đánh giá phẩm chất của học sinh toàn diện, chú trọng đến năng lực cá nhân, khuyến khích học sinh thể hiện cá tính và năng lực bản thân

2. Quan hệ giữa năng lực với kiến thức, kĩ năng thái độ

Với quan niệm về năng lực như đã nêu trên, trong quá trình học tập để hình thành và phát triển được các năng lực, người học cần chuyển hóa những kiến thức, kĩ năng, thái độ có được vào giải quyết những tình huống mới và xảy ra trong môi trường mới. Như vậy, có thể nói kiến thức là cơ sở để hình thành năng lực, là nguồn lực giúp cho người học tìm được các giải pháp tối ưu để thực hiện nhiệm vụ hoặc có cách ứng xử phù hợp trong bối cảnh phức tạp. Khả năng đáp ứng phù hợp với bối của thực tiễn cuộc sống là đặc trưng quan trọng nhất của năng lực, khả năng đó có được dựa trên sự đồng hóa và sử dụng có cân nhắc những kiến thức, kĩ năng cần thiết trong từng hoàn cảnh cụ thể.

Những kiến thức là cơ sở để hình thành và rèn luyện năng lực phải được tạo nên do chính người học chủ động nghiên cứu, tìm hiểu hoặc được hướng dẫn nghiên cứu tìm hiểu và từ đó kiến tạo nên. Việc hình thành và rèn luyện năng lực được diễn ra theo hình xoáy trôn ốc, trong đó các năng lực có trước được sử dụng để kiến tạo kiến thức mới; và đến lượt mình, kiến thức mới lại đặt cơ sở để hình thành những năng lực mới.

Kĩ năng theo nghĩa hẹp là những thao tác, những cách thức thực hành, vận dụng kiến thức, kinh nghiệm đã có để thực hiện một hoạt động nào đó trong một môi trường quen thuộc. Kĩ năng hiểu theo nghĩa rộng, bao hàm những kiến thức, những hiểu biết và trải nghiệm,… giúp cá nhân có thể thích ứng khi hoàn cảnh thay đổi.

Kiến thức, kĩ năng là cơ sở cần thiết để hình thành năng lực trong một lĩnh vực hoạt động nào đó. Tuy nhiên, nếu chỉ có kiến thức, kĩ năng trong một lĩnh vực nào đó thì chưa chắc đã được coi là có năng lực, mà còn cần đến việc sử dụng hiệu quả các nguồn kiến thức, kĩ năng cùng với thái độ, giá trị, trách nhiệm bản thân để thực hiện thành công các nhiệm vụ và giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn khi điều kiện và bối cảnh thay đổi.

3. Định hướng kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh

Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng tiếp cận năng lực tập trung vào các định hướng sau:

[i] Chuyển từ chủ yếu đánh giá kết quả học tập cuối môn học, khóa học [đánh giá tổng kết] nhằm mục đích xếp hạng, phân loại sang sử dụng các loại hình thức đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ sau từng chủ đề, từng chương nhằm mục đích phản hồi điều chỉnh quá trình dạy học [đánh giá quá trình];

[ii] Chuyển từ chủ yếu đánh giá kiến thức, kĩ năng sang đánh giá năng lực của người học. Tức là chuyển trọng tâm đánh giá chủ yếu từ ghi nhớ, hiểu kiến thức, … sang đánh giá năng lực vận dụng, giải quyết những vấn đề của thực tiễn, đặc biệt chú trọng đánh giá các năng lực tư duy bậc cao như tư duy sáng tạo;

[iii] Chuyển đánh giá từ một hoạt động gần như độc lập với quá trình dạy học sang việc tích hợp đánh giá vào quá trình dạy học, xem đánh giá như là một phương pháp dạy học;

[iv] Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, đánh giá: sử dụng các phần mềm thẩm định các đặc tính đo lường của công cụ [độ tin cậy, độ khó, độ phân biệt, độ giá trị] và sử dụng các mô hình thống kê vào xử lý phân tích, lý giải kết quả đánh giá.

