Ba i tích hợp liên môn môn toán năm 2024

Dạy học tích hợp có nghĩa là đưa những nội dung giáo dục có mối liên hệ vào quá trình giảng dạy các môn như: tích hợp giáo dục đạo đức, lối sống; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, an toàn giao thông… vào các môn học như: địa lí, hóa học, giáo dục công dân, Anh văn, ngữ văn, sinh học….

Xen thêm: Cách nhận xét sổ liên lạc

Dạy học liên môn là phải xác định các nội dung kiến thức có sự tương đồng đến hai hay nhiều môn học để dạy học, tránh việc học sinh phải học đi học lại nhiều lần một nội dung kiến thức ở nhiều môn học không giống nhau. Đối với những kiến thức liên môn nhưng có một môn học chiếm ưu thế thì có thể sắp xếp dạy trong chương trình của môn đó và không dạy lại ở các môn còn lại.

Xem thêm: Phương pháp dạy học sinh tiểu học

Ba i tích hợp liên môn môn toán năm 2024

Ưu điểm dạy học tích hợp với học sinh

Nội dung mang tính thực tiễn khách quan hơn giúp cho bài học trở nên sinh động, thu hút với các em, không gây nhàm chán mà tạo động lực để các em sáng tạo, tự tư duy theo cách suy nghĩ của bản thân. Những kiến thức được các em vận dụng ngay vào giải quyết những vấn đề thực tiễn, ít học vẹt.

Những nội dung đã tích hợp còn tiết kiệm thời gian học cho các em tìm hiểu những kiến thức khác vì các em không phải học đi học lại một nội dung ở những môn khác nhau nữa. Điều đó không những tạo quá nhiều áp lực, gây tẻ nhạt trong việc học, làm chậm khả năng tư duy của các em, biến bộ não thành những cỗ máy lập trình sẵn nữa mà thay vào đó làm tăng khả năng tự giác, chủ động trong học tập, giúp các em tìm lại niềm hứng thú.

Xem thêm: 5 phương pháp nhớ lâu hiệu quả nhất

Ưu điểm dạy tích hợp liên môn với giáo viên

Giáo viên đã có sự am hiểu những kiến thức liên môn trong quá trình giảng dạy bộ môn của mình nên dễ dàng tổng hợp và rút gọn kiến thức thành những ý chính dễ hình dung và không bị trùng lặp.

Giáo viên không chỉ đơn thuần là người truyền đạt kiến thức mà còn là người đứng ra tự tổ chức, kiểm tra, đánh giá và định hướng học tập cho học sinh trong và ngoài lớp học với phương pháp này.

Những giáo viên các bộ môn có liên quan sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi và chủ động hơn trong sự phối hợp, hỗ trợ nhau trong công tác giảng dạy.

Bài viết tham khảo: Trò chơi tập làm cô giáo dạy học sinh

Khuyết điểm – khó khăn của dạy học tích hợp

Thoạt đầu, những bước cần chuẩn bị để giảng dạy kiểu mới còn gặp nhiều trục trặc về việc thống nhất giáo án và phương thức dạy. Tuy nhiên, điều đó là có cơ sở để dễ dàng giải quyết vì giáo án và cách dạy được quyết định dựa trên kĩ năng chuyên môn sư phạm và có lộ trình từ Bộ Giáo dục & Đào tạo. Vấn đề bất cập lớn hơn chính là tâm lí giáo viên với sức ép liên môn vừa phải giảng dạy cho các em dễ tiếp thu mà vừa phải giúp các em ứng dụng được vào thực tiễn, không rời xa lí thuyết.

Xem thêm: Học sinh lười học, chúng ta nên làm gì?

Giáo viên cần chuẩn bị gì

Giáo viên cũng không cần phải trang bị thêm quá nhiều về mặt kiến thức vì cơ bản vẫn là dạy môn học mà mình đang thị phạm. Mặt khác, trong những năm qua giáo viên cũng đã có những khóa luyện tập về các kiến thức mới về phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực phối hợp với công nghệ thông tin, điện tử.

Vấn đề bây giờ là phải vận dụng những kiến thức đó để:

  • Xây dựng các nội dung chính để giảng dạy
  • Xác định những năng lực có thể nâng cao cho hs trong từng nội dung
  • Biên soạn các câu hỏi, bài tập để đánh giá trình độ của học sinh
  • Thiết kế tiến trình dạy học thành các hoạt động học của học sinh
  • tổ chức dạy học để dự giờ, phân tích, rút kinh nghiệm.

Xem thêm: Gia sư là gì

Bộ GD-ĐT dự kiến yêu cầu các đơn vị đặt ra định mức cho mỗi tổ/nhóm chuyên môn là xây dựng và thực hiện được tối thiểu 2 chủ đề/học kì. Việc thực hiện những chủ đề ấy chính là môi trường huấn luyện tốt nhất cho giáo viên ở trong tổ bộ môn, trong nhà trường.

