Di tích khảo cổ cổ bao nhiều loại hình

Giới thiệu về cuốn sách này

Vườn Chuối – Đi qua ba nền văn hóa
Cách trung tâm Hà Nội khoảng 20km, thuộc địa bàn thôn Lai Xá, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, di chỉ khảo cổ Vườn Chuối sở hữu một kho tàng vô giá những thông tin, tư liệu thông qua các hiện vật, cổ vật… của ba nền văn hóa Đông Sơn, Gò Mun và Đồng Đậu. 

Sau mười đợt khai quật, kể từ năm 1968 đến nay, các nhà khoa học đã tìm thấy 1.000 hiện vật đá với các nhóm công cụ lao động, đồ trang sức và các loại hình hiện vật khác, 40 hiện vật đồng gồm cả công cụ sản xuất, vũ khí cùng khoảng 300 viên xỉ đồng li ti lẫn trong các khu bếp lửa. Các nhà khoa học cũng phát hiện ra các loại mảnh tre, gỗ có vết chặt, đẽo, gọt, cùng với xương răng động vật, chủ yếu là trâu bò và một ít mảnh vỏ ốc. Số lượng đồ gốm thu được khá lớn, ước tính khoảng hơn 10 nghìn mảnh, tương đương với một tấn gốm.

Nhiều dấu tích liên quan đến sinh hoạt hằng ngày của con người thời Tiền Đông Sơn – Đông Sơn, gồm các khu bếp đun nấu, vết tích lò nấu đồng, các hố đất đen, hố chân cột, vết tích nền sân hoặc nền kiến trúc… cũng được phát hiện tại các hố khai quật ở Vườn Chuối.

Đặc biệt, ở Vườn Chuối, còn tập trung một số lượng không ít mộ táng, gồm 15 ngôi mộ táng Đông Sơn, trong đó có 13 mộ huyệt đất và hai mộ quan tài gốm. Đây cũng là nơi có số lượng mộ táng lớn được tìm thấy tập trung tại một địa điểm ở Hà Nội. 13 mộ huyệt đất đều là mộ chôn nằm thẳng, theo nhiều hướng khác nhau, và di cốt đều ở trong tình trạng rất mục nát. Có năm mộ kèm theo đồ tùy táng gồm đồ đồng, gốm, những mộ còn lại không có. Hai mộ quan tài gốm là mộ nồi vò, tuy nhiên đây cũng có khả năng là đồ tùy táng của các mộ huyệt đất nào đó chưa được phát hiện ra…

Với một số lượng hiện vật rất nhiều và trải qua ba tầng văn hóa, di chỉ khảo cổ Vườn Chuối vô cùng có giá trị về mặt lưu giữ thông tin, lịch sử…, cho chúng ta thấy sơ bộ những phác thảo về đời sống, xã hội con người qua nhiều giai đoạn lịch sử ở đây, từ các hoạt động sống hằng ngày, các ngành nghề thủ công sơ khai, các ngành chế tác… cho đến vết tích của nghề nông, săn bắt, chài lưới…

Cổ Loa - Kinh đô sớm

Cố Loa hai lần được chọn làm kinh đô. Thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, An Dương Vương đặt kinh đô nước Âu Lạc tại Cổ Loa. Sau đó, một lần nữa Cổ Loa lại trở thành kinh đô nước Đại Việt sau chiến thắng của Ngô Quyền sau khi ông thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Ðằng năm 938. 
Cổ Loa cách trung tâm Hà Nội khoảng gần 20km, có diện tích bảo tồn gần 500 ha, thuộc ba xã Cổ Loa, Dục Tú và Việt Hùng thuộc huyện Đông Anh (Hà Nội). Cổ Loa có cấu trúc đặc biệt với kiểu xây dựng hình ốc, ngày nay còn lại ba vòng thành dài hơn 16km. Cổ Loa gắn với truyền thuyết trước đây về mối tình Mỵ Châu – Trọng Thủy và vị vua An Dương Vương tin con mà mất nước. 

