Vì sao nói ca dao thể hiện đời sống nói tâm của những người nông dân trong xã hội cũ

QĐND - Chúng tôi quan niệm thành ngữ, tục ngữ là những viên ngọc quý mà ở đó kết tinh những nhận định, đánh giá, triết lý về con người. Khảo sát tục ngữ, thành ngữ Việt để tìm hiểu văn hóa Việt cũng là một cách để xem xét phát huy cái gì, loại bỏ cái gì trong thời đại hội nhập hôm nay.

Hai nét đặc trưng cơ bản của nông thôn Việt Nam cổ truyền là tính cộng đồng và tính tự trị. Tính cộng đồng tập thể được thể hiện rất rõ ở tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau. Đây là một trong những đức tính tốt đẹp góp phần hun đúc nên lòng yêu nước mạnh mẽ, tinh thần nhân văn đậm đà ở người Việt. Nhưng cũng chính đặc tính cộng đồng này lại “đẻ” ra một loạt tâm lý tiểu nông, ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của xã hội Việt Nam.

Điểm dễ thấy ở người Việt là tâm lý dựa dẫm ỷ lại vào tập thể, cá nhân không dám nhận trách nhiệm: “Cha chung không ai khóc”, “Đắm đò chết chung”, “Có lụt thì lút cả làng”. Một khi sống dựa vào tập thể thì ý thức cá nhân bị mờ đi, “Khôn độc không bằng ngốc đàn”. Có xấu thì cả làng đều xấu: “Toét mắt là tại hướng đình/ Cả làng toét mắt riêng mình em đâu”. Từ tâm lý dựa dẫm ỷ lại vào tập thể mà nảy ra tư tưởng cào bằng “Xấu đều hơn tốt lỏi”, “Anh nhất thì tôi cũng nhì/ Ai hơn tôi nữa tôi thì thứ ba”, nó dìm con người trong cái ao tù “trung bình chủ nghĩa” không tạo điều kiện cho những sáng tạo cá nhân bứt phá. Điều này góp phần lý giải tại sao qua hàng mấy ngàn năm lịch sử chúng ta không có những bác học lỗi lạc về khoa học kỹ thuật-công nghệ, một lĩnh vực đòi hỏi những tư tưởng mang tính cá nhân đột phá, lóe sáng.

Cuộc đời người nông dân gắn chặt với lũy tre làng, với mảnh ruộng, với ngôi nhà thân thuộc. Có người cả đời không bước ra khỏi cái làng của mình. Với nghề làm ruộng thì gần như độc canh cây lúa, mà cây lúa lại có “tính cách” quen với một vùng đất thích hợp “Khoai đất lạ, mạ đất quen” nên người nông dân lại càng ngại đi xa để làm ăn mở mang tầm nhìn mà chỉ muốn “an cư lạc nghiệp”. Từ đó nảy ra tâm lý cầu an là điều dễ hiểu. Tâm lý cầu an không phải là xấu. Bài ca dao “Người ta đi cấy lấy công” có lẽ tiêu biểu cho nét tâm lý này. Làm ruộng là một nghề rất bấp bênh, phụ thuộc nhiều vào thời tiết nên người nông dân trông mong vào trời vào đất [Trông trời, trông đất, trông mây], trông mong vào sự thái bình của thiên hạ [Trời yên bể lặng], trông mong vào chính mình có sức khỏe tốt [Trông cho chân cứng đá mềm]. Điều này chứng tỏ người Việt ưa cuộc sống thanh bình, tĩnh lặng, ngại sự thay đổi. Nếu người phương Tây sống trong xã hội công nghiệp một năm có thể thay đổi chỗ ở đến vài lần, thu nhập phần lớn dành cho việc du lịch nghỉ ngơi thì ngược lại, người tiểu nông sống trong xã hội văn minh nông nghiệp cả đời có khi chỉ sống một nơi, một chốn, thu nhập có thừa thì ki bo chắt bóp để dành tiết kiệm phòng lúc mùa màng thất bát hay lúc ốm đau, là người già thì dành việc “hậu sự”… Ta cũng dễ hiểu, ở Việt Nam khi tiến hành xây dựng một công trình, thì công tác giải phóng mặt bằng là trở lực lớn nhất.