Trung tâm gia sư dạy kèm uy tín với 8 năm hoạt động và hàng ngàn gia sư chất lượng cao sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu về dạy kèm tại nhà. Chúng tôi cung cấp gia sư và các bài viết hữu ích liên quan tới chủ đề giáo dục mà quý khách cần tìm hiểu. Mọi đóng góp về hoạt động, góp ý, quảng cáo vui lòng liên hệ số hotline hoặc email bên dưới. Xin cám ơn

  • 1. PHÚC TRƯỜNG THPT TRẦN HƯNG ĐẠO =====***===== BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU - ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN Tên sáng kiến TÍCH HỢP LIÊN MÔN TRONG DẠY HỌC CHỦ ĐỀ XÁC SUẤT CỦA BIẾN CỐ Tác giả sáng kiến: Nguyễn Thị Thanh Hòa Mã sáng kiến: 09.52.01
  • 2. thiệu Dạy học tích hợp liên môn là một trong những phương pháp ngày càng được quan tâm trong những năm gần đây. Đó là một trong những phương pháp dạy học mới đem đến cho giáo dục những giá trị thực tiễn. Vì trong một giờ học, học sinh được tiếpcận với nhiều môn học chứ không phải một môn học khô cứng. Hơn nữa học sinh có thể vận dụng các kiến thức nhiều môn học trong bài học để giải quyết các tình huống nảy sinh trong thực tế. Nhưng hiện nay, việc dạy học ở trường phổ thông đa phần các em mới được học kiến thức một cách riêng rẽ, chưa được tiếp cận vấn đề trong một chỉnh thể chung, thống nhất. Các em mới chỉ được nhìn vấn đề theo phương diện từng môn, trong khi tất cả những sự kiện, những vấn đề các em gặp phải ngoài đời sống đều cần đến kiến thức đa môn để giải quyết. Dạy học theo chủ đề tích hợp là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và dạy học Toán học nói riêng, đây được coi là một quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục. Dạy học tích hợp làm cho người học nhận thức được sự phát triểnxã hội một cách liêntục, thống nhất, thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, khắc phục được tính tản mạn rời rạc trong kiến thức. Trong đó, môn Toán là môn học có đặc thù khó tích hợp được với các môn học khác. Tuy nhiên cũng có một số bài có thể tích hợp được với một số môn học và tôi đã chọn “Tích hợp liên môn trong dạy học chủ đề Xác suất của biến cố’’ làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình. Thông qua sáng kiến kinh nghiệm này, ngoài kiến thức Toán cần đạt được các em có thể khắc sâu thêm các phần kiến thức đã học ở bộ môn khác: Lịch sử, Sinh học, GDCD, Hình học,…và các tình huống thường gặp trong thực tế. Không những thế, thông qua công việc được giao, các em chủ động lĩnh hội kiến thức, tăng kĩ năng làm việc theo nhóm hiệu quả. Qua vận dụng sáng kiến này, các em cũng có hiểu biết sâu sắc về ứng dụng của xác suất với đời sống và các môn học khác, tăng cường ý thức bảo vệ sức khoẻ mình, ý thức bảo vệ môi trường và giải quyết được nhiều vấn đề trong thực tiễn cuộc sống. 2. Tên sáng kiến “Tích hợp liên môn trong dạy học chủ đề Xác suất của biến cố”. 3.Tác giả sáng kiến: - Họ và tên: Nguyễn Thị Thanh Hòa - Địa chỉ: Trường THPT Trần Hưng Đạo – Tam Dương – Vĩnh Phúc. - Số điện thoại: 0987.444.700 - Email: [email protected] 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Thanh Hòa 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: - Môn Đại số và Giải Tích lớp 11 ban cơ bản -Trong phạm vi đề tài này, tôi thực hiện nghiên cứu đưa ra các phương pháp, nội dung tích hợp kiến thức Lịch sử, Địa lí, Sinh học, GDCD, Thực tế để dạy chủ đề Xác suất của biến cố thuộc chương trình Đại số và Giải tích 11. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Ngày 25 tháng 10 năm 2019. 7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
  • 3. của sáng kiến PHẦN I. MỞ ĐẦU 7.1.1. Lí do chọn đề tài Tích hợp trong dạy học nói chung, trong Toán học nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong giáo dưỡng, giáo dục, rèn luyện và phát triển kĩ năng tư duy, phân tích tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học kĩ thuật trong giai đoạn hiện nay đang đòi hỏi sự thay đổi căn bản và toàn diện về nội dung và phương pháp giáo dục. Từ cách tiếp cận nội dung, giáo dục chuyển sang tiếp cận năng lực. Điều đó đặt ra những yêu cầu về nguyên tắc và phương pháp giáo dục theo hướng tích hợp để giải quyết vấn đề đặt ra trên đây. Việc thực hiện vận dụng kiến thức Vật lí, Địa lí, Sinh học trong dạy học Toán học nói chung đã được nhiều giáo viên môn Toán thực hiện trong những năm qua. Tuy nhiên, việc thực hiện tích hợp kiến thức như thế nào trong dạy học Toán học đảm bảo