Hướng dẫn điều trị đtđ típ 2 ở việt nam

Insulin là bắt buộc đối với tất cả bệnh nhân đái tháo đường típ 1 nếu không có insulin, bệnh nhân sẽ bị toan ceton; insulin cũng rất hữu ích cho việc quản lý của nhiều bệnh nhân đái tháo đường típ 2.

Điều trị thay thế insulin ở bệnh nhân đái tháo đường típ 1 nên bắt trước chức năng tế bào beta sử dụng 2 loại insulin để cung cấp nhu cầu nền và bữa ăn (thay thế sinh lý hoặc liều tấn công cơ bản) Các lựa chọn bao gồm tiêm nhiều lần hàng ngày với 2 loại insulin dưới da hoặc insulin tác dụng nhanh hoặc ngắn được cung cấp bởi một máy bơm insulin để quản lý tốc độ cơ bản của insulin và bổ sung liều lượng trong bữa ăn hoặc để điều chỉnh lượng đường trong máu cao. Cả hai chiến lược đều yêu cầu chú ý chặt chẽ đến chế độ ăn uống và tập thể dục cũng như thời gian và liều lượng insulin.

Khi insulin cần cho bệnh nhân đái tháo đường típ 2, kiểm soát đường huyết có thể đạt được với insulin nền kết hợp với thuốc hạ đường huyết không insulin, dù vậy insulin bữa ăn có thể cần cho một số bệnh nhân.

Chế phẩm insulin dạng hít cũng có sẵn cho những bệnh nhân không muốn tự tiêm. Nó có tác dụng nhanh hơn một chút so với insulin tác dụng nhanh được tiêm dưới da.

Hầu hết dạng bào chế insulin hiện nay là insulin người tái tổ hợp, thực tế loại bỏ các phản ứng dị ứng thường gặp với thuốc khi được chiết xuất từ các nguồn động vật. Một số chất tương tự có sẵn. Những thuốc tương tự này được tạo ra bằng cách sửa đổi phân tử insulin của người để thay đổi tốc độ hấp thụ, thời gian và thời gian tác dụng.

Hướng dẫn điều trị đtđ típ 2 ở việt nam

Insulin tác dụng nhanh, gồm lispro và aspart, được hấp thụ nhanh, bởi vì đảo ngược của một cặp axit amin ngăn cản phân tử insulinliên kết thành dimer và polymer. Thuốc bắt đầu giảm glucose huyết tương thường trong 15 phút nhưng có thời gian tác dụng ngắn (< 4 giờ). Các insulin này sử dụng tốt nhất cho bữa ăn để kiểm soát đỉnh glucose huyết tương sau ăn. Insulin thông thường dạng hít là insulin tác dụng nhanh được sử dụng với bữa ăn. Nó có tác dụng khởi phát nhanh hơn một chút so với insulin tác dụng nhanh được tiêm dưới da nhưng liều lượng kém linh hoạt hơn và cần phải khám phổi định kỳ.

Insulin thông thường khởi phát chậm hơn (30 đến 60 phút) so với lispro và aspart nhưng kéo dài hơn (6 đến 8 giờ). Đây là dạng insulin duy nhất sử dụng đường tĩnh mạch.

Insulins tác dụng trung bình bao gồm insulin isophane (Neutral protamine Hagedorn, hoặc NPH) và U-500 thông thường. Sự bắt đầu tác dụng của insulin isophane là sau khi tiêm khoảng 2 giờ; hiệu quả cao nhất là sau khi tiêm 4 đến 12 giờ, và thời gian tác dụng là 18 đến 26 giờ. Insulin thông thường đậm đặc U-500 có đỉnh và thời gian tác dụng tương tự (đỉnh 4 đến 8 giờ; thời gian từ 13 đến 24 giờ) và có thể được dùng liều 2 đến 3 lần mỗi ngày.

Insulins tác dụng kéo dài, như insulin glargine, insulin detemir, và insulin glargine U-300, không giống NPH, không có đỉnh tác dụng rõ rệt và cung cấp tác dụng nền ổn định trong 24 giờ. Insulin degludec (insulin tác dụng kéo dài khác) có thời gian tác dụng kéo dài hơn 40 giờ. Thuốc được tiêm hàng ngày, và mặc dù cần 3 ngày để đạt được trạng thái ổn định, thời gian dùng thuốc ít cứng nhắc hơn.

