Văn kiện đại hội đảng lần thứ 11 năm 2024

1- Đại hội tổng kết một phần tư thế kỷ đổi mới và mở đầu thập kỷ phát triển bước ngoặt mới của nước ta

Đại hội XI của Đảng, họp tại Thủ đô Hà Nội từ 11-1 đến 19-1-2011 là đại hội mở đầu thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI.

Ở thời điểm Đại hội XI, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đi qua một chặng đường 25 năm, vừa tròn 1/4 thế kỷ.

Đất nước, con người và xã hội Việt Nam đã có những biến đổi vô cùng to lớn qua 25 đổi mới, đã đạt được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử.

Nhờ có đổi mới, nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng ở thập kỷ 80 thế kỷ XX với sản xuất đình đốn, trì trệ, phân phối lưu thông ách tắc, lạm phát phi mã...

Mười năm đầu của đổi mới (1986-1996), vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, có lúc hiểm nghèo, khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đổ vỡ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan rã, phong trào cách mạng thế giới lâm vào thoái trào, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã ra sức tìm tòi và thực hiện những giải pháp sáng tạo, những bước đi hợp lý để ổn định tình hình, thay đổi mô hình phát triển, cơ chế và chính sách quản lý, đẩy mạnh sản xuất hàng hoá và xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp và bình quân để chuyển sang cơ chế thị trường.

Nhờ đó, những lực cản kìm hãm phát triển đã từng bước được tháo gỡ, những động lực thúc đẩy phát triển cũng từng bước được định hình và nhanh chóng phát huy tác dụng. Lợi ích, nhất là lợi ích vật chất, kinh tế của cá nhân được thừa nhận và tôn trọng, coi đó là cơ sở để thực hiện lợi ích xã hội. Khoán trong nông nghiệp, ở nông thôn đối với nông dân là bước đột phá mở đầu làm nên sinh khí của đổi mới.

Kinh tế hộ gia đình nông dân xã viên được xác định là đơn vị kinh tế cơ bản ở nông thôn, mở đường cho việc tổ chức lại, đổi mới hợp tác xã nông nghiệp. Đổi mới rõ ràng là một đường lối chính trị đúng đắn, sáng suốt là một quyết sách chiến lược sáng tạo và kịp thời của Đảng tại Đại hội VI cách đây 25 năm. Đại hội VI, đại hội mở đầu công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, thực sự là một dấu son nổi bật trong lịch sử biên niên của Đảng ta với tư cách một Đảng cầm quyền. Đại hội VI với đường lối đổi mới đã nhấn mạnh trước hết phải đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, nhờ đó đã mở đường giải phóng lực lượng sản xuất, giải phóng ý thức, tinh thần, thực hiện tự do tư tưởng để giải phóng mọi tiềm năng của xã hội. Đây thực sự là một khai phóng tư tưởng lớn, tạo ra triết lý của đổi mới: Giải phóng - Sáng tạo - Phát triển. Mang tầm vóc của một cuộc cách mạng, tạo ra những biến đổi cách mạng, đổi mới đã đưa đất nước, xã hội và con người Việt Nam vào hai dòng chuyển động lớn, kinh tế hàng hoá với cơ chế thị trường và dân chủ hóa mọi lĩnh vực của đời sống với cơ chế dân chủ (Quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn). Đổi mới đi liền với mở cửa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, giữ vững nguyên tắc, nhất quán về lập trường quan điểm đồng thời trù tính những bước đi thích hợp, những giải pháp thiết thực, thấm nhuần quan điểm thực tiễn. Đổi mới kinh tế là quan trọng và quyết định, trên cơ sở đổi mới kinh tế có những kết quả bước đầu để ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, đem lại những lợi ích thiết thân cho người dân mà từng bước thận trọng trong đổi mới hệ thống chính trị. Trên lĩnh vực chính trị, đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, nổi bật 3 điểm nhấn quan trọng. Đó là:

- Giữ vững và kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Quá độ tới chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường phát triển, là sự lựa chọn nhất quán không thay đổi của Đảng và nhân dân ta.

- Giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam hành động của cách mạng Việt Nam, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được nhận thức đúng đắn, vận dụng và phát triển sáng tạo trong thực tiễn đổi mới.

- Giữ vững vai trò lãnh đạo và địa vị cầm quyền của Đảng.