Các nhà khoa học đã phát hiện ra ở Cổ Loa nhiều hiện vật cổ quan trọng, minh chứng quá trình phát triển liên tục của cư dân ở đây trải qua các nền văn hóa Phùng Nguyên, Ðồng Ðậu, Gò Mun, Ðông Sơn. Ngoài ra còn có 60 di tích khác, trong đó có bảy di tích được xếp hạng cấp quốc gia, ba di tích xếp hạng di tích thành phố: Ðền Thượng (nơi thờ An Dương Vương), đình Ngự triều di quy (tương truyền là nơi An Dương Vương thiết triều), am Mỵ Châu... Ngày 27-9-2012, Thủ tướng Chính phủ đã công nhận Khu Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ Cổ Loa là Khu Di tích quốc gia đặc biệt.

Đình Tràng – Bốn giai đoạn văn hóa

Di chỉ Đình Tràng thuộc thôn Đình Tràng (Dục Tú, Đông Anh, Hà Nội) nằm ở phía đông Cổ Loa, cách trung tâm Hà Nội khoảng hơn 12 km. Đình Tràng có diện tích khoảng 15 nghìn m2, trong đó diện tích khai quật khoảng gần 300m2. Đình Tràng được đánh giá là một di chỉ khảo cổ đặc biệt quan trọng bởi tại đây đã tìm ra những hiện vật, tư liệu liên quan đến bốn giai đoạn văn hóa gồm Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn. 

Di tích khảo cổ cổ bao nhiều loại hình
 Di chỉ Đình Tràng. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

Tại Đình Tràng, các nhà khảo cổ còn tìm thấy rất nhiều mộ táng thời Đông Sơn. Có tổng số 17 mộ đều là mộ đất. Hầu hết các mộ táng này đều ở tình trạng xương cốt mục nát, một số còn giữ lại hộp sọ. Hầu hết các mộ đều có đồ tùy táng kèm theo bằng gốm hoặc đồng...

Thành Dền – Điển hình của văn hóa Đồng Đậu

Di chỉ khảo cổ học Thành Dền thuộc thôn Phú Mỹ, xã Tự Lập, Mê Linh, có diện tích khai quật gần 560m2. Di chỉ khảo cổ này đã trải qua bảy lần khai quật từ năm 1972 đến năm 2013. Các nhà khảo cổ đã phát hiện nhiều hiện vật gồm đồ đồng, đá, xương…, các vết tích sinh hoạt của cư dân cổ như lò đúc đồng, cụm đất nung, mộ táng… thuộc giai đoạn văn hóa Đồng Đậu.

Theo TS khảo cổ học Nguyễn Anh Thư, tại Thành Dền đã phát hiện được dấu tích của chín lò nấu kim loại đắp bằng đất sét còn khá nguyên vẹn, số lượng lớn di vật là khuôn đúc, mảnh khuôn đúc, lõi khuôn, mảnh gốm vụn dính xỉ đồng, mảnh nồi nấu đồng, đồ đồng, các cục xỉ đồng là phế phẩm của quá trình luyện kim. Đây là những minh chứng chắc chắn về sự phát triển của một cơ sở chế tác đồ đồng quy mô lớn ở Thành Dền.

Ngoài ra, các nhà khoa học cũng tìm thấy những dấu tích của nghề trồng lúa nước và thủ công nghiệp với trình độ chuyên môn hóa cao. TS Nguyễn Anh Thư cho biết, những bằng chứng này cho thấy sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của những cộng đồng cư dân cổ ở khu vực Hà Nội ngày nay, và có thể khẳng định Thành Dền là một trong những di tích quan trọng nhất thuộc giai đoạn tiền Đông Sơn ở châu thổ sông Hồng.

Cần có biện pháp bảo vệ

Ngoại trừ khu di tích Hoàng thành Thăng Long hiện đang nằm trong danh sách Di sản văn hóa thế giới, các di tích còn lại đều đang trong tình trạng bị xâm lấn, thậm chí có nguy cơ biến mất vĩnh viễn trước nhu cầu phát triển kinh tế của đô thị hiện đại. 