Dạng insulin khác nhau có thể được hút vào ống tiêm giống nhau để tiêm nhưng không nên trộn sẵn trong lọ ngoại trừ nhà sản xuất. Đôi khi, trộn insulin có thể ảnh hưởng đến tốc độ hấp thu insulin, tạo ra sự thay đổi tác dụng và kiểm soát đường huyết ít tiên lượng được hơn, đặc biệt nếu trộn \> 1 giờ trước khi sử dụng. Insulin glargine không trộn với bất kỳ insulin nào khác.

Nhiều bút nạp sẵn insulin được chấp nhận để thay thế lọ và bơm tiêm. Bút insulin có thể thuận tiện hơn khi sử dụng xa nhà và thích hợp với bệnh nhân hạn chế thị lực hoặc sự khéo léo. Các dụng cụ tự tiêm thuốc (để sử dụng với bơm) có thể hữu ích cho bệnh nhân thường xuyên sợ bị tiêm, và bơm tiêm phóng đại được chấp nhận sử dụng cho bệnh nhân có thị lực kém. Các bút insulin "thông minh" giao tiếp với một ứng dụng điện thoại thông minh để theo dõi insulin được sử dụng và đưa ra các khuyến nghị về liều lượng.

  • 1. Kravarusic J, Aleppo G: Diabetes Technology Use in Adults with Type 1 and Type 2 Diabetes. Endocrinol Metab Clin North Am 49(1):37–55, 2020. doi: 10.1016/j.ecl.2019.10.006

Biến chứng phổ biến nhất là

Biến chứng không thường gặp gồm

  • Phản ứng dị ứng tại chỗ
  • Dị ứng vị trí tiêm
  • Phì đại hoặc teo mỡ cục bộ
  • Kháng thể kháng -insulin lưu hành

Hạ đường huyết là biến chứng phổ biến nhất của biến chứng điều trị insulin, xuất hiện thường hơn ở bệnh nhân cố gắng kiểm soát glucose chặt chẽ và tiếp cận mức đường huyết gần bằng không hoặc khi đường huyết không được theo dõi thích hợp. Triệu chứng hạ đường huyết nhẹ hoặc trung bình gồm đau đầu, toát mồ hôi, hồi hộp, lâng lâng, nhìn mờ, kích thích và lẫn lộn. Các triệu chứng của hạ đường huyết nặng hơn bao gồm co giật và mất ý thức. Ở những bệnh nhân cao tuổi, hạ đường huyết có thể gây ra các triệu chứng giống như đột quỵ như mất ngôn ngữ hoặc liệt nửa người và có nhiều khả năng dẫn đến đột quỵ, nhồi máu cơ tim và đột tử.

Bệnh nhân nên được chỉ dẫn để nhận biết các triệu chứng của hạ đường huyết. Bệnh nhân mắc đái tháo đường type 1 thời gian dài có thể có cơn hạ đường huyết không nhận biết vì chúng không còn gặp các triệu chứng tự động (hạ đường huyết không nhận biết).

Ở những bệnh nhân được điều trị bằng insulin hoặc thuốc hạ đường huyết (ví dụ, sulfonylurea), mức đường huyết < 70 mg/dL (< 3,9 mmol/L) được coi là hạ đường huyết và cần được điều trị để tránh giảm thêm lượng đường và hậu quả là hạ đường huyết. Các triệu chứng của hạ đường huyết thường xảy ra nhanh với việc tiêu thụ đường.

Tăng đường huyết có thể là do liều insulin trước khi đi ngủ quá cao, có thể làm giảm lượng đường và kích thích phản ứng điều hòa, dẫn đến tăng đường huyết vào buổi sáng (hiện tượng Somogyi). Một nguyên nhân phổ biến hơn của tăng đường huyết buổi sáng không giải thích được, tuy nhiên, là sự gia tăng hormone tăng trưởng buổi sáng sớm (hiện tượng bình minh). Trong trường hợp này, liiều insulin buổi tối nên tăng, thay đổi chế phẩm tác dụng kéo dài hoặc tiêm muộn hơn.