Cầu an cũng có nghĩa là “Dĩ hòa vi quý”. Con người ta sống trong tập thể, nhờ tập thể, gắn bó với tập thể nên sinh ra một tư tưởng rất sợ mất đoàn kết nên luôn lấy cái hòa hiếu làm trọng. Một khi “Một bồ cái lý không bằng một tý cái tình” thì có nghĩa là pháp luật bị xếp xuống hàng thứ yếu mà ứng xử với nhau theo cái tình. Đó là thứ tâm lý vị tình. Người Việt không có truyền thống tôn trọng luật pháp vì quen với lối sống “Chín bỏ làm mười”. Người ta quen nín nhịn, nín nhịn cả với điều “Trái tai gai mắt” để “Một điều nhịn chín điều lành”. Sống trong một cộng đồng dân cư khép kín người ta cư xử với nhau bằng “lệ”, “lệ” hiểu theo nghĩa rộng là các tục lệ đã trở thành tập quán của mỗi làng; hiểu theo nghĩa hẹp là những tục lệ được “quy chế hóa” thành văn bản, tức hương ước. Mà “Phép vua thua lệ làng”, “phép vua” ở đây được hiểu là pháp luật chung, người ta có thể bỏ qua pháp luật mà sống theo tập quán địa phương.

Tính cộng đồng của người Việt rất cao, cao đến mức người ta coi nhau như “anh em trong nhà” mà bằng chứng rõ nhất là qua cách xưng hô với một hệ thống đại từ nhân xưng phong phú chỉ “người nhà”: Ông bà, chú bác, cô dì… Vì là “anh em trong nhà” nên “đóng cửa bảo nhau”, “Tốt khoe ra, xấu xa đậy lại”, rất nhiều vụ việc người ta không cần đến sự can thiệp của pháp luật mà “xí xóa” để “hòa cả làng”. Thứ tâm lý cầu an, dĩ hòa vi quý, vị tình này là một thứ trở ngại không nhỏ trong việc xây dựng một xã hội sống và làm việc theo pháp luật. “Anh em sinh đôi” với các nét tâm lý cầu an, dĩ hòa vi quý, vị tình là tư tưởng cả nể “Vuốt mặt nể mũi”, “Rút dây sợ động rừng”. Về thực chất, tư tưởng cả nể là giải quyết công việc theo “cái tình”, nhất là trong công tác bổ nhiệm cán bộ quản lý, rất không hay cho phát triển.

Cả đời gắn bó với khoảnh ruộng nho nhỏ, với mảnh vườn con con, với con trâu, con lợn, đàn gà… Có một ít thóc trong bồ, một ít khoai, ngô trên gác bếp… nên tâm lý tư hữu đã “thâm căn cố đế” người nông dân hàng ngàn đời nay. Đó là tâm lý sở hữu tuyệt đối cái của mình làm ra: “Của ai nấy xót”, “Của ai tai nấy”, “Của ai phúc nấy”, “Của là cuống ruột”… Điều này là chính đáng, nhưng nó bị đẩy đi đến một giới hạn nào đó thì thành tư hữu ích kỉ, tức chỉ biết đến của mình còn của người khác thì mặc kệ: “Của mình thì giữ bo bo/ Của người thì để cho bò nó ăn”… vì “Ai có thân người ấy lo, ai có bò người ấy giữ”, “Bè ai người nấy chống/ Ruộng ai người ấy đắp bờ”. Đó là thứ tâm lý đáng chê trách.

