Vẻ đẹp tâm hồn của người thanh niên cộng sản trong bài thơ Từ ấy

Dàn ý số 1

I. Mở bài:

– Giới thiệu những nét khái quát nhất về tác giả Tố Hữu và bài thơ "Từ ấy".

– Giới thiệu khái quát vấn đề cần nghị luận: Lý tưởng của thanh niên ngày nay thông qua bài thơ "Từ ấy".

II. Thân bài:

* Lý tưởng là gì?

– Lý tưởng là những mục đích sống tốt đẹp, là lẽ sống, mục đích phấn đấu của mỗi người và từng ngày, từng giờ họ đang không ngừng cố gắng, nỗ lực để đạt được nó.

– Lí tưởng luôn có vai trò, ý nghĩa to lớn đối với tất cả mọi người, trong mọi thời đại.

Lý tưởng của thanh niên ngày nay qua bài thơ "Từ ấy"

– Lí tưởng của thanh niên thể hiện rõ nét ở sự giác ngộ lý tưởng của người thanh niên trẻ tuổi.

+ Từ ấy chính là mốc thời gian, là giây phút hạnh phúc khi tác giả đón nhận được ánh sáng lý tưởng của Đảng, được đứng vào hàng ngũ của Đảng.

+ Hình ảnh "mặt trời chân lý" là một hình ảnh ẩn dụ, Đảng chính là mặt trời, là ánh sáng tuyệt diệu soi sáng, dẫn đường, chỉ lối cho giai cấp vô sản, cho nhân dân đến những ngày tháng tươi đẹp.

+ Giây phút ấy, với người thanh niên hiện lên bao nỗi niềm rạo rực lên niềm sung sướng, hạnh phúc đến khôn nguôi.

– Lí tưởng ấy đầu tiên được thể hiện ở lẽ sống tốt đẹp, sống chan hòa, đoàn kết với mọi người, hòa cái tôi cá nhân vào trong cái ta chung của cả cộng đồng, dân tộc.

+ Động từ "buộc" đã thể hiện sự tự nguyện gắn bó, thắt chặt với những người xung quanh.

+ Các từ láy "trang trải", "gần gũi" đã thể hiện sự mở lòng, mở rộng trái tim, vòng tay của mình để thấu hiểu, để cảm thông, để gắn bó với mọi người.

– Lí tưởng của người thanh niên qua bài thơ "Từ ấy" còn được thể hiện ở lối sống yêu thương đồng bào, không phân biệt giai cấp, dân tộc.

+ Sử dụng cấu trúc khẳng định "đã là" đã thể hiện ý thức tự giác và sự chắc chắn trong tác giả.

+Sử dụng phép liệt kê "con của vạn nhà', "em của vạn kiếp phôi pha", "anh của vạn đầu em nhỏ" kết hợp với điệp từ là và các từ ngữ xưng hô "con", "em", "anh", nhà thơ đã cụ thể hóa mối quan hệ của mình với các thành viên trong gia đình.

III. Kết bài:

– Khái quát lại vấn đề nghị luận và nêu cảm nhận của bản thân.

Dàn ý số 2

I.Mở bài

Giới thiệu tác giả tác phẩm.

Tố Hữu là nhà thơ tiên phong của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. “Từ ấy” là tập thơ đầu tay của tác giả, là tập hợp những tác phẩm của Tố Hữu trong hoảng thời gian 1937-1946. Bài thơ “Từ ấy” là bài thơ được rút từ phần “Máu lửa” của tập thơ trên. Tác phẩm với nét thơ trong sáng đã đã lại cho người đọc nhiều ấn tượng từ giá trị nội dung đến đặc sắc về nghệ thuật.