Dị ứng tại chỗ ở vị trí tiêm insulin thường hiếm, đặc biệt với sử dụng insulin trên người, nhưng vẫn có thể xảy ra ở những bệnh nhân bị dị ứng latex vì mủ cao su tự nhiên có trong nắp đậy lọ. Thuốc có thể gây ra đau tức thời hoặc bỏng, sau đó là ban đỏ, ngứa, và sẩn cứng – sau này đôi khi vẫn còn dai dẳng trong nhiều ngày. Hầu hết các phản ứng tự nhiên biến mất sau nhiều tuần tiêm liên tục và không cần điều trị cụ thể, mặc dù thuốc kháng histamine có thể giúp giảm triệu chứng.

Dị ứng toàn thân rất hiếm với insulins người nhưng có thể xuất hiện khi tái khởi trị insulin sau khi thất bại. Các triệu chứng phát triển từ 30 phút đến 2 giờ sau khi tiêm và bao gồm nổi mề đay, phù mạch, ngứa, co thắt phế quản và sốc phản vệ. Điều trị bằng thuốc kháng histamin thường đủ, nhưng epinephrine và glucocorticoids tĩnh mạch có thể cần thiết. Nếu điều trị insulin cần thiết sau khi có phản ứng dị ứng toàn thân, test nẩy da với chế phẩm insulin tinh khuyết và khử khuẩn nên thực hiện.

Phì đại mỡ cục bộ, hoặc phì đại mỡ, là một phản ứng phổ biến do tác dụng tạo mỡ của insulin. Phì đại mỡ có thể dẫn đến sự thay đổi hấp thu insulin và có thể tránh được bằng cách luân phiên các vị trí tiêm. Chứng teo mỡ, một thực thể khác, được cho là kết quả của phản ứng miễn dịch với một thành phần của chế phẩm insulin. Nó đã trở nên rất hiếm khi sử dụng insulin người nhưng có thể được điều trị bằng steroid.

Các kháng thể kháng insulin đang lưu hành là một nguyên nhân rất hiếm gây ra tình trạng kháng insulin ở những bệnh nhân vẫn đang dùng insulin động vật và đôi khi ở những người đang sử dụng insulin người và insulin tương tự. Kháng insulin do các kháng thể kháng insulin đang lưu hành đôi khi có thể được điều trị bằng cách thay đổi các chế phẩm insulin (ví dụ: từ insulin động vật sang insulin người) và bằng cách sử dụng corticosteroid hoặc thuốc ức chế miễn dịch và đôi khi là phương pháp di chuyển huyết tương nếu cần thiết.

Các chế độ điều trị từ hai lần/ngày hỗn hợp chia nhỏ (ví dụ: chia nhỏ liều insulins tác dụng nhanh và trung gian đến các chế độ cơ bản-liều lượng sinh lý nhiều hơn sử dụng nhiều lần tiêm hàng ngày (ví dụ, một liều [cơ bản] cố định duy nhất của tác dụng kéo dài và thay đổi [bolus] liều insulin tác dụng nhanh hoặc bơm insulin. Điều trị chuyên sâu, được định nghĩa là theo dõi glucose ≥ 4 lần/ngày và ≥ 3 lần tiêm/ngày hoặc truyền insulin liên tục, hiệu quả hơn điều trị thông thường (1 đến 2 lần tiêm insulin mỗi ngày có hoặc không theo dõi) để ngăn ngừa , và . Tuy nhiên, điều trị tích cực có thể dẫn đến các cơn hạ đường huyết thường xuyên hơn và tăng cân và hiệu quả hơn chỉ ở bệnh nhân có khả năng và sẵn sàng đóng vai trò tích cực trong việc tự chăm sóc bản thân.

Thông thường, hầu hết bệnh nhân đái tháo đường típ 1 có thể bắt đầu tổng liều từ 0,2 đến 0,8 đơn vị insulin/kg/ngày. Bệnh nhân béo phì có thể đòi hỏi liều cao hơn. Điều trị thay thế sinh lý cần phải cho 40 đến 60% liều insulin hàng ngày cho thuốc tác dụng trung gian hoặc tác dụng kéo dài để cho nhu cầu nền, với phần còn lại cho thuốc tác dụng nhanh hoặc ngắn để giải quyết tăng sau ăn. Cách tiếp cận này hiệu quả nhât khi liều insulin tác dụng nhanh hoặc ngắn được điều chỉnh cho glucose máu trước ăn và thành phần bữa ăn được dự đoán. Hệ số điều chỉnh, cũng được biết như là hệ số nhạy insulin, là số lượng mà 1 đơn vị insulin sẽ làm giảm nồng độ glucose máu sau 2 đến 4 giờ; hệ số này thường đươc tính bằng sử dụng " quy tắc 1800 " khi insulin tác dụng nhanh được sử dụng để điều chỉnh (1800/tổng liều insulin trong ngày). Đối với insulin regular, sử dụng "quy tắc 1500 rule". Liều điều chỉnh (nồng độ glucose hiện tại - nồng độ glucose mục tiêu/hệ số điều chỉnh) là liều của insulin sẽ làm giảm nồng độ glucose máu tới khoảng mục tiêu. Liều điều chỉnh này có thể bổ sung cho insulin trước ăn và được tính cho số lượng carbonhydrate trong một bữa ăn, sử dụng tỉ lệ carbohydrate insulin (CIR). CIR thường được tính bằng sử dụng "quy tắc 500" (500/tổng liều hàng ngày).

