Sau khi hiệp định paris được ký kết 1973 tình hình miền nam như thế nào

     Do liên tiếp bị thất bại nặng nề ở cả hai miền Nam-Bắc Việt Nam, nhất là sau cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, Mỹ buộc phải chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, thực hiện hội nghị đàm phán với đại diện của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà [ngày 13/5/1968], và sau đó với đại diện của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam [ngày 25/1/1969].

     Từ phiên họp đầu tiên [ngày 13/5/1968] đến khi đạt được dự thảo Hiệp định Pari về Việt Nam [tháng 10/1972], Hội nghị bốn bên [Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hoa Kỳ, Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hoà] ở Pari đã trải qua 202 phiên họp chung công khai và 24 cuộc tiếp xúc riêng trong thời gian 4 năm 9 tháng.

     Trong các phiên họp chung công khai cũng như các cuộc tiếp xúc riêng, phía Việt Nam không bỏ qua bất cứ vấn đề quan trọng nào có liên quan đến cuộc chiến tranh, nhưng tập trung mũi nhọn đấu tranh vào hai vấn đề mấu chốt nhất là đòi Mỹ rút hết quân viễn chinh cùng quân chư hầu khỏi miền Nam và đòi họ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Phía Mỹ có quan điểm ngược lại, nhất là vấn đề rút quân, đòi quân đội miền Bắc cũng rút khỏi miền Nam, và từ chối ký dự thảo Hiệp định do phía Việt Nam đưa ra [tháng 10/1972] để rồi mở cuộc tập kích bằng máy bay chiến lược B52 vào Hà Nội - Hải Phòng trong 12 ngày đêm cuối năm 1972 với ý đồ buộc phía Việt Nam ký vào dự thảo Hiệp định do chúng đưa ra. Nhưng Mỹ đã thất bại. Việt Nam đã đập tan cuộc tập kích bằng máy bay chiến lược B52 của không lực Hoa Kỳ, làm nên trận "Điện Biên Phủ trên không". Thất bại của Mỹ trên chiến trường đã quyết định thất bại của chúng trên bàn đàm phán, thương lượng.

     Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam chính thức được ký kết ngày 27/1/1973 tại Trung tâm các hội nghị phố Clêbe ở Pari. Hiệp định bắt đầu có hiệu lực từ 7 giờ sáng ngày 28/1/1973.

     Nội dung Hiệp định nêu rõ:

- Hoa Kỳ và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

- Hoa Kỳ rút hết quân viễn chinh và quân chư hầu, phá hết các căn cứ quân sự Mỹ, cam kết không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.

- Các bên để cho nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển cử tự do. Các bên công nhận thực tế miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị.

- Các bên ngừng bắn tại chỗ, trao trả cho nhau tù binh và dân thường bị bắt.

     Hiệp định Pari năm 1973 là kết quả cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của nhân dân ta ở cả hai miền đất nước, tạo ra bước ngoặt lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc. Cội nguồn thắng lợi tại Hội nghị Pari là tinh thần quyết chiến quyết thắng, ý chí đấu tranh quật cường, bền bỉ, nhằm bảo vệ chân lý, chính nghĩa, lý tưởng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Cuộc đấu tranh này phản ánh sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trí tuệ của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, trên cơ sở chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Hiệp định Pari về Việt Nam mãi mãi là trang sử vàng chói lọi, thể hiện cao độ bản lĩnh, tinh thần, trí tuệ của con người và nền văn hóa Việt Nam được kết tinh từ lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, để lại cho các thế hệ hôm nay và mai sau những bài học vô giá. Đó còn là cuộc đấu tranh kiên cường vì các quyền cơ bản của dân tộc Việt Nam, được thể hiện trong Hiệp định - văn bản pháp lý toàn diện, đầy đủ nhất. Trong đó, Mỹ  buộc  phải cam kết “tôn trọng độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”, điều mà họ đã cố tình lẩn tránh ở Hiệp định Giơnevơ năm 1954. Đồng thời, Mỹ buộc phải rút hết quân về nước, trong khi ta duy trì được hoàn toàn lực lượng, khiến so sánh lực lượng trên chiến trường nghiêng hẳn về ta. Điều quan trọng nữa là, hiệp định góp phần ngăn chặn mọi âm mưu can thiệp trở lại của Mỹ khi toàn dân, toàn quân ta giành thắng lợi hoàn toàn với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Không chỉ có ý nghĩa đối với Việt Nam, Hiệp định Paris còn mang tính quốc tế khi góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng đất nước của nhân dân Lào và Campuchia. Hiệp định cũng góp phần mở ra một chương mới trong cục diện Đông Nam Á: Mỹ rút lui về quân sự khỏi Đông Dương và Đông Nam Á; xu thế hoà bình, trung lập phát triển mạnh trong khu vực, mở ra khả năng thiết lập một khu vực hoà bình, hữu nghị ổn định.