Vườn Chuối nằm trong dự án đường vành đai 3.5, và hiện nay, khi các nhà khoa học đang tiếp tục tiến hành đợt khai quật mới nhất kể từ sau khi dịch Covid-19 bùng phát, công trình xây dựng đường vành đai 3.5 vẫn tiếp tục và đã đè lên phần lớn diện tích khu di chỉ khảo cổ này. Trong nhiều năm qua, các nhà khoa học, người dân đã liên tục kêu cứu lên các cơ quan chức năng để có thể giữ lại một phần di chỉ khảo cổ quan trọng này. Mong muốn lớn nhất của các nhà khoa học cũng như người dân địa phương là có thể giữ được một phần diện tích của Vườn Chuối để xây dựng công viên khảo cổ, vừa phục vụ công tác bảo tồn, vừa để tuyên truyền, giảng dạy…

Tương tự Vườn Chuối, Cổ Loa nằm trong khu vực đông dân cư, nhu cầu phát triển dân sinh đã khiến cho Cổ Loa ngày càng bị thu hẹp lại. Trước khi được xếp hạng di tích, đã có các công trình xây dựng, nhà ở riêng tư, hệ thống giao thông… tồn tại từ trước đó. Những vi phạm ở Cổ Loa cũng rất phức tạp, vừa các công trình xây dựng, vừa canh tác nông nghiệp, nuôi thả cá, gia súc…, ngoài ra còn bị rác, phế thải xây dựng xâm lấn.

Với Đình Tràng, tình trạng cũng không khá hơn, khi các công trình dân sinh, sân vận động… đang ngày càng lấn sâu vào di chỉ khảo cổ này. Hiện nay, cũng chưa có nhiều cuộc khai quật được thực hiện tại Đình Tràng cho tương xứng với tầm vóc và giá trị của di chỉ. 

Thành Dền cũng đang chịu chung số phận như vậy. TS khảo cổ học Nguyễn Anh Thư cho biết, mặc dù có những giá trị cao nhưng cho đến nay Thành Dền vẫn không thuộc danh sách các di tích, di chỉ được bảo vệ. Địa điểm này cũng có nguy cơ xóa sổ do hoạt động canh tác của người dân địa phương. 

Có thể nói, hiếm địa phương nào như Hà Nội, sở hữu những di chỉ khảo cổ có giá trị cao về lịch sử, văn hóa, chứa đựng những thông tin, tư liệu giúp chúng ta hình dung ra cuộc sống của con người ở trên chính vùng đất này vào buổi bình minh của lịch sử. Những giá trị quý giá đó, nếu không có cách bảo tồn, gìn giữ, chúng ta sẽ không thể tiếp tục kể cho con cháu mai sau những câu chuyện về tổ tiên trên chính mảnh đất này.
 

Trên nền tảng của những yếu tố nội sinh và ngoại sinh, văn hóa Óc Eo hình thành và phát triển mạnh ở khu vực đồng bằng Nam Bộ trong khoảng 10 thế kỷ đầu Công nguyên. Năm 1879, những cổ vật đầu tiên của nền văn hóa này đã được bác sĩ A.Corre thông báo trong tập san “Excursions et Reconnaisances”. Từ năm 1937, L.Malleret đã tiến hành khảo sát, nghiên cứu một vài địa điểm văn hóa Óc Eo trong vùng Ba Thê và ghi nhận hàng loạt di tích phân bố trên các gò thấp, hệ thống kênh cổ. Nhờ nghiên cứu không ảnh, ông đã xác định được dấu vết của thành phố cổ Óc Eo. Và, qua khai quật khảo cổ, L.Malleret cũng đã xác định được vòng thành cổ và nhận định, đây là một đô thị cổ, hay còn gọi là thị cảng Óc Eo. Tên gọi văn hóa Óc Eo được đặt theo tên địa điểm gò Óc Eo, được phát hiện và công bố năm 1942.

Di tích khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Óc Eo - Ba Thê gồm các loại hình tiêu biểu sau:

Di tích kiến trúc: thường có niên đại kéo dài từ giai đoạn tiền Óc Eo đến giai đoạn hậu kỳ Óc Eo, phân bố ở quanh sườn và chân núi Ba Thê, Linh Sơn Nam, Linh Sơn Bắc, gò Danh Sang...

- Linh Sơn tự (chùa Linh Sơn) được xây dựng bên trên nền móng của một công trình kiến trúc cổ. Trong chùa hiện đang lưu giữ tượng thần Vishnu, hai bia đá và nhiều hiện vật có giá trị. Chùa Linh Sơn đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia năm 1988.