Để minh họa cách tính liều ăn trưa, hãy giả định như sau:

  • Glucose đầu ngón tay trước ăn: 240 mg/dL (13,3 mmol/L)
  • Tổng liều insulin hàng ngày: 30 đơn vị insulin cơ bản + 10 đơn vị insulin tấn công mỗi bữa ăn = tổng cộng 60 đơn vị, hàng ngày
  • Hệ số điều chỉnh (hệ số nhạy insulin): 1800/60 = 30 mg/dL/đơn vị (1,7 mEq/L/đơn vị, hoặc 1,7 mmol/L)
  • Hàm lượng carbohydrate ước tính của bữa ăn sắp tới: 50 g
  • Carbohydrate:insulin (CIR): 500/60 = 8:1
  • Mục tiêu glucose: 120 mg/dL (6,7 mmol/L)

Liều insulin sau ăn = 50 g carbohydrate chia cho 8 g/đơn vị insulin \= 6 đơn vị

Liều điều chỉnh = (240 mg/dL - 120 mg/dL)/30 hệ số điều chỉnh = 4 đơn vị ([13,3 mmol/L - 6,7 mmol/L]/1,7 = 4)

Tổng liều trước bữa ăn này= liêu bữa ăn + liều điều chỉnh = 6 + 4 = 10 đơn vị insulin nhanh.

Các chế độ sinh lý như vậy cho phép tự do hơn trong lối sống vì bệnh nhân có thể bỏ qua hoặc thay đổi thời gian các bữa ăn và duy trì đường huyết. Những khuyến nghị này là để bắt đầu điều trị; sau đó, việc lựa chọn phác đồ thường phụ thuộc vào phản ứng sinh lý và sở thích của bệnh nhân và bác sĩ. Tỷ số carbohydrate cho insulin(CIR) và hệ số nhạy insulin cần được tùy chỉnh dựa theo bệnh nhân đáp ứng với liều insulin. Điều chỉnh này đòi hỏi phải làm việc chặt chẽ với một chuyên gia về đái tháo đường.

Phác đồ cho đái tháo đường típ 2 cũng đa dạng. Ở nhiều bệnh nhân, mức đường huyết được kiểm soát đầy đủ bằng cách thay đổi lối sống và dùng thuốc hạ đường huyết không phải insulin, nhưng nên bổ sung insulin khi đường huyết vẫn không được kiểm soát bằng ≥ 3 loại thuốc, nếu bệnh nhân nghi ngờ thiếu insulin, hoặc mức đường huyết rất cao. Dù không phổ biến, đái tháo đường típ 1 khởi phát người lớn có thể là nguyên nhân. Insulin nên thay thế cho thuốc hạ đường huyết không insulin ở phụ nữ bắt đầu có thai.

Liệu pháp phối hợp rõ ràng nhất là sử dụng insulin với biguanides uống và thuốc tăng nhạy insulin. Phác đồ thay đổi từ tiêm 1 mũi mỗi ngày của insulin tác dụng trung gian hoặc tác dụng kéo dài (thường trước khi đi ngủ) tới phác đồ tiêm nhiều mũi sử dụng cho bệnh nhân đái tháo đường típ 1. Nói chung, phác đồ hiệu quả đơn giản nhất được ưu tiên. Vì kháng insulin, một số bệnh nhân đái tháo đường típ 2 đòi hỏi nhu cầu liều insulin lớn (\> 2 đơn vị/kg/ngày). Một biến chứng thường gặp là tăng cân, chủ yếu là do giảm glucose trong nước tiểu và cải thiện hiệu quả trao đổi chất.