II.Thân bài

1. Khổ một

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim…”

Hình ảnh ẩn dụ “nắng hạ”, “mặt trời chân lý” chỉ ánh sáng của lí tưởng. Lí tưởng giống như một nguồn ánh sáng cao cả, rực rỡ, chiếu rạng qua tâm hồn nhà thơ. Lí tưởng của Đảng là nguồn sáng kì diệu như mặt trời dẫn dắt, soi đường cho người thanh niên yêu nước.

Các động từ mạnh: “Bừng”: ánh sáng phát ra đột ngột; “Chói”: chiếu rọi mạnh mẽ, rạng rỡ. Hai động từ kết hợp đã nhấn mạnh sự thay đổi hoàn toàn trong nhân vật trữ tình.

Hình ảnh so sánh “Hồn tôi là một vườn hoa lá/ Rất đậm hương và rộn tiếng chim…”: khu vườn tâm hồn của nhà thơ vừa rộn ràng tiếng ca của sức sống vừa ngọt ngào của tình yêu. Khu vườn được tắm trong ánh sáng của lí tưởng và nhà thơ cũng xốn xang cảm giác đắm say, ngây ngất.

Tố Hữu không chỉ đến với lí tưởng bằng nhận thức, lí trí mà còn bằng trái tim rực rỡ tình yêu.

2. Khổ hai

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Các từ “buộc”, “trang trải”, “gần gũi” thể hiện sự tự nguyện gắn bó của nhân vật trữ tình. “Buộc” là sự gắn kết, “trang trải” là san sẻ còn “gần gũi” là gắn nó giao cảm.

Đại từ “tôi” được đặt trong mối liên hệ với “mọi người”, với “trăm nơi” và “bao hồn khổ”. Trong tình hữu ái giai cấp, nhân vật trữ tình vì thế không thấy mình là cái tôi riêng lẻ mà trở thành một phần của “khối đời” lao khổ.

Tố Hữu đã gắn kết với cuộc sống của mình với cuộc sống của nhân dân một cách tự nhiên như thế.

3.Khổ 3

“Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm, cù bất cù bơ…”

Đâị từ nhân xưng “tôi” được chuyển thành “em”, “anh” trong các câu thơ tiếp theo. Qua đó đã thể hiện sự gắn bó giữ chủ thể trữ tình của quần chúng nhân dân lao khổ. Đó không chỉ là mối đồng cảm của những người cùng chung cảnh ngộ mà còn là cùng chung một gia đình. Nhà thơ đã định nghĩa một lẽ sống lớn: lẽ sống chan hòa, gắn bó với nhân dân lao khổ.

Điệp từ “là” và phép điệp cấu trúc cùng với số từ đã thể hiện sự vô hạn, nhân mạnh gia đình mà nhà thơ gắn kết là gia đình là gia đình nhân loại rộng lớn , là tập hợp của những kiếp sống đau khổ lầm than.

4.Đánh giá

a.Nội dung:

Thể hiện niềm vui sướng, say mê mãnh liệt của nhà thơ trong buổi đầu tìm đến lí tưởng, gắn bó, hòa hợp với nhân dân.

Bài thơ là khúc ca về hành trình tìm đến lí tưởng của người thanh niên giàu lòng yêu nước một lòng theo ánh sáng của Đảng.

b.Nghệ thuật:

Giọng say mê, náo nức, lí tưởng được cảm nhận bằng chất men của tình yêu.

Ngôn ngữ, hình ảnh thơ tươi sáng, trẻ trung.

III.Kết bài

Nêu cảm nhận của bản thân về tác phẩm.

Dàn ý số 3

I. MỞ BÀI

1. Hoàn cảnh ra đời

   Từ ấy là bài thơ có ý nghĩa mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thi ca của Tố Hữu, là cái mốc đánh dấu thời điểm [1937] và được kết nạp Đảng năm 1938 – Tố Hữu giác ngộ và gặp ánh sáng lí tưởng cộng sản. Đó cũng chính là tuyên ngôn nghệ thuật của Tố Hữu. Tự nhận định về Từ ấy, anh viết: "Từ ấy: là một tâm hồn trong trẻo của tuổi mười tám, đôi mươi đi theo lí tưởng cao đẹp, dám sống, dám đấu tranh".