Sống trong một làng quây quần vài chục, nhiều thì trên trăm nóc nhà, nhà ai có việc gì hoặc điều tiếng gì thì chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn, chuyện xảy ra ở đầu làng, cuối làng đã biết. Thế là “Sớm lửa tối đèn” có nhau. Người ta “Bán anh em xa mua láng giềng gần”, sống vì nhau, cho nhau và theo nhau, do vậy dư luận đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống. Người ta sống theo dư luận và tự mình điều chỉnh ứng xử theo dư luận đó. Dư luận tạo ra tiếng tăm, tai tiếng, điều tiếng “Hổ chết để da, người ta chết để tiếng”, “Trăm năm bia đá thì mòn/ Nghìn năm bia miệng hãy còn trơ trơ”. Điều này làm nảy sinh tâm lý sĩ diện cá nhân, thích có tên tuổi, có tiếng. Mảnh đất làng xã Việt Nam cổ truyền được coi như mảnh đất màu mỡ để hạt giống ý thức hệ Nho giáo “cấy” vào. Nho giáo đã có những nét tích cực rất đáng kể, đóng góp vào sự phát triển của xã hội phong kiến Việt Nam nhưng bên cạnh đó nó cũng tạo ra những nét tiêu cực như răn dạy con người ta học để làm quan, phải để lại danh: “Làm trai sống ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông” [Nguyễn Công Trứ]. Cần phải hiểu danh có cả nghĩa tích cực và tiêu cực. Thế là xuất hiện tình trạng ngày xưa thì “mua tước mua quan”, ngày nay thì “chạy chức, chạy quyền”...

Ở trên chúng tôi đã chứng minh một số tâm lý tiểu nông, có thể gọi là tiêu cực của người Việt được biểu hiện qua thành ngữ, tục ngữ. Bài viết hy vọng sẽ là sự đặt vấn đề cho việc nghiên cứu tâm lý, tính cách người Việt ở phía mặt trái, một việc làm thiết nghĩ cũng rất cần thiết để người Việt ta vươn lên hội nhập.

CAO THỊ SÍNH

Đề bài: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Người xưa muốn nhắn nhủ điều gì trong câu ca dao ấy?

Bạn đang xem: Người xưa muốn nhắn nhủ điều gì trong câu ca dao: Nhiễu điều phủ lấy giá gương…

I. Dàn ý Người xưa muốn nhắn nhủ điều gì trong câu ca dao: Nhiễu điều phủ lấy giá gương…
 

1. Mở bài

Trong kho tàng những câu tục ngữ hay những ca dao dân ca xa xưa, bàn về lòng đoàn kết, về tình yêu nước, thương nòi, về sự đùm bọc thương yêu của những con người chúng nguồn cội dân tộc, ông ta đã gửi gắm qua câu ca dao:

” Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”

2. Thân bài

– Giải thích, cắt nghĩa câu ca dao:+ “giá gương”- vật được chạm khắc một cách tỉ mỉ, tinh xảo, được dùng để đặt di ảnh của ông bà, tổ tiên mình.+ “Nhiễu điều” tấm khăn được làm từ vải tốt có màu đỏ để phủ lên nhằm bảo vệ “giá gương”.-> “Nhiễu điều phủ lấy giá gương”: Hình ảnh ấy ẩn dụ cho tình yêu thương, sự đùm bọc chở che của con dân nước Việt.+ “Người trong một nước” chính là nhân dân Việt Nam, là những người có chung nòi giống con Rồng, cháu Tiên.+ ” Phải thương nhau cùng”: Nhấn mạnh đến tinh thần đoàn kết, yêu thương, gắn bó giữa con người với con người trong cộng đồng.

+ Đưa ra một vài dẫn chứng về tinh thần đoàn kết, gắn bó keo sơn:

– Vai trò của tình yêu thương, ý thức đùm bọc, gắn bó:–  Sự đùm bọc, thương yêu nhau còn góp phần xây dựng một xã hội ngày càng phát triển hơn, xây dựng nước nhà ngày một đi lên.

–  Khi cả dân tộc trở thành một khối vô cùng thống nhất, mỗi người dân là một khối thống nhất.

3. Kết bài

Mỗi người dân Việt, đặc biệt là những thế hệ học sinh như chúng ta phát huy tinh thần và trách nhiệm của mình để dựng xây nên một dân tộc Việt Nam văn minh, giàu mạnh.
 