Thực tiễn và kinh nghiệm đã chứng tỏ tính đúng đắn và sáng tạo trong đường lối đổi mới của Đảng.

Sau khi đã giải quyết thành công cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng giữa thập kỷ 80, nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội VIII (1996) và Đại hội IX (2001), Đảng tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta thực hiện thắng lợi một quyết tâm chính trị lớn được Đảng nêu ra tại Đại hội X (2006), sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Từng bước tổng kết thực tiễn đổi mới, Đảng ta cũng từng bước phát triển lý luận, định hình những nhận thức lý luận mới về chủ nghĩa xã hội, bổ sung và hoàn chỉnh hệ mục tiêu của đổi mới: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Từ thực tiễn đổi mới, chúng ta đã nhận rõ thực chất sâu xa của công bằng xã hội. Đó không chỉ là công bằng trong phân phối lợi ích, từ đa dạng hoá các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần mà đa dạng hoá các hình thức phân phối. Công bằng gắn với bình đẳng xã hội và xét về thực chất, công bằng không dừng lại ở phân phối lợi ích mà là công bằng về cơ hội phát triển, bảo đảm cho mọi thành viên trong cộng đồng đều có cơ hội như nhau để phát triển, đều được thụ hưởng lợi ích chính đáng, công bằng từ những kết quả lao động và cống hiến xã hội của mình. Tăng trưởng kinh tế phải gắn kết chặt chẽ với thực hiện công bằng xã hội trong từng bước, trong từng chính sách. Đổi mới và phát triển, thực chất là phục vụ phát triển con người, hài hoà giữa phát triển cá nhân với phát triển cộng đồng, coi con người là mục tiêu và động lực của phát triển, vốn con người là thành phần quan trọng và quyết định nhất của vốn xã hội. Đó là những điểm rất cơ bản trong lý luận đổi mới của Việt Nam, lý luận chủ nghĩa xã hội Việt Nam trong đổi mới, thấm nhuần sâu sắc tư tưởng dân chủ, tính nhân dân, giá trị và ý nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh mà Đảng ta đã nhận thức đúng đắn, vận dụng và phát triển sáng tạo di sản tư tưởng của Người trong 25 năm đổi mới cũng như mãi mãi về sau.

Đất nước ra khỏi khủng hoảng đồng thời ra khỏi tình trạng kém phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường và kinh tế tri thức, hướng tới phát triển nhanh và bền vững. Thế và lực của cách mạng Việt Nam đã lớn mạnh rất nhiều so với trước. Trong đánh giá của bạn bè quốc tế, Việt Nam nhờ đổi mới đã khởi sắc hơn bao giờ hết và đang đứng trước những triển vọng tốt đẹp.

Một cách tổng quát, đổi mới đã tạo ra ổn định chính trị - xã hội tích cực, kinh tế tăng trưởng cao và liên tục trong nhiều năm, tốc độ tăng trưởng được giữ vững nhờ có những giải pháp đúng để ổn định kinh tế vĩ mô ngay cả khi xảy ra khủng hoảng tài chính và kinh tế toàn cầu vừa qua; công bằng xã hội từng bước được thực hiện, đại đoàn kết toàn dân tộc và đồng thuận xã hội được củng cố, tiềm lực quốc phòng và an ninh được tăng cường, đường lối đối ngoại và chính sách ngoại giao của Đảng và Nhà nước đã tranh thủ được sự ủng hộ, đồng tình của các bạn bè quốc tế... Những thành tựu to lớn đó có ý nghĩa lịch sử, làm cho Việt Nam đón kịp và tận dụng được cơ hội phát triển, vượt qua thách thức trong bối cảnh và diễn biến phức tạp của tình hình thế giới.

Đổi mới 25 năm qua, với 5 kỳ Đại hội đã qua, từ Đại hội VI đến Đại hội X đã tỏ rõ sự trưởng thành, lớn mạnh của Đảng, thể hiện ở năng lực lãnh đạo và bản lĩnh cầm quyền của Đảng.