tính vừa sức và nâng cao hứng thú, tính tích cực và khả năng tư duy sáng tạo của học sinh trong học tập còn nhiều hạn chế, nhất là việc đưa ra các phương pháp, cách thức tích hợp kiến thức Vật lí, Địa lí, Sinh học, Tin học,.... trong dạy học Toán học Cùng với những hạn chế còn tồn tại trong quá trình thực hiện vận dụng kiến thức Vật lí, Địa lí, Sinh học, GDCD trong giảng dạy Toán học; với mong muốn nâng cao hứng thú của học sinh trong học tập bộ môn, từ đó góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, tôi lựa chọn nội dung “Tích hợp liên môn trong dạy học chủ đề Xác suất của biến cố làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình. 7.1.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài. Qua đề tài này, tôi muốn giúp học sinh thấy được mối liên hệ giữa kiến thức môn Toán học với các môn học khác đặc biệt là môn Vật lí, Địa lí, Sinh học,... thực tế. Từ đó việc tiếp thu kiến thức của học sinh cũng trở nên hệ thống, khoa học và sâu sắc hơn và học sinh biết vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các tình huống trong cuộc sống. Tìm hiểu, nghiên cứu và áp dụng các phương pháp tích hợp kiến Vật lí, Địa lí, Sinh học, GDCD, thực tế trong dạy học chủ đề Xác suất của biến cố góp phần nâng cao hứng thú và năng lực tư duy sáng tạo của học sinh trong học tập bộ môn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. 7.1.3. Đối tượng, khách thể nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu việc vận dụng tích hợp Vật lí, Địa lí, Sinh học, thực tế trong dạy học chủ đề Xác suất của biến cố thuộc chương trình Đại số và Giải tích 11 Ban cơ bản. - Khách thể nghiên cứu: học sinh lớp 11 trường Trung học phổ thông Trần Hưng Đạo- huyện Tam Dương- Tỉnh Vĩnh Phúc. 7.1.4. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng phương pháp các phương pháp như: Nghiên cứu lí luận: Tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu toán học; phương pháp dạy học môn Toán và các tài liệu khác liên quan đến đề tài Xác suất của biến cố. Ngoài ra tôi
  • 4. kiến thức các môn học khác Vật lí, Sinh học, Địa lí, thực tế,... có thể tích hợp với chủ đề nêu trên. Quan sát: Quan sát thực trạng dạy và học môn Toán nói chung và phân môn Giải tích nói riêng ở trường phổ thông. Thực nghiệm sư phạm: Tổ chức thực nghiệm sư phạm để xem xét tính khả thi và hiệu quả của việc tích hợp các môn học khác và mối liên hệ với thực tiễn trong dạy học Giải tích ở trường phổ thông. 7.1.5. Phạm vi nghiên cứu: - Về nội dung: Nghiên cứu việc vận dụng tích hợp Vật lí, Địa lí, Sinh học, GDCD, Tin học thực tế trong dạy học chủ đề Xác suất của biến cố thuộc chương trình Đại số và Giải tích 11 Ban cơ bản. - Về khách thể nghiên cứu: trên 60 học sinh ở khối lớp 11 của trường THPT Trần Hưng Đạo -Về thời gian nghiên cứu: Tháng 10, 11năm học 2019 – 2020. 7.1.6. Điểm mới của đề tài - Tìm hiểu, nghiên cứu, đưa ra các nộidung kiến thức Vật lí, Địa lí, Sinh học, GDCD, thực tế có thể thực hiện tích hợp trong quá trình dạy học học chủ đề Xác suất của biến cố thuộc chương trình Đại số và Giải tích 11 Ban cơ bản. - Tìm hiểu, nghiên cứu và áp dụng các phương pháp thực hiện tích hợp kiến kiến thức Vật lí, Địa lí, Sinh học, GDCD thực tế trong quá trình dạy học học chủ đề Xác suất của biến cố thuộc chương trình Đại số và Giải tích 11 Ban cơ bản, góp phần nâng cao hứng thú và năng lực tư duy sáng tạo của học sinh trong học tập bộ môn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Ngoài ra còn giúp học sinh có kĩ năng vận dụng Toán học cụ thể là nội dung Xác suất của biến cố để giải quyết các tình huống trong thực tế cuộc sống. 7.1.7. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận; Phần nội dung của sáng kiến được cấu tạo thành 3 chương: Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc dạy học tích hợp Chương 2. Nội dung tích hợp liên môn khi dạy chủ đề Xác suất của biến cố Chương 3. Kết luận CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