15/09/2020 583

Câu hỏi Đáp án và lời giải Ôn tập lý thuyết

Đáp án và lời giải

đáp án đúng: D

Tình hình miền Nam sau Hiệp định Pari năm 1973 là quân Mĩ và chư hầu buộc phải rút khỏi Miền Nam, so sánh lực lượng ở Miền Nam thay đổi theo hướng có lợi cho cách mạng, 2 vạn cố vấn quân sự Mĩ vẫn ở lại Miền Nam, Mĩ tiếp tục viện trợ quân sự lớn cho nguỵ và quân ngụy tiến hành các cuộc hành quân "xoá bỏ hình thái da báo"... nên lại một số địa bàn quan trọng chúng ta đã bị mất đất, mất dân.

Nguyễn Hưng [Tổng hợp]

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Bà Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng Ngoại giao của CP Cách mạng Lâm thời CH miền Nam VN ký Hiệp định Paris 1973

Đúng 44 năm về trước, Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon xuất hiện trên truyền hình, công bố 'hòa bình trong danh dự' tại Việt Nam.

Tuyên bố được đưa ra cùng lúc tại Washington và Hà Nội, xác nhận thỏa thuận hòa bình được ký tại Paris vào lúc 1230 giờ địa phương, dẫn tới sự chấm dứt cuộc chiến dài nhất của Hoa Kỳ.

Lệnh ngừng bắn bắt đầu vào nửa đêm giờ Hà Nội, thứ Bảy 27/1, và được một lực lượng quốc tế gồm binh lính từ Canada, Ba Lan, Hungary và Indonesia giám sát.

Bài phát biểu của Tổng thống Nixon được thực hiện từ Phòng Bầu dục trong Tòa Bạch ốc, và được phát đi toàn quốc trên sóng phát thanh, truyền hình.

Ông nói: "Qua nhiều năm đàm phán, chúng ta đã đạt được hòa bình trong danh dự."

"Trong thỏa thuận nay đã được [các bên] đồng ý, mọi điều kiện tôi đưa ra đều đã được đáp ứng."

Những phụ nữ VN chiến đấu vì đất nước họ

Đại sứ Nhật gặp gia đình ‘Người Việt Nam Mới’

Trong các điều kiện được nêu, có yêu cầu phải trao trả tù nhân chiến tranh trong vòng 60 ngày, và toàn bộ các lực lượng Hoa Kỳ sẽ rút khỏi Việt Nam trong cùng thời gian này.

Một hội nghị quốc tế sẽ được tổ chức trong vòng 30 ngày, có thể là ở Vienna, để đảm bảo đạt được hòa bình.

Các lực lượng Hoa Kỳ tham gia vào cuộc xung đột ở Việt Nam tính tới khi đó đã là được hơn một thập niên.

Vào năm 1967, có nửa triệu lính Mỹ được triển khai tại Việt Nam.

Với người dân Nam Việt Nam, vị tổng thống Hoa Kỳ đưa ra thông điệp: "Bằng sự quả cảm, sự hy sinh của mình, các bạn đã giành được quyền quý giá là quyền quyết định tương lai của chính mình, và các bạn đã có được sức mạnh để bảo vệ quyền đó."

Với giới lãnh đạo Bắc Việt Nam, ông nói: "Bởi chúng ta đã kết thúc chiến tranh thông qua đàm phán, chúng ta hãy xây dựng hòa bình, hòa giải."

BBC Tiếng Việt điểm lại một số nội dung liên quan tới sự kiện lịch sử này:

"Ngày 29/03/1973, đơn vị tác chiến cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam. Vào thời gian đó, cả lực lượng Cộng sản và Nam Việt Nam [VNCH] đã can dự vào điều mà báo giới gọi là 'cuộc chiến sau chiến tranh' [postwar war]. Hai bên cùng cáo buộc, khá đúng, rằng bên kia vi phạm các điều khoản của hiệp định.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam - hình tư liệu

"Cả hai người, Henry Kissinger và Lê Đức Thọ đều được ca ngợi nhờ vai trò dẫn đầu tạo ra thỏa thuận hòa bình. Cả hai được trao giải Nobel Hòa bình nhưng ông Thọ đã từ chối nhận.