Đổi mới làm bộc lộ và phát huy những khả năng sáng tạo, sáng kiến của toàn dân, cho thấy sự đồng thuận giữa ý Đảng với lòng dân, đó là sự đồng thuận cơ bản và quan trọng nhất tạo ra sự phát triển tiến bộ của nước ta. Nhà nước ta, trên con đường phát triển để hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đang không ngừng lớn mạnh để phát triển dân chủ, thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Do đó, ý Đảng - lòng dân đã định hình thành phép nước thông qua nỗ lực thể chế hoá theo yêu cầu dân chủ pháp quyền, tạo ra sức mạnh thống nhất, đoàn kết, phát triển của toàn Đảng, toàn dân vì một Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó chẳng những là mục tiêu mà còn là giá trị, là tiêu chí của chủ nghĩa xã hội Việt Nam, là những thước đo đánh giá thành công của đổi mới, tác dụng hiệu quả phát triển và hiện đại hoá ở nước ta. Đại hội XI đã kế thừa và phát huy những thành tựu ấy, đã ra sức tìm tòi và nỗ lực bứt phá để đưa nước ta vào một thời kỳ phát triển bước ngoặt mới. Chủ đề Đại hội XI của Đảng đã nói rõ điều ấy. Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tạo nền tảng để đến năm 2020, nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đó cũng chính là thông điệp của Đảng tại Đại hội XI đối với toàn Đảng, toàn dân trong thời kỳ phát triển mới, được thể hiện trong Cương lĩnh và chiến lược cùng nhiều văn kiện quan trọng khác vừa được Đại hội thông qua.

2- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) - Những phát triển mới về lý luận

Cương lĩnh có vị trí quan trọng hàng đầu, là văn kiện của mọi văn kiện mà Ban Chấp hành Trung ương khoá X trình Đại hội XI để Đại hội thảo luận và thông qua.

Đây là bản Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, kế thừa trực tiếp từ cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, năm 1991 được thông qua tại Đại hội VII và đã có 20 năm thực hiện từ đó đến nay.

Nói về bản Cương lĩnh lịch sử 1991, về tầm vóc, giá trị và ý nghĩa của nó, có hai điểm nổi bật cần phải nhấn mạnh dưới đây:

Thứ nhất, Cương lĩnh năm 1991 ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt, khi đổi mới ở nước ta vừa mới bắt đầu, chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới, trong đó có nước ta lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Cải tổ ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu gặp những khó khăn lớn, những dấu hiệu mất phương hướng chính trị đã xuất hiện và ngày càng trở nên trầm trọng. Cộng hoà dân chủ Đức, một mắt xích quan trọng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đã không còn tồn tại với tư cách một quốc gia độc lập. Chính biến xảy ra ở Liên Xô. Những sai lầm có tính nguyên tắc đã đưa cải tổ đến kết cục thất bại, làm đổ vỡ chế độ xã hội chủ nghĩa và Đảng Cộng sản mất vai trò cầm quyền. Các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu cũng dồn dập những sự kiện đổ vỡ và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan rã. Trật tự thế giới thay đổi. Các thế lực đế quốc chủ nghĩa và chống cộng ra sức phá hoại phong trào cách mạng, mưu toan xoá bỏ chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế, Việt Nam đã trở thành đối tượng phản kích chiến lược của chúng. Trong tình huống hiểm nghèo đó, Đảng ta với kinh nghiệm đã tích lũy trong đấu tranh và thử thách, với bản lĩnh kiên định của một Đảng cách mạng đã kịp thời có những quyết định chính trị sáng suốt. Cương lĩnh ra đời như một tuyên bố chính trị của Đảng, khẳng định con đường phát triển của nước ta, bất luận trong hoàn cảnh nào cũng không thay đổi. Đó là con đường xã hội chủ nghĩa, là sự trung thành với lý tưởng và mục tiêu đã lựa chọn: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh khẳng định nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động của Đảng, của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuyên bố chính trị đó cũng đồng thời là một thông điệp mà Đảng ta gửi tới toàn Đảng, toàn dân và bạn bè quốc tế, kiên định chủ nghĩa xã hội, kiên định đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện một niềm tin khoa học mãnh liệt rằng, dù lịch sử đang ở trong một khúc quanh, rẽ ngoặt do phong trào cách mạng thế giới lâm vào thoái trào tạm thời, song theo sự tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định đi tới chủ nghĩa xã hội. Do đó, Cương lĩnh đã củng cố sự thống nhất nhận thức, củng cố niềm tin, thúc đẩy hành động trong Đảng, trong dân, có tác dụng kịp thời và vô cùng to lớn đối với việc giữ vững phương hướng chính trị của Đảng, đoàn kết toàn Đảng và toàn dân tộc để tiến lên, vượt qua mọi nguy cơ thách thức, đưa sự nghiệp đổi mới tới thắng lợi. Thời gian càng lùi xa, lịch sử càng làm sáng tỏ giá trị, sức sống và ảnh hưởng của Cương lĩnh. Chính nhờ có Cương lĩnh năm 1991 mà điểm tựa tinh thần, tư tưởng của toàn Đảng, toàn dân ngày càng vững chắc. Dưới sánh sáng tư tưởng Cương lĩnh, đổi mới dù mới bắt đầu và khủng hoảng còn chưa chấm dứt, thậm chí đang rất gay gắt, khó khăn chồng chất khó khăn nhưng phương hướng và nguyên tắc của đổi mới đã rõ ràng và đúng đắn. Đảng đã trụ vững trên tư cách một Đảng lãnh đạo cầm quyền. Cách mạng Việt Nam đã vượt qua tình huống hiểm nghèo, có thể nói, nhờ Cương lĩnh dẫn đường mà chúng ta đã thoát hiểm. Với bản Cương lĩnh lịch sử năm 1991, Cương lĩnh tư tưởng, Cương lĩnh hành động và chiến đấu, thực tiễn và kinh nghiệm đã chứng thực, đã xác tín rằng, sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng là nhân tố quyết định của mọi thắng lợi.