  • 5. HỢP 1. Cơ sở lí luận của việc dạy học tích hợp 1.1. Quan điểm tích hợp trong dạy học nói chung. Tích hợp là một khái niệm rộng, không chỉ dùng trong lí luận dạy học. Tích hợp trong Tiếng Anh Integration có nguồn gốc từ tiếng Latin Integration có nghĩa là xác lập cái chung, cái toàn thể, cái thống nhất trên cơ sơ những bộ phận riêng lẻ. Theo từ điển Tiếng Việt: “Tích hợp là sự kết hợp những hoạt động, chương trình hoặc những thành phần khác nhau thành một khối chức năng. Tích hợp có nghĩa là sự thống nhất, sự hoà hợp, sự kết hợp”. Theo từ điển Giáo dục học: “Tích hợp là hành động liên kết các đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặcvài lĩnh vực khácnhau trong cùng một kế hoạch dạy học. Tích hợp là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực. Trong lĩnh vực khoa học giáo dục, khái niệm tích hợp xuất hiện từ thời kì khai sáng, dùng để chỉ một quan niệm giáo dục toàn diện con người, chống lại hiện tượng làm cho con người phát triển thiếu hài hoà cân đối. Như chúng ta đã biết, tích hợp là một trong những quan điểm giáo dục đã trở thành xu thế để xác định nội dung và chương trình dạy học ở nhiều nước trên thế giới. Thực tiễn đã cho thấy việc thực hiện quan điểm tích hợp trong dạy học đã giúp phát triển năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp và làm cho việc học tập trở nên có ý nghĩa hơn đối với học sinh so với việc học những môn hoc được thực riêng rẽ. Như vậy tích hợp chính là một trong những quan điểm giáo dục nhằm nâng cao năng lực người học, giúp đào tạo những người có đủ phẩm chất và năng lực để giải quyết vấn đề của cuộc sống hiện đại. Ở Việt Nam quan điểm dạy học tích hợp cũng đã xuất hiện từ những năm đầu thế kỉ XXI. Và đến hiện nay quan điểm dạy học này đã được áp dụng trong tất cả các cấp học và bước đầu đã cho thấy hiệu quả tích cực. Đã có nhiều nội dung được Bộ Giáo dục và đào tạo chỉ đạo đưa vào quá trình giảng dạy các môn học như: Giáo dục đạo đức, pháp luật, giáo dục chủ quyền quốc gia, tài nguyên, môi trường, biên giới, biển, đảo, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh… Trong giai đoạn hiện nay, dạy học tíchhợp còn là sự lồng ghép những môn học khác có nội dung liên quan vào môn học nào đó người giáo viên có thể giúp học sinh thấy được mối liên hệ giữa các môn học, từ đó có thể hiểu một cách sâu sắc nội dung bài học. Ví dụ như khi dạy môn Toán học, giáo viên có thể tích với kiến thức của các môn: Vật lí, Địa lí, Sinh học, thực tế, Giáo dục công dân,… Như vậy trong dạy học bộ môn, tích hợp được hiểu là sự kết hợp, tổ hợp các nội dung từ các môn học, lĩnh vực học tập khác nhau thành một môn học mới hoặc lồng ghép các nội dung cần thiết vào những nội dung vốn có của môn học. 1.2. Quan điểm tích hợp trong dạy học Toán học. Như chúng ta đã biết ngày nay lí thuyết hiện đại về quá trình học tập đã nhấn mạnh rằng hoạt động của học sinh trước hết là học cách học. Theo ý nghĩa đó, quan điểm dạy học tích hợp đòi hỏi giáo viên phải có cách dạy chú trọng phát triển ở học sinh cách thức lĩnh hội kiến thức và năng lực, phải dạy cho học sinh cách thức hành động để hình thành kiến thức và kĩ năng cho chính mình, phải có cách dạy học buộc học sinh phải tự đọc, tự học để hình thành thói quen tự đọc, tự học để hình thành thói quen tự đọc, tự học suốt đời coi đó là một hoạt động đọc hiểu trong suốt quá trình học tập ở nhà trường.
  • 6. bài học Toán học theo quan điểm tích hợp không chỉ chú trọng đến nội dung kiến thức tích hợp mà cần thiết phải xây dựng một hệ thống việc làm, thao tác tương ứng nhằm tổ chức, dẫn dắt học sinh từng bước thực hiện để chiếm lĩnh đối tượng học tập, nội dung học tập, đồng thời hình thành và phát triển năng lực, kĩ năng tích hợp, tránh áp đặt một cách làm duy nhất. Giờ học Toán theo quan điểm tích hợp phải là một giờ học hoạt động phức hợp đòi hỏi sự tích hợp các kĩ năng, năng lực liên môn để giải quyết nội dung tích hợp, chứ không phải sự tác động các hoạt động, kĩ năng riêng rẽ lên một nội dung riêng rẽ thuộc nội bộ phân môn. Tóm lại, quan điểm tích hợp cần được hiểu toàn diện và phải được quán triệt trong mọi khâu của quá trình dạy học, quán triệt trong mọi yếu tố của hoạt học tập, tíchhợp trong chương trình, tích hợp trong sách giáo khoa, tích hợp trong phương pháp dạy học của giáo viên và tích hợp trong hoạt động học tập của học sinh. Quan điểm lấy học sinh làm trung tâm đòi thực hiện việc tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh trong mọi mặt, trên lớp và ngoài giờ, đồng thời cần phải bồi dưỡng lòng tin để các em tự tin và tự học, khi đó hoạt động dạy học mới thật sự có ý nghĩa. 