Với những định hướng trên, đánh giá kết quả học tập các môn học, hoạt động giáo dục của học sinh ở mỗi lớp và sau cấp học trong bối cảnh hiện nay cần phải:

- Dựa vào cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng [theo định hướng tiếp cận năng lực] từng môn học, hoạt động giáo dục từng môn, từng lớp; yêu cầu cơ bản cần đạt về kiến thức, kĩ năng, thái độ [theo định hướng tiếp cận năng lực] của học sinh của cấp học.

- Phối hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì, giữa đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh, giữa đánh giá của nhà trường và đánh giá của gia đình, cộng đồng.

- Kết hợp giữa hình thức đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan và tự luận nhằm phát huy những ưu điểm của mỗi hình thức đánh giá này.

- Có công cụ đánh giá thích hợp nhằm đánh giá toàn diện, công bằng, trung thực, có khả năng phân loại, giúp giáo viên và học sinh điều chỉnh kịp thời việc dạy và học.

Việc đổi mới công tác đánh giá kết quả học tập môn học của giáo viên được thể hiện qua một số đặc trưng cơ bản sau:

a] Xác định được mục đích chủ yếu của đánh giá kết quả học tập là so sánh năng lực của học sinh với mức độ yêu cầu của chuẩn kiến thức và kĩ năng [năng lực] môn học ở từng chủ đề, từng lớp học, để từ đó cải thiện kịp thời hoạt động dạy và hoạt động học.

b] Tiến hành đánh giá kết quả học tập môn học theo ba công đoạn cơ bản là thu thập thông tin, phân tích và xử lý thông tin, xác nhận kết quả học tập và ra quyết định điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học. Yếu tố đổi mới ở mỗi công đoạn này là:

[i] Thu thập thông tin: thông tin được thu thập từ nhiều nguồn, nhiều hình thức và bằng nhiều phương pháp khác nhau [quan sát trên lớp, làm bài kiểm tra, sản phẩm học tập, tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau,...]; lựa chọn được những nội dung đánh giá cơ bản và trọng tâm, trong đó chú ý nhiều hơn đến nội dung kĩ năng; xác định đúng mức độ yêu cầu mỗi nội dung [nhận biết, thông hiểu, vận dụng,...] căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng; sử dụng đa dạng các loại công cụ khác nhau [đề kiểm tra viết, câu hỏi trên lớp, phiếu học tập, bài tập về nhà,...]; thiết kế các công cụ đánh giá đúng kĩ thuật [câu hỏi và bài tập phải đo lường được mức độ của chuẩn, đáp ứng các yêu cầu dạng trắc nghiệm khách quan hay tự luận, cấu trúc đề kiểm tra khoa học và phù hợp,...]; tổ chức thu thập được các thông tin chính xác, trung thực. Cần bồi dưỡng cho học sinh những kĩ thuật thông tin phản hồi nhằm tạo điều kiện cho học sinh tham gia đánh giá và cải tiến quá trình dạy học.

[ii] Phân tích và xử lý thông tin: các thông tin định tính về thái độ và năng lực học tập thu được qua quan sát, trả lời miệng, trình diễn,... được phân tích theo nhiều mức độ với tiêu chí rõ ràng và được lưu trữ thông qua sổ theo dõi hàng ngày; các thông tin định lượng qua bài kiểm tra được chấm điểm theo đáp án/hướng dẫn chấm – hướng dẫn đảm bảo đúng, chính xác và đáp ứng các yêu cầu kĩ thuật; số lần kiểm tra, thống kê điểm trung bình, xếp loại học lực,… theo đúng quy chế đánh giá, xếp loại ban hành.