Thứ hai, bản Cương lĩnh năm 1991 được soạn thảo và được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng thông qua khi chúng ta mới chỉ trải nghiệm thực tiễn đổi mới được 5 năm (1986-1991). Vậy mà hệ quan điểm tư tưởng và lý luận thể hiện trong Cương lĩnh đã tỏ rõ lập trường cách mạng kiên định, tư duy lý luận sáng tạo và hiện đại của Đảng, tầm nhìn chiến lược và chương trình hành động thiết thực của Đảng trong lãnh đạo toàn Đảng toàn dân thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới. Toàn bộ Cương lĩnh năm 1991 (4 phần, 12 điểm) toát lên những nhận thức lý luận mới (dù mới là bước đầu) của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi tới chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta xây dựng cũng như 7 phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện, đặc điểm và hoàn cảnh lịch sử đặc thù của Việt Nam đã cho thấy nỗ lực to lớn của Đảng trong việc trả lời hai câu hỏi lý luận lớn nhất về chủ nghĩa xã hội, đó là chủ nghĩa xã hội là gì? và xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào? Thấm nhuần quan điểm phương pháp luận kinh điển mác-xít “phân tích cụ thể một tình hình cụ thể”, ý thức sâu sắc rằng “chân lý là cụ thể nên cách mạng phải sáng tạo”, Đảng ta đã bám sát thực tiễn đổi mới, phát hiện những nhân tố mới tích cực và tiến bộ, nắm bắt xu thế của phát triển để khái quát thành lý luận, chỉ ra những định hướng mục tiêu và giải pháp của đổi mới và xây dựng đất nước, quá độ tới chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh năm 1991 là cương lĩnh của đổi mới để phát triển, đó là Cương lĩnh định hướng xã hội chủ nghĩa và định hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cương lĩnh năm 1991 thể hiện đậm nét tư duy về giải phóng sức sản xuất, về phát triển kinh tế hàng hoá, áp dụng cơ chế thị trường và phát triển kinh tế thị trường, mở cửa để hội nhập, đẩy mạnh dân chủ hoá toàn diện các lĩnh vực của đời sống để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo và phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân. Đó là hướng đích của chủ nghĩa xã hội, là bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà Đảng lãnh đạo nhân dân thực hiện. Cương lĩnh 91 cùng với đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã tỏ rõ sức mạnh tập hợp lực lượng toàn Đảng, toàn dân, cổ vũ và quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và đồng thuận xã hội, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của bạn bè quốc tế, của nhân loại tiến bộ đối với sự nghiệp xây dựng, sáng tạo xã hội mới của nhân dân ta. Chủ nghĩa xã hội Việt Nam từng bước sinh thành trong đổi mới theo những định hướng tư tưởng, lý luận của Cương lĩnh, đó là sự khai phá một con đường đi, một cách đi, cách làm mới mẻ chưa có tiền lệ trong lịch sử nhưng sức sống và triển vọng của nó đã rõ ràng. Đúng quy luật, thuận lòng dân, hợp thời đại - đó là đảm bảo chắc chắn về khoa học và chính trị cho thành công của đổi mới để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta - một chủ nghĩa xã hội hướng tới hệ giá trị Độc lập - Tự do - Hạnh phúc của nhân dân.