2. Cơ sở thực tiễn. 2.1. Nhận thức về dạy học tích hợp. Có thể khẳng định rằng dạy học tích hợp là một xu thế dạy học hiện đại. Bởi vậy hầu hết giáo viên đang làm công tác giảng dạy ở nhà trường phổ thông đều nhận thức được đây là một phương pháp, cách thức dạy học mang lại hiệu quả tích cực. Hơn nữa Toán học lại là môn học có khả năng tích hợp được với nhiều nội, nhiều môn học khác nhau. Vì vậy trong quá trình giảng dạy, giáo viên đã có ý thức tìm hiểu và áp dụng. Trong những năm gần đây, Sở Giáo dục và Đào tạo rất chú trọng đến dạy học tích hợp. Vì vậy, dưới sự quán triệt, chỉ đạo của Sở giáo viên ở các trường phổ thông cũng đã được bồi dưỡng, tập huấn dạy học tích hợp với nhiều nội dung như tích hợp tư tưởng Hồ Chí Minh, Dân số, Môi trường, Kỹ năng sống, Pháp luật cũng như tích hợp các kiến thức liên môn trong một số môn học trong đó có môn Toán. 2.2. Thực trạng dạy học tích hợp trong môn Toán học ở trường THPT Trần Hưng Đạo. Có thể khẳng định rằng giáo viên trường THPT Trần Hưng Đạo nhận thức rõ tầm quan trọng và ý nghĩa của dạy học tích hợp. Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy hiện nay, vẫn còn giáo viên chưa thực sự hiểu rõ về tíchhợp. Chính vì chưa hiểu kĩ về khái niệm này nên trong quá trình giảng dạy giáo viên mới chỉ dừng lại ở việc lồng ghép hoặc đưa ra một vài chỗ liên hệ trong bài học dẫn đến việc tích hợp trở nên khiên cưỡng. Cũng có khi trong quá trình dạy học giáo viên lại quá lạm dụng tích hợp dẫn đến một giờ học Toán nhưng lại ôm đồm quá nhiều nội dung hoặc kiến thức của những môn học khác làm cho bài học trở nên cồng kềnh dẫn đến phá vỡ thời lượng của bài học. Ngoài ra còn làm cho bài học không có trọng tâm, thiếu chiều sâu, thiếu tính hệ thống hoặc biến giờ học toán thành giờ học của các môn khác. 2.3. Một số kinh nghiệm dạy học tích hợp trong môn Toán học 2.3.1. Trước hết phải hiểu thế nào là dạy học tích hợp trong môn Toán học. Tích hợp trong quá trình dạy học là sự phối kết hợp các tri thức của một số môn học có những nét chính, tương đồng xoay quanh một chủ đề nào đó. Nói cách khác, tích hợp là phương pháp phối hợp một cách riêng lẻ các môn học khác nhau, các nội dung khác nhau theo những hình thức, cấp độ khác nhau nhằm đáp ứng mục tiêu, mục đích yêu cầu cụ thể nào đó của tiết học.
  • 7. môn Toán học không chỉ là sự kết nối tri thức của hai phân môn: Đại số, Giải tích và Hình học mà đó còn là sự tích hợp những kiến thức liên môn như Vật lí, Địa lí, Sinh học, Giáo dục công dân hay những nội dung riêng lẻ khác như kĩ năng sống, môi trường, ….vào từng bài học, từng vấn đề cụ thể. Đây chính là phương pháp dạy học tiếp cận từ việc khái thác những tri thức của nhiều nội dung, nhiều môn học khác có liên qua đến môn Toán học. Từ đó để tăng thêm tính thuyết phục, tính phong phú, hấp dẫn và mối liên hệ, liên quan lẫn nhau của những môn học và khắc sâu nội dung môn học hơn. 2.3.2. Xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học tích hợp. Để vận dụng phương pháp dạy học tích hợp có hiệu quả, người dạy cần phải xác định chính xác, đúng đắn mục tiêu, nguyên tắc, phương pháp, nội dung dạy tích hợp trong bài dạy. Theo kinh nghiệm của tôi, cụ thể như sau: * Mục tiêu: (Trả lời câu hỏi: Sử dụng dạy học tích hợp trong bài dạy để làm gì?) Để khắc sâu kiến thức thức bài học Để thấy được mối liên quan, liên hệ giữa kiến thức của môn Toán học với các nội dung và các môn học khác. Rèn kỹ năng vận dụng Toán học để giải quyết các tình huống thực tế. * Nội dung: (Trả lời câu hỏi: Trong bài dạy, nội dung nào cần phải dạy theo hướng tích hợp?) Các nội dung kiến thức có những điểm liên quan với các nội dung, những môn học khác. Các nội dung kiến thức cần đến những kiến thức liên môn của các môn học khác để làm phương tiện, công cụ khai thác. * Nguyên tắc: (Trả lời câu hỏi: sử dụng phương pháp dạy học tích hợp xuất phát từ những cơ sở nào?) Căn cứ vào mục tiêu cần đạt của bài học Căn cứ vào những nội dung cần kiến thức của các môn học khác để làm sáng tỏ. * Phương pháp: (Trả lời câu hỏi: Cách thức sử dụng phương pháp dạy học tích hợp như thế nào?) Có nhiều cách thức để áp dụng phương pháp dạy học tích hợp trong quá trình dạy học nói chung và môn Toán học nói riêng. Tuỳ vào từng nội dung kiến thức của bài học mà người dạy sử dụng những cách thức tích hợp khác nhau. Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy, tôi thường sử dụng hai cách thức tích hợp sau: Tích hợp ngang: Là hình thức tích hợp liên môn, phân môn của môn Toán học như Đại số, Hình học, Giải tích để giải mã, làm rõ những kiến thức của Toán học và ngược lại. Tích hợp dọc: Là kiểu tích hợp trên cơ sở liên kết hai hoặc nhiều môn học thuộc cùng một lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực gần nhau CHƯƠNG II. NỘI DUNG TÍCH HỢP LIÊN MÔN KHI DẠY HỌC CHỦ ĐỀ XÁC SUẤT CỦA BIẾN CỐ.