2. Nội dung

   Tâm nguyện cao đẹp của người thanh niên trẻ trung nhiệt tình cách mạng: Niềm say mê mãnh liệt và vui sướng tràn trề cùng với nhận thức mới về lẽ sống, sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn khi gặp gỡ và được giác ngộ lí tưởng cộng sản.

3. Tứ thơ

   Tứ thơ "Từ ấy" bắt nguồn từ cảm hứng của thời điểm Tô Hữu đón nhận lí tưởng cách mạng.

II. Thân b

1. Khổ 1: Diễn tả niềm vui sướng, say mê khi gặp lí tưởng của Đảng

   – Hai câu đầu viết theo bút pháp tự sự: "Từ ấy trong tôi…" Từ ấy, là lúc nhà thơ mới vào tuổi 18 thật trẻ trung được mặt trời "chân lí" cách mạng soi sáng đường đời. Hình ảnh ẩn dụ "nắng hạ" cho nguồn nhiệt lượng cách mạng làm bùng sáng tâm hồn nhà thơ, "mặt trời chân lí" là một liên kết đầy sáng tạo giữa hình ảnh và ngữ nghĩa. Câu thơ ca ngợi ánh sáng điệu kì của cách mạng. Đó là thứ ánh sáng của tư tường cộng sản – ánh sáng của những công bình xã hội, của chân lí xã hội.

– Hai câu thơ sau của khổ thơ đầu, chợt vụt thoát bay bổng, dạt dào cảm hứng lãng mạn. Những vang động và vui tươi tràn ngập trong tâm hồn được so sánh bằng những hình ảnh và âm thanh lấy từ thiên nhiên tạo vật: "vườn hoa lá", "đậm hương" "rộn tiếng chim".

   – Đón nhận ánh sáng cách mạng là Tố Hữu đã đón nhận một con đường thênh thang tươi sáng cho cuộc đời, cho hồn thơ: một cuộc đời có ý nghĩa thiêng liêng, to lớn, một hồn thơ bát ngát tình yêu cách mạng, yêu đồng bào.

2. Khổ 2: Biểu hiện những nhận thức về lẽ sông

   – Hai dòng đầu : nhà thơ khẳng định quan niệm mới mẽ về lẽ sống là sự gắn bó hài hòa giữa "cái tôi" cá nhân với "cái ta" chung của mọi người.

   – Động từ "buộc" là một ngoa dụ để thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm sắt đá của Tố Hữu để vượt qua "ranh giới" của "cái tôi" để chan hòa mọi người "Tôi buộc lòng tôi với mọi người".

– Từ đó, tâm hồn nhà thơ vươn đến "trăm nơi" [hoán dụ] và "trang trải" sẻ chia bằng những đồng cảm sâu sắc, chân thành và tự nguyện đến với những con người cụ thể.

Soạn bài Từ ấy [Tố Hữu] hay nhất

Tác giả – tác phẩm bài Từ ấy [Tố Hữu]

Trắc nghiệm bài Từ ấy [có đáp án]

   – Hai dòng thơ sau bộc lộ tình yêu thương con người bằng tình yêu giai cấp rõ ràng. Nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ "Để hồn tôi với bao hồn khổ" và từ đó như một biện chứng mang cái tất yếu là sức mạnh tổng hợp "Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời". Ta cũng gặp điều đó trong thơ Nguyễn Khoa Điềm — nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ xâm lược: "khi chúng ta cầm tay mọi người – Đất nước vẹn tròn, to lớn".

   Tóm lại, Tố Hữu đã khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và đời sống, mà chủ yếu là cuộc sống của quần chúng nhân dân.