II. Bài văn mẫu Người xưa muốn nhắn nhủ điều gì trong câu ca dao: Nhiễu điều phủ lấy giá gương…

Văn học dân gian- những giá trị tinh thần vô cùng quý giá mà ông cha đã để lại cho con cháu đời sau luôn chứa đựng những bài học vô cùng giá trị, những lời khuyên răn chân thành và sâu sắc. Đặc biệt là trong kho tàng những câu tục ngữ hay những ca dao dân ca xa xưa, khi bàn về tinh thần đoàn kết, gắn bó ông cha ta có viết:

” Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”

Người xưa thường lấy “nhiễu điều” tấm khăn được làm từ vải tốt có màu đỏ để phủ lên “giá gương”- vật được chạm khắc một cách tỉ mỉ, tinh xảo, được dùng để đặt di ảnh của ông bà, tổ tiên mình. Dùng nhiễu điều phủ lấy giá gương nhằm giữ cho giá gương luôn sạch sẽ, không bị dính bụi bẩn. Từ hình ảnh thực trong thực tiễn, ông cha ta đã gửi gắm những bài học sâu sắc về tình yêu thương, sự đùm bọc chở che của con dân nước Việt ta tự bao đời. “Người trong một nước” chính là nhân dân Việt Nam, là những người có chung nòi giống con Rồng, cháu Tiên. “Phải thương nhau cùng” nhấn mạnh đến lối sống đoàn kết, tình nghĩa biết yêu , biết thương, biết đùm bọc, giúp đỡ nhau , biết cùng nhau dựng xây đất nước, biết cùng nhau đoàn kết, sánh vai mình với thế giới, năm châu.

Câu ca dao nhẹ nhàng mà sao nặng lòng đến vậy. Những gì mà cha ông truyền dạy luôn mang sức sống vững bền. Xưa kia, Lạc Long Quân và u Cơ tuy chia con cái mang về biển hay lên non, sông núi cách biệt nhưng vẫn luôn dõi theo nhau, dặn dò nhau khi gặp khó khăn cùng nhau sẻ chia, gánh vác, giúp đỡ nhau vượt qua. Thời kỳ trung đại, Đại Việt bị quân xâm lược Mông – Nguyên tiến vào cướp nước, nhân dân ta cùng nghĩa quân gắng sức dẹp đổ quân thù, giành lại chủ quyền, non sông, gấm vóc. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ cứu nước, tinh thần đoàn kết lại càng được phát huy rõ nét hơn. Miền Bắc giải phóng, được sống trong hoà bình thì gắng sức, cùng nhau hỗ trợ miền Nam chiến đấu, giải phóng đến ngày hoà bình thống nhất. Khúc ruột miền Trung thân yêu nối hai đầu đất nước, dải đất hình chữ S không còn bóng dáng quân thù, nguồn cội dân tộc được hát bài ca vẻ vang thống nhất nước nhà.

Trong thời đại hôm nay, khi nước ta ngày một giàu mạnh và phát triển hơn rất nhiều, lòng yêu thương, đùm bọc nhau của con dân một nước lại càng thể hiện rõ hơn bao giờ hết. Đó là những tiếng lòng yêu thương của đồng bào khắp nơi trên đất nước, là tiếng lòng nhân ái của những người con Việt Nam định cư ở nước ngoài khi nhìn thấy cảnh hoang tàn, nhà cửa ngập chìm trong dòng lũ nơi miền Trung ruột thịt. Họ đâu, họ đã rơi nhưng dòng nước mắt thương cảm, xót xa khi thiên tai khiến cho bao người phải chịu cảnh mát người thân, bao gia đình phải ly tán,..rồi từ niềm thương ấy biến thành những hành động kịp thời và thiết thực nhất khi chúng tay kêu gọi, chung tay ủng hộ, giúp đỡ phần nào những khốn khó lúc này của người dân. Bao quỹ từ thiện được thành lập, những hoạt động xây dựng nhà tình nghĩa, xây giếng nước sạch, tạo điều kiện cho những người nông dân có điều kiện chăn nuôi,…đều góp phần sản sẻ, giúp ích cho đời sống họ lúc này. Còn gì cảm thương hơn khi “tình thần tương thân tương ái” nhân rộng đến như thế, ai cũng góp phần sức mình giúp đỡ những kiếp người chịu nhiều bất hạnh, thương đau. Và còn đây nữa bao lòng thương yêu sự đùm bọc lẫn nhau của con người chúng nguồn cội. Đó là em học sinh nhờ mẹ giặt sạch đống quần áo cũ để quyên góp cho những người bạn vùng núi còn thiếu thốn, là chiếc bánh bao nóng hổi của chị hàng rong nơi ngõ hẻm dành cho cụ ăn xin đang đói rét giữa mưa đông. Tất cả đều thật đẹp, đều đáng quý và đáng được trân trọng, gìn giữ biết bao.