Dù có nhiều nỗ lực đàm phán và thỏa thuận, Hiệp định Paris đã không tạo ra hiệu ứng thực. Trên thực tế, nó bị quân đội của cả hai miền Nam và Bắc vi phạm trắng trợn, đặc biệt là Bắc Việt vì quân của họ cùng lực lượng Việt Cộng liên tiếp tấn công các tỉnh miền Nam. Hai năm sau, trong 'Chiến dịch Hồ Chí Minh' vào mùa xuân 1975, quân Bắc Việt chiếm Sài Gòn và chấm dứt 30 năm chiến tranh..."

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Quân lực VNCH sơ tán dân khỏi Bến Súc, Dầu Tiếng năm 1967 - hình tư liệu

"... Những người Cộng sản đã dốc hết sức, lại kém xa về quân số và trang thiết bị so với các lực lượng của Thiệu, do Thiệu nhận được một nguồn cung quân sự khổng lồ từ Mỹ mà phần lớn trong số đó họ không thể bảo trì hoặc vận hành. Những vũ khí mới này không chỉ là một sự vi phạm Hiệp định Paris mà chúng còn khuyến khích Thiệu dám liều về quân sự, mà rút cục ông ta đã bị đánh bại.

Thực tế kể trên đã khiến quân đội Mỹ đi đến kết luận rằng tiếp thêm vũ khí cho chính quyền Sài Gòn chỉ lãng phí tiền của [hóa ra đúng như vậy]. Hơn nữa, vào năm 1973, nhiều sĩ quan Mỹ hiểu rõ thực tế rằng nhiệm vụ chủ yếu của tư lệnh quân đội của Thiệu là củng cố quyền lực chính trị cá nhân của ông này hơn là phục vụ như một lực lượng chiến đấu hiệu quả - và rằng sự vượt trội về vũ khí của lực lượng này là vô nghĩa..."

Ông Bùi Diễm, người cũng là quan sát viên do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ định tại Hòa đàm ở Paris, phản bác một số ý kiến nói chính Chính quyền Sài Gòn đã 'vi phạm hiệp định:

"Nếu nói chính quyền ở miền Nam Việt Nam đã vi phạm hiệp định Ba-Lê là quá đáng là bởi vì sự thực ra những người ở miền Bắc đã chủ trương rõ rệt là để lại, mà họ đã làm được việc đó qua Hiệp định Ba-Lê, là giữ lại một số quân của họ ở trong miền Nam.

Và đến khi Hiệp định Ba Lê ký kết, thì những lực lượng võ trang đó bắt đầu khởi một cuộc công kích, mà người ta thấy về sau có những trận như trận Bình Long, rồi những trận ở Ban-Mê-Thuật, rồi từ đó mới lan sang trường hợp gọi là chiến tranh quy mô, những đoàn quân miền Bắc tiến vào miền Nam."

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Quân Bắc Việt và Mặt trận miền Nam Việt Nam - hình tư liệu

"Hà Nội chiến thắng cuộc chiến Việt Nam, đó là điều chắc chắn, tuy nhiên họ cũng không thắng dựa trên các điều khoản của mình, là thắng một cách vô điều kiện.

Chiến thắng của Hà Nội là một chiến thắng trả bằng cái giá đắt, không phải là một chiến thắng vẹn toàn mà những lãnh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đặc biệt là Lê Duẩn, đã mường tượng khi cuộc chiến bắt đầu.

Để đạt được sự “giải phóng” hoàn toàn miền Nam và thống nhất đất nước dưới một quốc kỳ, Hà Nội đã phải vi phạm Hiệp định Paris - thỏa thuận đã giúp cho cả Lê Đức Thọ và Kissinger, hai đại diện của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ, nhận giải Nobel Hòa bình.

Việc vi phạm Hiệp định Paris, điều mà phía Mỹ ít nhất đã cố gắng tôn trọng ở mức độ không đưa quân trở lại miền Nam, đã phá vỡ hình ảnh nạn nhân của chiến tranh chỉ muốn độc lập và hòa bình mà phe Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã dựng lên hơn một thập kỷ qua.

Điều đó, cùng với những tình huống khác, đã làm giảm sự đáng tin của Hà Nội trong mắt thế giới, và một phần nào đó giải thích tại sao nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam lại bị quốc tế bỏ rơi hồi năm 1980.

Hiệp định Paris không phải là một “thắng lợi vĩ đại” của Hà Nội; nó là một sự hòa bình cay đắng và cần thiết để tạo những điều kiện dẫn đến chiến thắng nhanh chóng nhưng đầy rắc rối năm 1975..."

Video liên quan

Chủ Đề