- Tại địa điểm gò Út Trạnh, các nhà khảo cổ đã phát hiện một tổng thể kiến trúc gạch, gồm ba hạng mục chính, được xây thẳng hàng và cách đều nhau, dàn trải theo trục Bắc- Nam, cửa quay hướng Đông... Kiến trúc này nằm trong hệ thống tường bao hình chữ nhật, có diện tích khoảng 500m2. Đây là một loại hình kiến trúc tôn giáo hoàn toàn mới tại khu vực Óc Eo - Ba Thê và miền Tây Nam Bộ, được xây dựng và sử dụng vào thế kỷ VII và thế kỷ VIII - IX sau Công nguyên.

- Gò Cây Trôm (Dwl Samron), thuộc địa phận ấp Trung Sơn, xã Vọng Thê. Khi tiến hành khai quật tại đây, các nhà khảo cổ đã phát hiện được dấu tích một công trình kiến trúc cổ, xây bằng gạch và nhiều hiện vật gắn với hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng (con dấu, bùa đeo). Ngoài ra, các nhà khảo cổ còn phát hiện được 01 linga bằng đá, cao 1,7m, niên đại thế kỷ V - VII.

Di chỉ cư trú: phân bố trên địa bàn rộng, tiêu biểu như ở các địa điểm: Ba Thê, gò Tư Trâm, gò Cây Me 2, gò Cây Da... Các di chỉ này đều có tầng văn hóa dày trung bình từ 1m trở lên, nằm dưới lớp đất màu xám đen chứa mảnh gốm, gạch vỡ, xương động vật, công cụ bằng gỗ, bát gáo dừa, cọc gỗ, vò gốm thô, chum nhỏ, nồi đáy tròn. Đặc biệt, tại di tích gò Cây Da đã phát hiện dấu vết của kiến trúc nhà sàn (có thể được dựng trên mặt đất hoặc trên mặt nước), với những cọc gỗ tập trung thành nhóm trên cánh đồng, ven chân gò và cả dưới lòng lung...

Di chỉ mộ táng gồm các loại hình sau:

Mộ vò gốm: phát hiện ở khu vực Linh Sơn Nam, với miệng loe xiên, thành miệng rộng, có nắp đậy, bên trong chứa năm hạt chuỗi bằng vàng, một hạt chuỗi mã não (bị vỡ), niên đại vào khoảng những năm 40 - 70 sau Công nguyên.

- Mộ huyệt đất: mộ phát hiện ở khu vực gò Tư Trâm có hình chữ nhật, dọc theo hai bờ vách vẫn còn dấu vết của những thân gỗ mục, in dấu tấm đệm đan bằng cỏ lác trải rộng khắp bề mặt; đáy mộ có dấu vết xương cốt bị phân hủy. Những phát hiện trên đã chỉ ra rằng, ngôi mộ này có cùng niên đại với tầng văn hóa cư trú sớm nhất ở trên gò.

- Mộ hỏa táng: phát hiện tại các khu vực gò Cây Cóc, gò Ông Côn, gò Đôi, gò A7, thường có hình vuông hoặc hình chữ nhật, được xây bằng gạch, hoặc xếp đá, chính giữa để một lỗ vuông thông suốt, bên dưới lớp cát trắng chứa các lá vàng, chuỗi hạt bằng đá quý...

Di chỉ xưởng: những chuỗi hạt thành phẩm và bán thành phẩm, đá thủy tinh với đủ loại hình, màu sắc, chất liệu và kích thước khác nhau phát hiện tại gò Óc Eo chứng tỏ nơi đây đã từng tồn tại những xưởng thủ công có quy mô lớn.

Hệ thống giao thông thủy: lung Giếng Đá còn có tên gọi khác là lung Lớn (Antun Bhtak Kay), dài 30km, chạy theo hướng Bắc - Đông Bắc, Nam - Tây Nam, từ Tráp Đá qua vịnh Thái Lan, đến Nền Chùa (Tà Kèv). Trong lòng lung đã phát hiện được nhiều hiện vật khảo cổ, như cọc gỗ, gốm cổ, vật dụng, đồ trang sức bằng đồng và gỗ…

Baray (hồ chứa nước): nằm trong khu đất nhà bà Út Nguyên, thuộc ấp Trung Sơn, thị trấn Óc Eo. Hồ có hình vuông, bao quanh bởi bờ kè, hai bên hồ nước có hai dòng suối chảy vào.

Vì những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích, ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Óc Eo - Ba Thê là Di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 1419/QĐ-TTg).

Cảnh Toàn (Theo Hồ sơ xếp hạng di tích, tư liệu Cục Di sản văn hóa)