Với thực tiễn 5 năm đổi mới, Đảng đã đưa ra được Cương lĩnh. Đó là thành tựu lý luận đặc biệt quan trọng thể hiện tiềm lực tư tưởng, lý luận và sự trưởng thành mau chóng của Đảng.

Với 20 năm thực hiện Cương lĩnh, đất nước, con người, dân tộc và xã hội Việt Nam đã đổi thay nhanh chóng, vững bước tới phát triển bền vững và hiện đại hoá.

Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 vừa được thông qua tại Đại hội XI có những điểm mới quan trọng về lý luận trên cơ sở kế thừa lý luận từ Cương lĩnh năm 1991 và tổng kết thực tiễn đổi mới để phát triển.

Từ chỗ đứng của ngày hôm nay sau 25 năm đổi mới ta càng thấy rõ giá trị, sức sống và ý nghĩa lịch sử của Cương lĩnh năm 1991, càng vững tin vào năng lực trí tuệ và bản lĩnh chính trị của Đảng, vào tiềm năng sáng tạo to lớn của nhân dân, vào triển vọng tươi sáng của công cuộc canh tân đất nước, chấn hưng dân tộc Việt Nam.

Từ đây, có thể nhận biết những điểm mới trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011.

Trước hết, trong việc tổng kết công phu 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 để xác định những vấn đề bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 2011, Đảng ta đã nhất quán với quan điểm và phương pháp khoa học để tiến hành công việc hệ trọng này. Đó là kế thừa những quan điểm, tư tưởng của Cương lĩnh năm 1991 vẫn còn nguyên giá trị; bám sát thực tiễn của đất nước và thời đại; bổ sung những vấn đề đã được các Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị (từ khoá VII đến X) kết luận, những nội dung đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng; chỉ điều chỉnh những nội dung đến nay không còn phù hợp (T.G nhấn mạnh). Đó chính là quan điểm thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn của chân lý. Đó còn là quan điểm phát triển, quan điểm đổi mới, từ thực tiễn mà kiểm chứng lý luận, cũng từ thực tiễn mà tìm tòi, bổ sung, lý luận mới, không giáo điều, chủ quan, duy ý chí, độc lập sáng tạo từ thực tiễn Việt Nam, với tầm nhìn thế giới và thời đại chứ không tư biện, giáo điều, sách vở. Nhờ đó, tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội Việt Nam thấm nhuần tinh thần thời đại, tính chất và bản sắc dân tộc nhưng kết hợp nhuần nhuyễn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, động lực dân tộc với truyền thống, bản sắc và tinh hoa được phát huy nhưng không phải là chủ nghĩa dân tộc cực đoan, biệt phái, hẹp hòi mà dân tộc gắn liền với quốc tế, mở cửa, hội nhập để tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, nhờ đó nhân lên sức mạnh Việt Nam trong bối cảnh mới của thời đại và thế giới đương đại.

Với quan điểm và phương pháp khoa học đó, tổng kết quá trình cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá mà điểm nhấn là vai trò của dân và trọng trách của Đảng, là quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân, giữa dân với Đảng. Một tư tưởng lớn ở tầm chiến lược của Hồ Chí Minh, dân là chủ và làm chủ xã hội, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng đã được khẳng định trong Cương lĩnh lần này.

Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã trình bày sáng rõ những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa và các phương hướng cơ bản để xây dựng đất nước quá độ tới chủ nghĩa xã hội. Đây là nội dung lý luận hợp thành chủ nghĩa xã hội Việt Nam, định hướng sự phát triển thực tiễn đổi mới trong một tiến trình lịch sử lâu dài để đưa nước ta tới chủ nghĩa xã hội.

Một quan niệm tổng quát đã được chỉ rõ: xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh. Hệ mục tiêu của đổi mới được Đảng ta không ngừng bổ sung, phát triển suốt từ Đại hội VI đến Đại hội IX. Tại Đại hội X, hệ mục tiêu đó được quan niệm là đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đây là đặc trưng được nêu lên đầu tiên trong 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta, trong đó dân chủ như một giá trị nổi bật được nhấn mạnh để thực hiện các giá trị công bằng, văn minh của chủ nghĩa xã hội. Trật tự lôgíc trong diễn đạt các mệnh đề này thực sự có nội dung và ý nghĩa lý luận mới, là sự bổ sung, phát triển mới so với Cương lĩnh năm 1991 chứ không phải là hình thức sắp xếp câu chữ trong văn bản. Cương lĩnh năm 1991 cũng như Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đều đề cập tới vấn đề xây dựng xã hội dân chủ.