[iii] Xác nhận kết quả học tập: xác nhận học sinh đạt hay không mục tiêu từng chủ đề, cuối lớp học, cuối cấp học dựa vào các kết quả định lượng và định tính với chứng cứ cụ thể, rõ ràng; phân tích, giải thích sự tiến bộ học tập vừa căn cứ vào kết quả đánh giá quá trình và kết quả đánh giá tổng kết, vừa căn cứ vào thái độ học tập và hoàn cảnh gia đình cụ thể. Ra quyết định cải thiện kịp thời hoạt động dạy của giáo viên, hoạt động học của học sinh trên lớp học; ra các quyết định quan trọng với học sinh [lên lớp, thi lại, ở lại lớp, khen thưởng,…]; thông báo kết quả học tập của học sinh cho các bên có liên quan [Học sinh, cha mẹ học sinh, hội đồng giáo dục nhà trường, quản lý cấp trên,…]. Góp ý và kiến nghị với cấp trên về chất lượng chương trình, sách giáo khoa, cách tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục,...

Trong đánh giá thành tích học tập của học sinh không chỉ đánh giá kết quả mà chú ý cả quá trình học tập. Đánh giá thành tích học tập theo quan điểm phát triển năng lực, không giới hạn vào khả năng tái hiện tri thức mà chú trọng khả năng vận dụng tri thức trong việc giải quyết các nhiệm vụ phức hợp.

Cần sử dụng phối hợp các hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá khác nhau. Kết hợp giữa kiểm tra miệng, kiểm tra viết, bài tập thực hành; kết hợp giữa trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan. Kiểm tự luận thường đòi hỏi cao về tư duy, óc sáng tạo và tính lôgic của vấn đề, đặc biệt là sự thể hiện những ý kiến cá nhân trong cách trình bày, tuy nhiên không bao quát được hết kiến thức chương trình giáo dục phổ thôngc và kết quả kiểm tra nhiều khi còn phụ thuộc vào năng lực của người chấm bài. Kiểm tra trắc nghiệm khách quan với ưu là thích hợp với quy mô lớn, học sinh không phải trình bày cách làm, số lượng câu hỏi lớn nên có thể bao quát được kiến thức toàn diện của học sinh, việc chấm điểm trở nên rất đơn giản dựa trên mẫu đã có sẵn, có thể sử dụng máy để chấm cho kết quả rất nhanh, đảm bảo được tính công bằng, độ tin cậy cao. tuy nhiên nhược điểm của hình thức này là không thể hiện được tính sáng tạo, lôgic của khoa học và khả năng biểu cảm trước các vấn đề chính trị, xã hội, con người của đất nước, nhiều khi sự lựa chọn còn mang tính may mắn. Do đó việc kết hợp hai hình thức kiểm tra này sẽ phát huy được những ưu điểm và hạn chế bớt những nhược điểm của mỗi hình thức kiểm tra.

Tài liệu tham khảo

1. Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo.

2. Tài liệu tập huấn đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh các môn học, Vụ Giáo dục Trung học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2014.

3. Website: //tusach.thuvienkhoahoc.com.

Gửi email
In trang

02[96]/2016

Mục lục

  • 0.Dẫn nhập
  • 1.Đánh giá kết quả học tập của sinh viên
  • 2.Vai trò tích cực của việc “đánh giá quá trình” hoạt động học tập của sinh viên
  • 3.Một số lưu ý và đề xuất đối với việc áp dụng đánh giá quá trình
  • 4.Kết luận
  • 5.Tài liệu tham khảo

Chia sẻ, đánh giá những thành tựu trong nghiên cứu, giảng dạy Việt Nam học

Thứ Năm, 28-10-2021, 20:16

Facebook Email Bản in +

Các đại biểu tham dự diễn đàn.

Chiều 28/10, Đại học Quốc gia Hà Nội phối hợp Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam tổ chức diễn đàn khoa học “Việt Nam học: Thành tựu và triển vọng”, thu hút hơn 300 nhà quản lý, nhà khoa học trong nước và quốc tế tham dự theo hình thức trực tiếp và trực tuyến.

Theo GS, TS Lê Quân, Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, Diễn đàn là không gian tụ hội các nhà khoa học, nhà quản lý, nhà hoạt động xã hội cùng chia sẻ, đánh giá những thành tựu, chỉ ra những vấn đề tồn tại, hạn chế cũng như xác định đường hướng phát triển của ngành Việt Nam học trong thời gian sắp tới.