  • 8. các vấn đề đặt ra trong chủ đề trên, học sinh cần học tập và vận dụng các kiến thức liên môn sau: Môn học Bài liên quan đến chủ đề tích hợp Ghi chú Hình học 8 Bài 1: Đa giác – Đa giác đều Sinh học lớp 9 Bài 1: Mendden và di truyền học Bài 12: Cơ chế xác định giới tính Sinh học lớp 12 Bài 10: Tương tác gen và tác động đa hiệu của gen Bài 12: Di truyền liên kết với giới tính và di truyền ngoài nhân. Tin học 11 Bài 12: Kiểu xâu Giáo dục công dân 12 Bài 2: Thực hiện pháp luật. Vật lý 11 Bài 10: Ghép các bộ nguồn thành bộ. Vật lý 9 Bài 4: Đoạn mạch mắc nối tiếp Bài 5: Đoạn mạch mắc song song Như vậy, học sinh được rèn luyện năng lực vận dụng những kiến thức liên môn ở trên để giải quyết các vấn đề thực tiễn của dự án: Xác suất của biến cố, các trò chơi trong thực tế cuộc sống. I. MỤC TIÊU DẠY HỌC 1. Về kiến thức. 1.1. Môn Đại số. - Nắm được định nghĩa cổ điển của xác suất - Nắm được công thức tính xác suất. - Các tính chất và hệ quả của xác suất - Nắm được các biến cố độc lập và công thức nhân xác suất 1.2. Môn Hình học. - Nắm được khái niệm về lục giác đều, khái niệm về cạnh, đường chéo của lục giác đều. 1.3 Môn Sinh học. - Giúp học sinh nắm được định nghĩa cổ điển của xác suất để giải các bài toán về di truyền. - Tính xác suất sinh con trai, con gái trong 3 lần sinh. 1.4. Môn Lịch sử - Nắm được lịch sử phát triển môn học xác suất trên thế giới, cuốn sách Tiếng Việt về xác suất – thống kê xuất bản lần đầu tiên ở nước ta - Giúp học sinh hiểu sự hình thành và lịch sử phát triển của toán học chính là sự bắt nguồn từ việc xây dựng các trò chơi dân gian, từ thực tế các câu chuyện may rủi của những nhà tài phiệt. 1.5. Môn giáo dục công dân. - Nắm được một số luật quy định của nhà nước về các vấn đề chơi cờ bạc, luật về lựa chọn giới tính thai nhi,…. gắn liền với cuộc sống của chúng ta được học trong môn giáo dục công dân. - Giúp học sinh hiểu các bài toán, các trò chơi dân gian, qua các bài toán, các trò chơi dân gian đó giúp học sinh phát triển lối sống kỹ năng khác, giáo dục lối sống lành mạnh. Khả năng hiểu biết và tư duy xã hội theo hướng tích cực không xa đọa. 1.6. Môn Tin học. - Nắm được cách tìm kiếm, tra thông tin trên mạng Internet. -Biết cách làm một bài thuyết trình PowerPoint. 1.7. Môn Vật Lý.
  • 9. nào là dạng mạch mắc nối tiếp, dạng mạch mắc song song. - Vẽ được dạng mạch mắc nối tiếp và mắc song song. 1.8. Kiến thức về thực tế, xã hội. - Các trò chơi trên truyền hình: Chiếc nón Kỳ diệu, chọn bóng, tung súc sắc,… - Quy luật của trò chơi thực tế.l 1.9. Kiến thức về Y học. - Khả năng sinh con trai hay con gái,… 1.10. Môn Thể dục – Thể thao, Giáo dục – An ninh quốc phòng. - Giúp học sinh hiểu công thức tính xác suất và tính toán làm sao để đảm bảo an toàn trong thể thao, khả năng may rủi có thể có trong thể thao. - Ảnh hưởng của xác suất trong thành tích đạt được như thế nào. 2. Kỹ năng. 2.1. Môn Đại số. - Biết vân dụng công thức tính xác suất để giải toán - Giải được bài toán thực tế về xác suất - Vận dụng các tính chất và hệ quả của xác suất vào các bài toán - Biết vận dụng quy tắc cộng và quy tắc nhân xác suất vào giải toán. 2.2. Môn Hình học. - Vận dụng tính chất lục giác đều vào giải toán xác suất 2.3. Môn Sinh học. - Vận dụng lý thuyết xác suất và tổ hợp để giải các bài toán về di truyền học - Tính tần số xuất hiện tổ hợp gen - Xác suất có được một cây có chiều cao ở mức độ nào đó. 2.4. Môn Lịch sử - Hiểu được lịch sử phát triển môn học xác suất trên thế giới, cuốn sách Tiếng Việt về xác suất – thống kê xuất bản lần đầu tiên ở nước ta 2.5. Môn Giáo dục công dân. - Vận dụng được các kiến thức pháp luật được học ở môn giáo dục công dân vào cuộc sống. - Nắm được Luật pháp quy định, sống và làm việc không vi phạm pháp luật 2.6. Môn Tin học - Biết cách tìm kiếm thông tin trên mạng Internet. -Thực hành làm một bài thuyết trình PowerPoint. 2.7. Môn Vật Lý. -Vận dụng kiến thức về mạch mắc nối tiếp và song song trong bài toán tính xác suất 2.8. Kiến thức về thực tế, xã hội. - Vận dụng được công thức tính xác suất, các quy tắc tính xác suất để giải quyết các bài toán thực tế, gắn liền với cuộc sống. - Vận dụng lý thuyết xác suất để biết lợi hại của các trò chơi 2.9. Kiến thức về Y học. - Nắm được khả năng sinh con trai hay con gái,…Từ đó tuyên truyền vận động mọi người có cách hiểu đúng về giới tính thai nhi. Từ đó không lạm dụng kĩ thuật Y học để lựa chọn giới tính thai nhi. 2.10. Môn Thể dục – Thể thao, Giáo dục – An ninh quốc phòng. - Học sinh biết sử dụng công thức tính xác suất, và tính toán làm sao để đảm bảo an toàn trong thể thao, khả năng may rủi có thể có trong thể thao.