3. Khổ 3: Sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn nhà thơ

   – Trước khi gặp cách mạng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Khi ánh sáng cách mạng như "Mặt trời chân lí chói qua tim", đã giúp nhà thơ vượt qua những tầm thường ích kỉ trong đời sống tâm hồn chật hẹp để vươn đến một tình yêu "vẹn tròn to lớn".

   – Nhà thơ tự nhận mình "là con của vạn nhà" trong nghĩa đồng bào thiêng liêng nhất; là em của "vạn kiếp phôi pha" gần gũi bằng tình cảm xót thương những kiếp đời lao khổ, bất hạnh, những kiếp sống mòn mỏi, đáng thương; là anh của "vạn đầu em nhỏ" "cù bất cù bơ". Từ những cảm nhận ấy đã giúp nhà thơ say mê hoạt động cách mạng với những thiết tha cao đẹp công hiến đời mình góp phần giải phóng đất nước, giải phóng những kiếp lầm than trong xã hội tăm tối dưới bóng thù xâm lược.

III. Kết bài

   – Hồn thơ Tố Hữu chứa chan tình yêu giai cấp và niềm biết ơn sâu sắc cách mạng.

   – Thơ Tố Hữu rõ ràng là thơ trữ tình – chính luận, hướng người đọc đến chân trời tươi sáng.

  – Tiếng nói trong thơ là tiếng nói của một nhà thơ vô sản chân chính.

   – Giọng thơ chân thành, sôi nổi, nồng nàn.

   – Hình ảnh thơ tươi sáng, ngôn ngữ giàu tính dân tộc.

Dàn ý số 4

1. Tác giả

– Tố Hữu là bút danh của Nguyễn Kim Thành sinh năm 1920 tại Thừa Thiên – Huế. Ông là nhà thơ lớn của nền thi ca cách mạng Việt Nam. Cuộc đời thơ của Tố Hữu gắn liền với cuộc đời cách mạng của ông.

– Tác phẩm “Từ ấy” [1937 – 1946], “Việt Bắc” [1954] ,”Gió lộng”, [1961], “Ra trận” [1972], “Máu và hoa” [1977]…

2. Xuất xứ, chủ đề

– Bài thơ Từ ấy được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7-1938, nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của Tố Hữu.

– Bài thơ Từ ấy nói lên niềm vui sướng hạnh phúc của một thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng cách mạng của Đảng, thêm yêu đời và gắn bó với nhân dân cần lao.

3. Nội dung cảm nhận

a. Từ ấy là lúc, là khi nhà thơ được giác ngộ cách mạng, một kỉ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng cách mạng, mà sau này, ông nói rõ trong một số bài thơ: “Mẹ không còn nữa, con còn Đảng — Dìu dắt con đi chửa biết gì” [Quê mẹ]

“Mặt trời chân lí” là hình ảnh ẩn dụ ca ngợi lí tưởng cách mạng, ca ngợi chủ nghĩa Cộng sản đã soi sáng tâm hồn, đã “chói qua tim” đem lại ánh sáng cuộc đời như “bừng” lên trong nắng hạ – một cách nói rất mới, rất thơ về lí tưởng.

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Lí tưởng cách mạng đã làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc đời. So sánh để khẳng định một sự kiện biến đổi kì diệu mà lí tưởng cách mạng đem lại.

Hồn ta là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

“Hồn” đã trở thành “vườn hoa lá” một vườn xuân đẹp ngọt ngào hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót. Đây là khổ thơ hay nhất, đậm đà màu sắc lãng mạn nhất trong thơ Tố Hữu. Ngoài việc sáng tạo hình ảnh ẩn dụ [mặt trời chân lí], tác giả lựa chọn sử dụng từ ngữ rất chính xác, hình tượng và gợi cảm” bừng”, “chói”, “đậm”, “rộn” để diễn ta thay hay niềm say mê lí tưởng “Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng” [Agagông – Pháp]

b. Hai khổ thơ [2,3] nói lên sự gắn bó với nhân dân, những người nghèo khổ [buộc, trang trải, gần gũi] yêu thương nhân dân bằng một tình yêu giai cấp [là con…, là em.., là anh…]. Cũng là một cách nói nồng nàn của một hồn thơ trẻ trung, sôi nổi. Tố Hữu nay đã già nhưng bài thơ Từ ấy vẫn trẻ và đẹp mãi.