Thông qua diễn đàn sẽ tăng cường kết nối, mở rộng giao lưu, hợp tác, phát triển mạng lưới Việt Nam học toàn cầu trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh thực hiện công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa, chủ động hội nhập sâu rộng với thế giới trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Các học giả cùng đóng góp cho sự phát triển bền vững thông qua những sáng kiến, đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, xã hội, góp phần nâng cao vị thế và vai trò, cũng như quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam với thế giới...

Tại diễn đàn, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu đã đưa ra những phân tích, đánh giá, nhận định và các giải pháp cho nghiên cứu, đào tạo ngành Việt Nam học. GS, TSKH Vũ Minh Giang, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Đại học Quốc gia Hà Nội, cho rằng nghiên cứu Việt Nam dưới tiếp cận của từng khoa học chuyên ngành đã được thực hiện ở cả trong và ngoài nước từ nhiều thế kỷ trước nhưng nghiên cứu với tư cách là một khoa học liên ngành dựa trên những lý thuyết và phương pháp mới chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ trong khoảng hơn nửa thế kỷ gần đây.

Vì vậy, những vấn đề cần thảo luận là: Thực trạng Việt Nam học trong nước và thế giới 5 năm qua; Việt Nam học có đóng góp gì cho sự phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa; đóng góp gì cho sự chủ động hội nhập và phát triển giữa nước ta và thế giới; giải pháp nào tăng cường hơn nữa mạng lưới phối hợp chia sẻ, cộng tác giữa các cơ sở nghiên cứu về Việt Nam trên toàn thế giới; hợp tác đào tạo Việt Nam học theo chuẩn quốc tế...

Tham dự trực tuyến từ Nga, GS, TSKH Vladimir Kolotov chia sẻ về hoạt động của Viện Hồ Chí Minh của Trường đại học Tổng hợp Quốc gia St.Petersburg. Theo đó, Viện Hồ Chí Minh là đơn vị đầu tiên và duy nhất ngoài lãnh thổ Việt Nam được thành lập tại Trường ĐH Tổng hợp Quốc gia St.Petersburg. Trong suốt 11 năm qua, Viện Hồ Chí Minh hoạt động theo khái niệm trục trong 7 lĩnh vực chính: Ngoại giao nhân dân, nghiên cứu khoa học, phân tích, thẩm định, tư vấn, văn hóa, giáo dục, kinh tế. Trong khi GS Furuta Motoo, Hiệu trưởng Trường đại học Việt Nhật [Đại học Quốc gia Hà Nội] đã chỉ ra những thách thức hiện tại và triển vọng hướng tới tương lai, nhất là phát triển ngành Việt Nam học theo định hướng khu vực học để làm sáng tỏ vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế và định nghĩa lại bản sắc Việt Nam.

Cũng tại diễn đàn, các nhà khoa học đã chia sẻ một số kinh nghiệm giảng dạy ngành Việt Nam học tại Trường đại học Charles, Cộng hòa Séc; nghiên cứu về Việt Nam gắn phát triển kinh tế với trách nhiệm bảo vệ môi trường và phát triển bền vững và nhiều trao đổi, thảo luận khoa học về Việt Nam...

XUÂN KỲ

“Việt Nam học: Thành tựu và triển vọng” phát triển ngành Việt Nam học

Facebook Twitter Link EmailQuay lại

Những thành tựu đổi mới, sáng tạo trong giáo dục

Thứ Hai, 25-01-2021, 01:11

Facebook Email Bản in +

Giờ học của học sinh Trường tiểu học Khu đô thị Sài Ðồng [quận Long Biên, Hà Nội].