  • Tăng tiết insulin từ tụy (secretagogues)
  • Mô ngoại vi nhạy cảm với insulin (sensitizers)
  • Làm suy giảm sự hấp thu glucose qua đường tiêu hóa
  • Tăng glucose nước tiểu

Các loại thuốc với các cơ chế tác dụng khác nhau có thể có tác dụng hiệp đồng.

Hướng dẫn điều trị đtđ típ 2 ở việt nam

Sulfonylureas (ví dụ: glyburide, glipizide, glimepride) là chất kích thích tiết insulin. Các thuốc này làm hạ glucose máu bằng cách kích thích tế bào beta của tụy tiết insulin và có lẽ tăng nhạy cảm insulin với các mô ngoại vi và tại gan. Các sulfonylurea thế hệ thứ nhất (acetohexamide, chlorpropamide, tolazamide, tolbutamide) có nhiều khả năng gây ra tác dụng phụ và không được sử dụng thường xuyên. Tất cả các thuốc nhóm sulfonylureas đều gây ra tăng insulin máu và giảm cân từ 2 đến 5 kg, do kháng insulinvà bị giới hạn tác dụng của các thuốc này. Tất cả các thuốc đều có thể gây ra hạ đường huyết Hạ đường huyết Hạ đường huyết hoặc mức đường huyết thấp có thể dẫn đến kích thích hệ thần kinh giao cảm và rối loạn chức năng hệ thần kinh trung ương. Ở những bệnh nhân tiểu đường dùng insulin hoặc điều trị... đọc thêm . Yếu tố nguy cơ bao gốm: tuổi \> 65; sử dụng các thuốc tác dụng kéo dài đặc biệt như (chlorpropamide, glyburide hoặc glipizide), ăn uống hay luyện tập thất thường, và suy gan hoặc suy thận.

Các thuốc kích thích tiết insulin tác dụng ngắn như (repaglinide, nateglinide) kích thích tiết insulin tương tự như sulfonylureas. Chúng tác dụng nhanh hơn, Tuy nhiên chúng kích thích tiết insulin nhiều hơn trong bữa ăn so với các thời điểm khác. Bởi vậy chúng đặc biệt hiệu quả trong việc hạ glucose máu sau ăn và ít có nguy cơ hạ đường huyết. Chúng có thể gây tăng cân mặc dù ít hơn so với sulfonylureas. Bệnh nhân đáp ứng với nhóm đường uống khác (như sulfonyureas, metformin) thì dường như không đáp ứng với thuốc này.

Biguanides làm giảm lượng glucose trong huyết tương bằng cách giảm sản xuất glucose ở gan (tạo gluconeogenesis và glycogenolysis). Các thuốc này được coi là thuốc làm nhạy cảm với insulin ngoại vi, nhưng sự kích thích hấp thu glucose ở ngoại vi của chúng có thể chỉ đơn giản là kết quả của việc giảm glucose do tác động lên gan của chúng. Biguanide cũng làm giảm mức lipid và cũng có thể làm giảm hấp thu chất dinh dưỡng ở đường tiêu hóa và tăng độ nhạy cảm của tế bào beta với glucose trong hệ tuần hoàn. Metformin là thuốc duy nhất trong nhóm biguanide có mặc tại Mỹ. Nó ít nhất có hiệu quả như sulfonylureas trong việc giảm glucose huyết tương, hiếm khi gây hạ đường huyết, và có thể được sử dụng an toàn với các thuốc khác và insulin. Ngoài ra Metformin không gây tăng cân và thậm chí điều chỉnh cân nặng do giảm cảm giác thèm ăn. Tuy nhiên, thuốc thường gây ra các tác dụng phụ đối với GI (ví dụ, khó tiêu, tiêu chảy), đối với hầu hết mọi người sẽ giảm dần theo thời gian. Ít gặp hơn, metformin gây kém hấp thu vitamin B12, nhưng hiếm khi xảy ra tình trạng thiếu máu có ý nghĩa lâm sàng.

Ức chế anpha-glucosidase hoàn toàn ức chế enzym ruột, do đó làm giảm glucose máu sau ăn. Chất ức chế Apha-glucosidase kém hiệu quả hơn so với các thuốc uống khác trong việc giảm glucosse máu, bệnh nhân thuơgf ngừng thuốc do khó thở, thừa dịch và tiêu chảy. Nhưng vì tính an toàn khác của các thuốc và có thể được sử dung kết hợp với các thuốc khác và với insulin.