Dàn ý số 5

1. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Tố Hữu và phong cách thơ của ông

     + Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca cách mạng, chặng đường thơ ăn nhập với chặng đường cách mạng của dân tộc.

     + Thơ ông mang đậm tính trữ tình – chính trị, là tiếng lòng của những lẽ sống lớn, tình cảm lớn và luôn đậm tính dân tộc.

– Giới thiệu khái quát về bài thơ Từ ấy

     + Rút ra từ tập thơ cùng tên, tiêu biểu cho hồn thơ Tố Hữu

     + Thể hiện niềm hạnh phúc, vui sướng của thi sĩ khi được đứng vào hàng ngũ của Đảng

2. Thân bài

a, Nhan đề “Từ ấy”

– “Từ ấy” chính là thời điểm Tố Hữu được đứng vào hàng ngũ của Đảng – tháng 7 năm 1938.

–  Trong khổ thơ thứ nhất của bài thơ tác giả đã lặp lại nhan đề ấy như một sự nhấn mạnh thời điểm nhà thơ giác ngộ lí tưởng cách mạng

b, Khổ 1

– Hai câu thơ đầu:

     + Sử dụng hình ảnh ẩn dụ

          * Nắng hạ” là cái là thứ nắng chói chang, rực rỡ, mạnh mẽ và qua đó, tác giả muốn nhấn mạnh niềm vui sướng trào dâng trong khoảnh khắc tìm thấy lí tưởng của Đảng,

          * “mặt trời chân lí” là cách nói ẩn dụ nhằm nhấn mạnh ánh sáng của Đảng

     + Sử dụng động từ mạnh “bừng”, “chói”

=> Khẳng định lí tưởng cộng sản như một nguồn sáng mới làm bừng sáng cả trí tuệ và tâm hồn nhà thơ

– Hai câu thơ còn lại:

     + Nghệ thuật so sánh

     + Sử dụng hình ảnh thơ tươi sáng

=> Niềm vui sướng, hạnh phúc khôn nguôi của tác giả khi bắt gặp lí tưởng cách mạng

c, Khổ 2

– Sử dụng hàng loạt các động từ thể hiện sự gắn bó, gần gũi: :buộc, trang trải, gần gũi

– Hình ảnh ẩn dụ “khối đời” nhằm chỉ một khối người đông đảo, là đại diện cho tinh thần đoàn kết dân tộc cùng

– Quan hệ từ “với” và điệp từ “để”

=> Khổ thơ thể hiện nhận thức mới của tác giả về một lẽ sống mới – lẽ sống hòa cái tôi cá nhân vào trong cái ta chung của cộng đồng để tạo nên sức mạnh đoàn kết cho dân tộc

d, Khổ 3

– Câu thơ mở đầu cấu trúc khẳng định “Tôi đã là…” cùng điệp từ “là”

– Từ ngữ chỉ quan hệ gia đình, huyết thống: con, anh, em

– Sử dụng từ ngữ có giá trị biểu cảm cao “kiếp phôi pha”, “cù bất cù bơ” đã cho thấy tấm lòng đồng cảm, xót thương tới những kiếp người đau khổ, bất hạnh, những con người lao động vất vả của thi sĩ.

=> Khổ thơ thứ ba đã cho thấy sự chuyển biến trong tình cảm của tác giả, đó là một tình cảm lớn, cao đẹp.

3. Kết bài

– Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ

– Qua bài thơ, giúp chúng ta hiểu hơn về đặc điểm thơ Tố Hữu

Video liên quan

Chủ Đề