Dân chủ là mục tiêu và động lực của đổi mới, của phát triển, của chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sinh thời, nói tới dân và dân chủ, Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Dân chủ là của quý báu nhất trên đời của nhân dân. Người hình dung dân là chủ sở hữu thứ của cải quý báu đó, bởi dân là người chủ, dân là chủ thể quyền lực, dân ủy quyền cho Nhà nước để nhà nước thực thi quyền do dân ủy thác mà phục vụ dân và bảo vệ dân. Người tin rằng, thực hành dân chủ rộng rãi là chiếc chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Như thế, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã thấy rõ vai trò động lực của dân chủ để thực hiện mục tiêu phát triển và tiến bộ xã hội. Nhận rõ bản chất, vai trò của dân chủ như vậy, nhất là kiểm nghiệm tác dụng, sức mạnh và đánh giá thành tựu dân chủ trong 25 năm đổi mới, Đảng ta, trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển đã nêu rõ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là một trong những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Điểm bổ sung, phát triển mới này chẳng những nói lên nhận thức của Đảng về sự cần thiết phải thể chế hoá, điều kiện hoá dân chủ bằng một Nhà nước pháp quyền mạnh để hiện thực hoá dân chủ ở nước ta, làm cho nhân dân thực sự có quyền làm chủ mà còn tạo cơ sở chính trị - pháp lý để phát triển kinh tế thị trường cũng như mở rộng quan hệ hợp tác song phương, đa phương, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Nhà nước pháp quyền là giường cột của hệ thống chính trị. Xây dựng Nhà nước pháp quyền gắn liền với xây dựng Đảng và bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Nếu quan hệ giữa Đảng với dân thấm sâu chất nhân văn, trọng dân và vì dân thì quan hệ giữa Đảng với Nhà nước về chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm đòi hỏi sự đổi mới đồng bộ giữa nội dung, phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước để thực thi trọng trách Đảng cầm quyền với đổi mới tổ chức bộ máy và phương thức quản lý của Nhà nước để phục vụ dân ngày một tốt hơn. Các mối quan hệ đó, quy tụ lại là sự thống nhất giữa nhân văn với pháp lý của dân chủ, đảm bảo cho Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ theo đúng chuẩn mực dân chủ - pháp quyền, trọng dân gắn liền với trọng pháp. Vấn đề dân chủ và Nhà nước pháp quyền không chỉ được nhấn mạnh trong các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà còn được đề cập nhất quán trong phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Cương lĩnh bổ sung, phát triển lần này còn nói rõ, xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội do nhân dân làm chủ. Vì sao Cương lĩnh năm 1991 nói “nhân dân lao động làm chủ” nhưng đến Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 lại chỉ nói “nhân dân làm chủ”? Trả lời câu hỏi dường như đơn giản và hình thức này thật ra lại không đơn giản, không hình thức chút nào, ở đây có những hàm nghĩa rất tinh tế của nhận thức. Ai nấy đều biết, đi vào kinh tế thị trường, lại có đảm bảo bởi Nhà nước pháp quyền thì tất cả mọi người dân, mọi công dân đều được phép làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm. Đó là biểu hiện trực tiếp của dân chủ hoá kinh tế. Mọi lao động xã hội có ích, hợp pháp đều hợp đạo đức, đều được tôn trọng. Với động lực lợi ích, mọi thành viên trong cộng đồng đều lao động trên tư cách người chủ và làm chủ. Nói nhân dân làm chủ là để khắc phục những biểu hiện biệt phái, hẹp hòi và sự phân biệt có tính khiên cưỡng, giả tạo, để xoá bỏ những thiên kiến, định kiến đối với lao động trong thành phần kinh tế tư nhân đã từng tồn tại trước đây. Kinh tế tư nhân thực chất là người dân, nhân dân làm kinh tế, được thừa nhận là một động lực của phát triển trong nền kinh tế thị trường. Đó là chưa kể dùng khái niệm “nhân dân làm chủ “còn để tập hợp, quy tụ cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống làm ăn ở nước ngoài.