Sức mạnh của cội nguồn, cùng dòng máu cha ông, sức mạnh của tình thương yêu, đùm bọc và đoàn kết là rất mạnh mẽ, lớn lao. Nó mang đến cho mỗi người sự hạnh phúc, niềm vui bởi chính việc làm ý nghĩa của mình, nó mang đến cho những người được giúp đỡ niềm ủi an, mang ánh sáng nhen nhóm nơi cuối con đường của tăm tối.

Sự đùm bọc, thương yêu nhau còn góp phần xây dựng một xã hội ngày càng phát triển hơn, xây dựng nước nhà ngày một đi lên. Khi cả dân tộc trở thành một khối vô cùng thống nhất, mỗi người dân là một thành phần, một nhân tố không thể thiếu, dẫu đang trong lãnh thổ Việt Nam hay ở nước bạn xa xôi thì vẫn chung một ý chí, một nhiệt huyết dựng xây đất nước. Ai cũng cống hiến sự đẹp đẽ của đời mình góp phần vào sự huy hoàng của Tổ quốc.

Ấy vậy mà, đâu đây, ta vẫn còn thấy những kẻ ích kỉ chỉ biết đến mỗi mình bản thân, gia đình mình. Họ tàn nhẫn đến mức đi vùi dập danh dự, nhân phẩm của người khác bằng những comment chửi rủa, adua tục tĩu trên Facebook. Họ đi phán xét, chê bai sự cố gắng của người khác, họ nhục mạ thành tích của người khác bằng những cái nhìn phiến diện luôn cho mình là đúng là giỏi. Và có những kẻ lạnh lùng đến đáng sợ trước cái chết thương tâm của cộng đồng mình, họ cười thầm trên những gian truân, khốn khó và thất bại của người khác. Tôi thiết nghĩ, với những con người như thế làm sao họ có thể sống ý nghĩa được, lòng trắc ẩn của họ có có hay không? Tình thần dân tộc của họ đang ở đâu? Giữa vô vàn những chông chênh, những cạm bẫy, những khó khăn trong cuộc đời mà một ai trong chúng ta gặp phải hay một ai khác phải đối mặt thì chúng ta cần phải mong cầu cho họ vượt qua, nếu có thể hãy giúp đỡ họ bằng chính những khả năng mà mình có thể làm được. Hãy nêu cao tinh thần của cộng đồng, tinh thần dân tộc, thương nhau, đùm bọc nhau, thấu hiểu nhau.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói rằng: “Đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. Hy vọng rằng, mỗi người dân Việt, đặc biệt là những thế hệ học sinh như chúng ta phát huy tinh thần và trách nhiệm của mình để dựng xây nên một dân tộc Việt Nam văn minh, giàu mạnh.

Người xưa muốn nhắn nhủ điều gì trong câu ca dao: Nhiễu điều phủ lấy giá gương… là đề văn số 2 Bài tập làm văn số 6, Ngữ văn 7. Để hoàn thành bài Tập làm văn với kết quả tốt, các em học sinh có thể tham khảo một số Bài văn hay lớp 7 khác như: “Mùa xuân là tết trồng cây/Làm cho đất nước càng ngày càng xuân”. Bác Hồ muốn khuyên dạy điều gì qua hai dòng thơ này? Vì sao việc trồng cây trong mùa xuân của đất trời lại có thể góp phần làm nên mùa xuân của đất trời lại có thể góp phần làm nên mùa xuân của đất nước?, Hãy giải thích ý nghĩa của câu tục ngữ: “Thất bại là mẹ thành công”, Dân gian có câu: “Lời nói gói vàng”, đồng thời lại có câu: “Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Qua hai câu trên, em hãy cho biết dân gian đã hiểu như thế nào về giá trị, ý nghĩa của lời nói trong cuộc sống?, Em hãy giải thích nội dung lời khuyên của Lê-nin: “Học, học nữa, học mãi”.

Đăng bởi: THPT Sóc Trăng

Chuyên mục: Giáo Dục

Video liên quan

Chủ Đề