Chất ức chế đồng vận chuyển natri-glucose 2 (SGLT2) (canaglifozin, dapaglifozin, empaglifozin, ertugiflozin) ức chế SGLT2 ở phần gần ống thận, nó ức chế tái hấp thu glucose bởi vậy nó gây ra glucose niệu và làm giảm glucose máu. Chất ức chế SGLT2 cũng có thể làm giảm cân nhẹ và hạ huyết áp. Chất ức chế SGLT-2 đã được chứng minh là làm giảm tỷ lệ tử vong, các biến cố tim mạch có hại nghiêm trọng và suy tim nhập viện ở những bệnh nhân tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Ngoài ra, chất ức chế SGLT-2 đã được chứng minh là có thể ngăn ngừa sự tiến triển của bệnh thận mạn tính ở bệnh nhân đái tháo đường và giảm mức lọc cầu thận hoặc albumin niệu.

Bromocriptine là một chất ức chế dopamine hạ HbA1C khoảng 0,5% mặc dù cơ chế chưa được hiểu rõ. Mặc dù được chấp nhận dùng cho bệnh nhân đái tháo đường type 2 nhưng không thường dùng bởi vì những tác dụng phụ của nó.

Thuốc hạ đường huyết dạng tiêm không phải là insulin là thuốc chủ vận thụ thể peptide-1 giống glucagon (GLP-1), polypeptide insulinotropic kép phụ thuộc glucose (GIP) và chất chủ vận thụ thể peptide-1 giống glucagon (GLP-1) (chất chủ vận kép incretin) , và chất tương tự amylin, pramlintide (xem bảng ). Các thuốc này thường được dùng đơn độc hoặc phối hợp với các thuốc hạ đường huyết khác.

Chất chủ vận thụ thể GLP-1 bắt chước tác dụng của GLP-1, một peptit được tạo ra trong ruột non giúp tăng cường phụ thuộc vào glucose insulin bài tiết và làm chậm quá trình làm rỗng dạ dày. Các thuốc đồng vận GLP-1 có thể làm giảm cảm giác thèm ăn và giảm cân và kích thích tế bào beta. Ví dụ bao gồm exenatide (một loại hormone gia tăng), lixisenatide, liraglutide, dulaglutide, albiglutide và semaglutide. Công thức tính liều có sẵn cho 2 lần/ngày; 1 lần/ngày và hàng tuần. Tất cả các thuốc chủ vận GLP-1 đều được tiêm dưới da, và semaglutide cũng có ở dạng uống. Các tác dụng phụ thông thường nhất của chất đồng vận GLP-1 là về dạ dày, ruột đặc biệt nôn, buồn nôn. Các chất đồng vận GLP-1 cũng có nguy cơ nhẹ bị viêm tuỵ cấp Tổng quan về viêm tụy Viêm tụy được phân loại là cấp tính hoặc mạn tính. Viêm tụy cấp là tình trạng viêm được phát hiện bằng cả lâm sàng và mô học. Viêm tụy mạn tính được đặc trưng bởi các thay đổi mô học mà không... đọc thêm . Các thuốc này có chống chỉ định với bởi vì tăng nguy cơ.

Tirzepatide là thuốc chủ vận thụ thể GIP/GLP1 đầu tiên có để điều trị bệnh tiểu đường típ 2. Nó là một peptide có tác dụng như một thuốc chủ vận thụ thể đối với các thụ thể GIP và GLP1. GIP và GLP-1 là các incretin được tạo ra trong ruột non. Tirzepatide làm tăng bài tiết insulin phụ thuộc vào glucose, giảm bài tiết glucagon và làm chậm quá trình làm rỗng dạ dày. Nó cũng làm giảm sự thèm ăn và giảm cân.

Hướng dẫn điều trị đtđ típ 2 ở việt nam

Pramlintide tương tự amylin là một hormone do tế bào beta tụy tiết ra, giúp làm giảm nồng độ glucose sau ăn. Pramlintide làm chậm bài tiết glucagon sau ăn, làm chậm quá trình làm trống dạ dày,điều khiển sự no. Nó được sử dụng đường tiêm, dạng kết hợp với insulin. Bệnh nhân đái tháo đường type 1 dùng liều từ 30-60 mcg trước bữa ăn, với bệnh nhân đái tháo đường type 2 thì liều 120 mcg.