“Nhân dân làm chủ” - quan niệm này một khi đi vào cuộc sống sẽ nhanh chóng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và đồng thuận xã hội, tận dụng nguồn nhân lực xã hội rộng rãi, nhất là khối quần chúng nhân dân đông đảo, trong đó khối liên minh công - nông - trí thức là nòng cốt với một cơ cấu xã hội thống nhất trong đa dạng được hình thành bởi kinh tế thị trường.

Trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 vấn đề sở hữu và xác lập quan hệ sản xuất được rất nhiều người quan tâm, thu hút sự chú ý đóng góp nhiều ý kiến của đông đảo cán bộ đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong quá trình soạn thảo cũng như trong thảo luận và biểu quyết tại Đại hội của các đại biểu.

Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Đạt được sự thống nhất này thông qua biểu quyết tại Đại hội là kết quả của dân chủ trong thảo luận, tranh luận đồng thời đánh dấu một bước tiến trong nhận thức khoa học. Tư tưởng này về cơ bản đã hình thành từ Đại hội X, được bổ sung và khẳng định tại Đại hội XI. Cần phải đứng trên quan điểm lịch sử – cụ thể và quan điểm thực tiễn, xuất phát từ đổi mới của Việt Nam và xu thế phát triển kinh tế tri thức trong thời đại cách mạng khoa học - công nghệ, xã hội thông tin để thấy tính hợp lý trong điều chỉnh nhận thức từ tư duy về chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu sang tư duy về quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Việt Nam, trong suốt TKQĐ lâu dài cần phải tập trung phát triển lực lượng sản xuất. Để trở thành lực lượng sản xuất hiện đại phải phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường dựa trên tiến bộ của khoa học - công nghệ. TKQĐ cũng là thời kỳ tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội đan xen, nhiều hình thức sở hữu và phân phối. Đó là cách thức để lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ xã hội hoá cao. Đến lúc đó, tất yếu sẽ chín muồi trình độ xã hội hoá cao tương ứng của chế độ sở hữu xã hội, của công hữu. Đó là lúc chủ nghĩa xã hội sẽ định hình đầy đủ các đặc trưng cơ bản của nó chứ không chỉ đặc trưng kinh tế. Những đặc trưng đó mới chỉ phát sinh và đang hình thành trong TKQĐ. Vì thế, phải đến khi TKQĐ kết thúc, chúng ta mới đạt được mục tiêu tổng quát là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh và hạnh phúc. Do đó, trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất hiện đại mà xác lập quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp là đúng đắn và cần thiết, tránh khuynh hướng đồng nhất giản đơn TKQĐ với chủ nghĩa xã hội. Nó nhất quán với tư tưởng giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường nhiều thành phần, tạo động lực thúc đẩy kinh tế phồn vinh chứ không gây ra những lực cản kìm hãm phát triển sản xuất và kinh tế, kể cả lực cản trong tư duy, nhận thức. Hơn nữa, phải hiểu công hữu là kết quả rất cao của xã hội hoá và trong nền kinh tế tri thức, tư liệu sản xuất chủ yếu không chỉ là công cụ, vật thể mà là trí tuệ, sở hữu trí tuệ gắn với trí tuệ của cá nhân - chủ thể chứ không phải và không thể công hữu hoá theo lối tư duy truyền thống trước đây.

Điều quan trọng là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải vận hành đúng quy luật vừa tuân theo quy luật thị trường vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh đã nhấn mạnh, phải phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước, trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ…

Ngoài những điểm bổ sung, phát triển mới về lý luận nêu trên, cương lĩnh lần này được Đại hội XI thông qua còn nêu rõ những điểm mới trong phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhấn mạnh tầm quan trọng của bảo vệ tài nguyên, môi trường, phát huy nguồn lực trí tuệ; trong định hướng phát triển văn hoá và con người Việt Nam chú trọng xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao, giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách con người và nền văn hoá Việt Nam. Đây là chất lượng nhân văn của phát triển và phát triển bền vững. So với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã đề cập tới các mối quan hệ lớn cần phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình thực hiện các phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị (rộng và sâu sắc hơn nhiều so với đổi mới hệ thống chính trị); giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;... Không phiến diện, cực đoan, duy ý chí. Có thể nói, 8 đặc trưng, 8 phương hướng và 8 mối quan hệ lớn nêu trên đã hợp thành một chỉnh thể hữu cơ của lý luận đổi mới, lý luận chủ nghĩa xã hội Việt Nam, lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Lý luận ấy được khái quát từ thực tiễn Việt Nam, từ tổng kết thực tiễn một cách khoa học của Đảng. Cương lĩnh cũng như các Văn kiện khác được Đại hội XI thông qua đã kết tinh được trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, chỉ ra bản chất, mục tiêu, động lực và các giải pháp lớn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Đặc biệt có ý nghĩa khi Đảng ta ghi vào Cương lĩnh quan niệm khoa học với những nhận thức mới về tư tưởng Hồ Chí Minh. “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, giành thắng lợi”.

3- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 - Hệ quan điểm phát triển

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 là chiến lược tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển nhanh, bền vững, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chiến lược là một văn kiện được soạn thảo hết sức công phu, thể hiện tầm nhìn và hành động của Đảng, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân trong 10 năm tới để đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại với định hướng xã hội chủ nghĩa.

Văn bản chiến lược có một kết cấu hoàn chỉnh, với nội dung phong phú, những phân tích, đánh giá tình hình, những dự báo và trù tính chiến lược phát triển đều xuất phát từ thực tiễn đất nước và bối cảnh quốc tế, chứa đựng nhiều điểm sâu sắc, nhất quán với quan điểm đổi mới và phát triển. Nội dung cốt yếu của chiến lược là xác định quan điểm phát triển, mục tiêu chiến lược và những khâu đột phá. Đây là cơ sở lý luận - thực tiễn cho việc đề ra những định hướng phát triển kinh tế xã hội, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế.

Một trong những nhận định quan trọng của chiến lược khi đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong thập kỷ qua là ở chỗ, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật để chỉ ra những điểm nghẽn cản trở sự phát triển, cần phải vượt qua. Để vượt qua phải tìm đúng và giải quyết tốt những khâu đột phá.

Vậy những điểm nghẽn là ở đâu? Đó là thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng.

Các quan điểm phát triển hướng vào việc giải quyết những điểm nghẽn đó, thực hiện những đột phá trong kinh tế - xã hội, đưa Việt Nam bứt phá về phía trước. Do đó tinh thần cơ bản, chủ đạo của chiến lược là phát triển bền vững, đó là vấn đề vừa thời sự cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài, hướng tầm nhìn tới giữa thế kỷ, tới 2050.

Chiến lược đề cập tới 5 quan điểm phát triển sau đây:

Thứ nhất, phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong chiến lược.

Thứ hai, đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị, vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thứ ba, mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự nghiệp phát triển.

Thứ tư, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao, đồng thời hoàn thiện QHSX trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ năm, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Phát triển bền vững được định hướng bởi 5 quan điểm nêu trên đã chú trọng không chỉ tăng trưởng và tốc độ tăng trưởng mà còn đặc biệt coi trọng chất lượng tăng trưởng, chất lượng phát triển, lấy phát triển con người, vì mục tiêu con người làm trung tâm, là hướng đích. Theo đó, thực chất phát triển bền vững là phát triển bền vững con người, nguồn lực quan trọng và quyết định nhất của phát triển.

Thực hiện Chiến lược này đòi hỏi phải phát triển bền vững kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế, phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, từ chiều rộng sang chiều sâu, chú trọng năng suất, chất lượng, hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong hội nhập.

Giải quyết mối quan hệ giữa phát triển nhanh và bền vững sao cho phát triển nhanh tạo nguồn lực cho phát triển bền vững và phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh.

Chiến lược cũng nhấn mạnh, phải luôn luôn gắn kết phát triển nhanh và bền vững trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội.

Cần phải có những đảm bảo chính trị cho phát triển nhanh và bền vững, do đó phải đặc biệt coi trọng giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Như vậy, phát triển bền vững đòi hỏi phát triển toàn diện, cân đối, hài hoà, bao quát các lĩnh vực từ kinh tế đến xã hội, chính trị và văn hoá cũng như sự an toàn bền vững của môi trường, luôn luôn lấy chất lượng con người làm thước đo nhân văn của phát triển.

Các mục tiêu, các khâu đột phá, các định hướng phát triển kinh tế - xã hội đều thể hiện và xoay quanh định hướng phát triển bền vững ấy.

Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nâng cao chất lượng con người và xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ chính là những khâu đột phá được xác định trong chiến lược quan trọng này, phấn đấu đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa trong những thập kỷ tới vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.