Giai đoạn 2016 - 2020 là ngành giáo dục tiếp tục thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020 và triển khai thực hiện nhiều định hướng, chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo [GD và ÐT] của Ðảng và Nhà nước. Ngành giáo dục đã xây dựng kế hoạch để triển khai chín nhóm nhiệm vụ và năm nhóm giải pháp cơ bản. Ðể triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp nêu trên, Bộ trưởng GD và ÐT đã phát động phong trào thi đua "Ðổi mới, sáng tạo trong dạy và học" giai đoạn 2016 - 2020, đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong đổi mới giáo dục phổ thông và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Trọngtâm giai đoạn 2016-2020, toàn ngành giáo dục đã thực hiện chín nhóm nhiệm vụ chủ yếu và năm giải pháp căn bản. Ðối với chín nhóm nhiệm vụ chủ yếu gồm: Rà soát, quy hoạch lại mạng lưới cơ sở GD và ÐT trong cả nước; nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp; công tác phân luồng và định hướng nghề nghiệp cho học sinh phổ thông; nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh ở các cấp học và trình độ đào tạo; ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy, học và quản lý giáo dục; đẩy mạnh giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các cơ sở giáo dục đại học; hội nhập quốc tế trong GD và ÐT; tăng cường cơ sở vật chất bảo đảm chất lượng các hoạt động GD và ÐT; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Năm giải pháp thực hiện gồm: Hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính về GD và ÐT; nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ quản lý giáo dục các cấp; tăng cường các nguồn lực đầu tư cho GD và ÐT; tăng cường công tác khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục; đẩy mạnh công tác truyền thông về GD và ÐT.

Ðến nay, sau 5 năm, các lĩnh vực thuộc chín nhóm nhiệm vụ chủ yếu, năm nhóm giải pháp cơ bản đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện GD và ÐT theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW. Trong đó, khung pháp lý cho đổi mới GD và ÐT được hoàn thiện. Bộ GD và ÐT đã trình Chính phủ để trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018 và Luật Giáo dục năm 2019. Trong đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học đã tháo gỡ những điểm nghẽn trong việc giao quyền tự chủ cho các trường đại học; Luật Giáo dục 2019 đã làm rõ tính liên thông, phân luồng trong giáo dục… Cả nước duy trì và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, trong đó hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Kết quả và chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học được giữ vững và nâng cao. Tất cả 63 tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2 và đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 1. Nhiều địa phương đã đạt tỷ lệ 100% học sinh học 2 buổi/ngày, tạo tiền đề thuận lợi để chuẩn bị cho việc triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới.

Chất lượng giáo dục phổ thông [cả đại trà và mũi nhọn] được nâng lên, được quốc tế ghi nhận là một trong 10 hệ thống giáo dục hàng đầu của thế giới nằm ở khu vực Ðông Á - Thái Bình Dương. Theo báo cáo năm 2020 của Ngân hàng Thế giới về vốn nhân lực, chỉ số vốn nhân lực của Việt Nam đứng thứ 38/174 nền kinh tế; trong đó, thành phần kết quả giáo dục của Việt Nam đứng thứ 15, tương đương với các nước như Hà Lan, Niu Di-lân, Thụy Ðiển. Kết quả thi Ô-lim-pích khu vực và quốc tế cũng đặc biệt xuất sắc. Giai đoạn 2016-2020, Bộ GD và ÐT cử nhiều đoàn học sinh Việt Nam tham dự kỳ thi Ô-lim-pích các môn văn hóa với 174 lượt em dự thi và đạt những kết quả cao, với 170 giải thưởng, gồm: 54 Huy chương vàng, 68 Huy chương bạc, 40 Huy chương đồng, tám bằng khen. Kết quả qua từng năm đều có bước tiến bộ vượt bậc, nhiều học sinh Việt Nam đạt điểm số cao nhất ở các nội dung thi. Năm 2020, tất cả 24 thí sinh Việt Nam tham dự các kỳ thi Ô-lim-pích khu vực và quốc tế đều đoạt giải. Trong đó, tất cả bốn thí sinh đội tuyển Hóa học đoạt Huy chương vàng, xếp thứ 2 thế giới [sau đội tuyển quốc gia Mỹ]. Số Huy chương vàng mà học sinh Việt Nam đạt được trong giai đoạn 2016-2020 nhiều gấp đôi giai đoạn 2011-2015.