  • 10. cách xác định và tư duy để đạt được thành tích cao nhất trong thi đấu. 3. Tư duy - Thái độ - Cẩn thận, trung thực, hợp tác trong các hoạt động. - Thấy mối liên hệ giữa Toán học với các môn học khác và thực tế cuộc sống. - Biết vận dụng các kiến thức được học để ứng dụng vào thực tế cuộc sống sao cho đạt hiệu quả cao nhất. - Hứng thú với phương pháp học tập mới, từ đó bồi dưỡng niềm say mê học tập với môn toán học. Bồi dưỡng khả năng tự học và học tập suốt đời cho học sinh - Học sinh khi trình bày sản phẩm học tập của mình phát triển dược năng lực sáng tạo, thể hiện ở các giải pháp khi trình bày sản phẩm. 4. Định hướng năng lực hình thành - Năng lực hợp tác - Năng lực tính toán - Năng lực tự học, tự nghiên cứu. - Năng lực sử dụng công nghệ thông tin - Năng lực giải quyết vấn đề. - Năng lực sáng tạo. - Năng lực tự đánh giá sự tiến bộ của học sinh trong quá trình học tập * Năng lực vận dụng kiến thức liên môn II. THỜI LƯỢNG DỰ KIẾN 3 tiết học tập trên lớp và làm việc trên lớp và 1 tuần làm việc nhóm học sinh ở nhà III. CHUẨN BỊ CỦA HỌC SINH VÀ GIÁO VIÊN 1. Giáo viên - Sách giáo khoa, Sách giáo viên, Chuẩn kiến thức kĩ năng, tài liệu tham khảo, Giáo án, Bản ghi chép. - Máy vi tính có nối mạng Internet, máy chụp hình, quay video. - Học liệu: Kiến thức liên môn, kiến thức vật lý, kiến thức … - Máy vi tính, máy chiếu 2. Học sinh - Mỗi học sinh chuẩn bị một cuốn sổ nhỏ; sau mỗi tiết học, học sinh tự ghi lại những nội dung đã học được, nội dung nào hứng thú, nội dung nào chưa hiểu. Giáo viên thu lại để điều chỉnh cách dạy cho tiết học tiếp theo - Vở, sách giáo khoa, kiến thức liên môn: Sinh học, vật lý, hình học, kiến thức thực tế,.. - Tìm tư liệu, làm việc theo nhóm, chuẩn bị bài trình chiếu của nhóm mình. - Bút màu, giấy A0 - Mỗi tổ chuẩn bị 5 con súc sắc. 3. Các phần mềm ứng dụng công nghệ thông tin - Phần mềm Microsoft Word - Phần mềm Microsoft Power Point - Phần mềm VLC Media Player IV. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC - Quan sát, đàm thoại, nêu vấn đề - Phương pháp dạy học theo dự án.
  • 11. vấn đề, hoạt động nhóm - Các kỹ thuật dạy học tích cực: kỹ thuật khăn trải bàn; kỹ thuật 3 lần 3; kỹ thuật động não, kỹ thuật sơ đồ tư duy,.. V. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC 1. Ổn định lớp. 2. Kiểm tra bài cũ. Câu hỏi: Nêu khái niệm phép thử ngẫu nhiên, không gian mẫu? Nêu ví dụ minh hoạ và chỉ ra không gian mẫu? HS trả lời đúng thì tiếp tục tham gia vào trò chơi sau đây: 3. Tiến trình các hoạt động học tập. Hoạt động 1: Hình thành khái niệm xác suất Hoạt động của giáo viên và học sinh Nội dung cơ bản GV: Cho HS tham gia một trò chơi khởi động như sau: HS cả lớp: Suy nghĩ xem có nên đổi không? Đổi hay không đổi thì khả năng nào nhận được quà hơn? GV: Gọi 1 vài HS nêu lên suy nghĩ của mình sau khi HS trên quyết định HS: Trình bày suy nghĩ của mình sau khi HS trên đã quyết định GV tổng kết: Nếu không đổi thì khả năng nhận được quà của HS là 1/3 Sau khi GV mở 1 trong 2 hộp và không có quà. Nếu HS trên mà đổi thì khả năng nhận được quà là 1 2 1 3 3 - = Vậy HS nên đổi thì khả năng nhận được quà cao hơn. Trên đây là một phép thử, đổi hộp hay không đổi là những biến cố. Con số 1/3 hay 2/3 đánh giá khả năng xảy ra của mỗi biến cố. Ta gọi đó là xác suất của biến cố. Để hiểu hơn về vấn đề này ta đi tìm hiểu chủ đề xác suất của biến cố, để xem Toán học có ứng dụng trong thực tế và trong ác môn học khác như thế nào? Trò chơi khởi động: Có 3 chiếc hộp để trên bàn, chỉ 1 trong 3 hộp có quà, còn 2 hộp không có gì. HS chọn 1 trong 3 chiếc hộp và GV yêu cầu HS không được mở hộp ngay. Sau đó GV mở 1 hộp không có quà trong 2 hộp còn lại. GV hỏi HS có đổi hộp quà đang cầm trên tay để lấy hộp quà còn lại không? Hoạt động 2: Hình thành định nghĩa xác suất Hoạt động của giáo viên và học sinh Nội dung cơ bản Ví dụ 1: Gieo ngẫu nhiên một con súc sắc cân đối và đồng chất a) Hãy mô tả không gian mẫu? Xác định số phần tử của không gian mẫu? b) Khả năng xuất hiện của mỗi mặt là bao nhiêu?