  • Thuốc ức chế ACE và thuốc chẹn thụ thể angiotensin II đường uống cho bệnh tăng huyết áp
  • Aspirin
  • Statins

Thuốc ức chế men chuyển đã cho thấy tác dụng ngăn chặn biến cố tim mạch ở bệnh nhân tiểu đường. Điều trị bằng thuốc ức chế men chuyển hoặc ARB được khuyến nghị ở những bệnh nhân đã biết bệnh tim mạch xơ vữa động mạch (ASCVD) để phòng ngừa thứ phát.

Statins thường xuyên được khuyến cáo bởi AHA/ACC cho các bệnh nhân tiểu đường tuổi từ 40-75. Điều trị cường độ trung bình đến cao được sử dụng và statin cường độ cao được khuyến cáo cho những bệnh nhân có nguy cơ ASCVD cao hơn. Đối với tất cả bệnh nhân tiểu đường và ASCVD đã thành lập hoặc có nguy cơ rất cao đối với ASCVD, cũng hợp lý để nhắm mục tiêu mức lipoprotein mật độ thấp (LDL) < 70 mg/dL với statin được dung nạp tối đa và bổ sung ezetimibe hoặc proprotein convertase subtilisin/thuốc ức chế kexin loại 9 (PCSK -9) nếu cần. Ngoài ra, nên sử dụng liệu pháp ức chế ezetimibe hoặc PCSK-9 cho những bệnh nhân không dung nạp với liệu pháp statin. (xem bảng trong Rối loạn lipid máu Rối loạn lipid máu Rối loạn lipid máu là tăng cholesterol, triglyceride (TG) huyết tương, hoặc cả hai, hoặc mức HDL cholesterol thấp góp phần vào sự phát triển xơ vữa động mạch. Nguyên nhân có thể là tiên... đọc thêm

Hướng dẫn điều trị đtđ típ 2 ở việt nam
). Với những bệnh nhân < 40 hoặc > 75 tuổi, statin được dùng dựa trên sự cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ, và sự ưa thích của bệnh nhân. Bệnh nhân đái tháo đường típ 2 có xu hướng có lượng chất béo trung tính cao và LDL nhỏ, đậm đặc và mức HDL thấp; họ sẽ được điều trị tích cực.

  • 1. Fox CS, Golden SH, Anderson C, et al: AHA/ ADA Scientific Statement: Update on prevention of cardiovascular disease in adults with type 2 diabetes mellitus in light of recent evidence. Circulation 132: 691–718, 2015.
  • 2. Garber AJ, Handelsman Y, Grunberger G, et al: Consensus statement by the American Association of Clinical Endocrinologists and American College of Endocrinology on the comprehensive type 2 diabetes management algorithm--2020 executive summary. Endocrine Practice 26:107–139, 2020.
  • 3. Grundy SM, Stone NJ, Bailey AL, et al: 2018 AHA/ACC/AACVPR/AAPA/ABC/ACPM/ADA/AGS/APhA/ASPC/NLA/PCNA Guideline on the Management of Blood Cholesterol: Executive Summary: A Report of the American College of Cardiology/American Heart Association Task Force on Clinical Practice Guidelines. J Am Coll Cardiol 73(24):3168–3209, 2019. doi: 10.1016/j.jacc.2018.11.002

Sau đây là các tài nguyên tiếng Anh có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của các tài nguyên này.

  • Davies MJ, D'Alessio DA, Fradkin J, et al: Management of Hyperglycemia in Type 2 Diabetes, 2018. A Consensus Report by the American Diabetes Association (ADA) and the European Association for the Study of Diabetes (EASD). Diabetes Care 41(12): 2669–2701, 2018.
  • Powers MA, Bardsley J, Cypress M, et al: Diabetes Self-management Education and Support in Type 2 Diabetes: A Joint Position Statement of the American Diabetes Association, the American Association of Diabetes Educators, and the Academy of Nutrition and Dietetics. Diabetes Care 38(7):1372–1382, 2015.

US Preventive Services Task Force, Mangione CM, Barry MJ, et al: Statin Use for the Primary Prevention of Cardiovascular Disease in Adults: US Preventive Services Task Force Recommendation Statement. JAMA 328(8):746–753, 2022. doi:10.1001/jama.2022.13044