Ðối với triển khai chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới, Bộ GD và ÐT đã ban hành chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, chương trình môn học; thẩm định, phê duyệt năm bộ sách giáo khoa lớp 1 để đưa vào sử dụng trong năm học 2020 - 2021. Ðây là lần đầu tiên chương trình giáo dục phổ thông được xây dựng một cách đồng bộ các môn học, hoạt động giáo dục ở tất cả các cấp, lớp học theo hướng bảo đảm nội dung tinh gọn, giảm số môn bắt buộc; tăng môn học, chủ đề và hoạt động giáo dục tự chọn, xây dựng một số môn tích hợp. Ðồng thời, xã hội hóa, xóa bỏ độc quyền sách giáo khoa phổ thông, tiết kiệm cho ngân sách nhà nước trong việc biên soạn sách giáo khoa mới; trao quyền tự chủ lựa chọn sách về các trường phổ thông, giúp phù hợp đặc điểm vùng, miền. Bộ GD và ÐT đã ban hành đầy đủ các chuẩn đối với đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục giáo dục mầm non, phổ thông; áp dụng nhiều giải pháp nhằm giảm áp lực, tạo động lực cho giáo viên. Xây dựng và triển khai lộ trình đào tạo bồi dưỡng giáo viên theo chuẩn mới, theo chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới bảo đảm tiến độ, chất lượng.

Ðáng chú ý, thi, kiểm tra, đánh giá được quan tâm, bảo đảm thực chất và hiệu quả. Trong đó, kiểm tra đánh giá được triển khai theo hướng phát triển năng lực người học; kết hợp giữa đánh giá kết quả và đánh giá quá trình. Kỳ thi tốt nghiệp THPT được tổ chức khách quan, công bằng và minh bạch; giảm áp lực và tốn kém cho xã hội; tránh học lệch học tủ; hạn chế tối đa gian lận trong thi cử; cung cấp thông tin tin cậy phục vụ đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông và là một trong các căn cứ tuyển sinh đại học, giáo dục nghề nghiệp.

Bên cạnh đó, tự chủ trong giáo dục đại học có nhiều đột phá; phân quyền và giao quyền tự chủ cho các trường đại học được mở rộng. Các trường đã đẩy mạnh hoạt động, số lượng các chương trình mở mới tăng trong khi quy mô gia tăng hợp lý. Các chỉ số nghiên cứu, công bố quốc tế cũng tăng mạnh. Năm 2020, cả nước có 17.028 bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế trong danh mục Scopus, ISI, tăng hơn năm 2019 là 4.462 bài. Trong đó, số bài báo quốc tế trong các cơ sở giáo dục đại học là 16.346 bài. Các trường đại học chú trọng xây dựng các nhóm nghiên cứu để tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế. Việc hình thành các nhóm nghiên cứu đóng vai trò quyết định sự thành công, vị thế của các trường đại học. Các trường đại học còn chú trọng đến những sản phẩm nghiên cứu mang tính ứng dụng cao...

Cóthể nói phong trào "Ðổi mới, sáng tạo trong dạy và học" giai đoạn 2016 - 2020 trong toàn ngành giáo dục đã khơi dậy tinh thần đổi mới, sáng tạo của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục trong công tác giảng dạy, giáo dục, quản lý và nghiên cứu khoa học; phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh, sinh viên trong học tập, rèn luyện, nghiên cứu khoa học và khởi nghiệp; mỗi tập thể là nơi kiến tạo, hỗ trợ để mỗi giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và học sinh, sinh viên có môi trường thuận lợi phát huy tối đa phẩm chất, năng lực cá nhân. Với việc thực hiện hiệu quả phong trào "Ðổi mới, sáng tạo trong dạy và học" nhằm thực hiện hiệu quả chín nhóm nhiệm vụ chủ yếu và năm nhóm giải pháp đã góp phần mang lại nhiều kết quả nổi bật, thúc đẩy đổi mới căn bản, toàn diện GD và ÐT.

Mạnh Xuân

Facebook Twitter Link EmailQuay lại

Video liên quan

Chủ Đề