  • 12. thành 3 nhóm, yêu cầu các nhóm thực hiện yêu cầu của Ví dụ 1: HS: Thực hiện theo nhóm GV: Gọi 1 nhóm lên trình bày. Các nhóm khác đóng góp ý kiến bổ sung GV: Con số mà các em tìm được ở phần c) là xác suất của biến cố A. So sánh số 1 2 với tỉ số giữa số phần tử của A với số phần tử của không gian mẫu HS: Số 1 2 bằng với tỉ số giữa số phần tử của A với số phần tử của không gian mẫu GV: Sử dụng kĩ thuật khăn trải bàn để học sinh xây dựng định nghĩa xác suất của biến cố theo cách hiểu của mình. HS: Thực hiện nhiệm vụ. GV: Nêu định nghĩa chính xác. GV: Yêu cầu HS từ định nghĩa rút ra các bước tính xác suất của biến cố Tích hợp kiến thức về lịchsử ra đời môn Xác suất. Lý thuyết xác suất là bộ môn Toán học nghiên cứu các hiện tượng ngẫu nhiên. Sự ra đời của lý thuyết xác suất bắt đầu từ thư trao đổi giữa hai nhà Toán học vĩ đại người Pháp là Pa-xcan (1623-1662) và Phéc-ma (1601-1665) xung quanh các giải đáp một số vấn đề rắc rối nảy sinh trong các trò chơi cờ bạc mà một nhà quý tộc Pháp đặt ra cho Pa-xcan. Năm 1812, nhà toán học Pháp La-pla-xơ đã dự báo rằng : Môn khoa học bắt đầu từ việc xem xét các trò chơi may rủi này sẽ hứa hẹn trành một đối tượn quan trọng nhất của tri thức loài người. Vào năm 1948 cuốn sách tiếng Việt đầu tiên về xác suất thống kê mang tên: Thống kê thường thức được xuất bản tại chiến khu Việt Bắc. Tác giả của cuốn sách là cố giáo sư Tạ Quang Bửu, lúc đó c) Khả năng xảy ra của biến cố: A: “ Con súc sắc xuất hiện mặt lẻ chấm” là bao nhiêu? Giải: a)Không gian mẫu là Ω = { 1, 2, 3, 4, 5, 6}. b) Khả năng xuất hiện của mỗi mặt là như nhau và bằng 1 6 c) Biến cố A = {1, 3, 5}. Khả năng xuất hiện biến cố A là : 1 2 Định nghĩa: Giả sử phép thử T có không gian mẫu  là một tập hữu hạn và các kết quả của T là đồng khả năng. Nếu A là một biến cố liên quan với phép thử T thì ta gọi tỉ số )( )( n An là xác suất của A là một số, kí hiệu là P(A) )( )( )(   n An AP hoặc || || )(    A AP Chú ý: n(A) hặc | A | là số phần tử của A hay cũng là tập hợp các kết quả thuận lợi cho biến cố A n( ) hặc | A | là số các kết quả có thể xảy ra của phép thử
  • 13. trọng trách Bộ trưởng bộ quốc phòng. Hoạt động 3: Ví dụ áp dụng. Hoạt động của giáo viên và học sinh Nội dung cơ bản Tích hợp bài toán về môn Sinh học - GV: Yêu cầu HS hoạt động theo cặp đôi. - HS (hoạt động theo cặp đôi): Dùng kiến thức phần di truyền học xác định tần số alen và tính xác suất để có chiều cao 165cm, sau đó học sinh trình bày và gọi học sinh khác nhận xét. - GV: Gọi học sinh trình bày và chính xác lời giải Tích hợp bài toán thực tế về Lô đề GV:Muốn biết ai thiệt, ai có lợi trong trò chơi này em tính xác suất người chơi thắng trong trò chơi này là bao nhiêu? GV hướng dẫn:: Vận dụng kiến thức về xác suất đã học tính xác suất thắng của người chơi. Từ đó suy ra xác suất thua. HS: Dùng kĩ thuật kích não (thinking brain), làm bài trong thời gian 3 phút và đưa ra lời giải. GV: Nhận xét và đưa ra kết luận GV phân tíchthêm: Giả sử bạn đặt số tiền T(đồng) cho chủ đề Nếu trúng, bạn sẽ được T*70(đồng) Vậy lãi sẽ là : T*70 – T = 69*T(đồng) Nếu trượt, bạn hoa sẽ được : –T(đồng) Vậy trung bình bạn sẽ được lãi là : Ví dụ 2: Chiều cao cây do 3 cặp gen phân ly độc lập, tác động cộng gộp quy định. Sự có mặt mỗi alen trội trong tổ hợp gen làm tăng chiều cao cây lên 5cm. Cây thấp nhất có chiều cao =150cm. Cho cây có 3 cặp gen dị hợp tự thụ phấn. Xác định: - Tần số xuất hiện tổ hợp gen có 1 alen trội, 4 alen trội. - Xác suất có được một cây có chiều cao 165cm Giải: * Tần số xuất hiện: Tổ hợp gen có 1 alen trội 1 2 6 3 6 644 4 a n n C C = = Tổ hợp gen có 4 alen trội 4 4 2 6 3 15 644 4 n n C C = = - Cây có chiều cao 165cm hơn cây thấp nhất = 165cm – 150cm = 15cm → có 3 alen trội ( 3x5cm = 15cm ) * Vậy xác suất có được một cây có chiều cao 165cm là 3 6 3 20 5 = 64 324 C = Ví dụ 3: Lô đề là một trò chơi cờ bạc rất nổi tiếng. Người chơi đăng kí một số từ 00 đến 99. Người chơi thắng khi con số họ chọn trùng với giải bảy của sổ số kiến thiết hàng ngày. Nếu thắng thì người chơi được số tiền gấp 70 lần số tiền họ bỏ ra. Vậy người chơi hay chủ đề là có lợi trong vụ chơi cờ bạc này. Giải: Người chơi chọn hai chữ số tự nhiên bất kỳ trong tập số từ 0 đến 9 Gọi số ghi đề có dạng ab Có 10 cách chọn mỗi chữ số a, b. Theo quy tắc nhân có 10.10=100 cách chọn số đề
  • 14. – 0.3*T(đồng) Vậy: Mỗi lần chơi chủ đề thu về: 0.3*T(đồng) GV: Yêu cầu HS Tổ 1 trình bày quy định của pháp luật khi tham gia đánh- ghi đề (HS đã được giao nhiệm vụ tìm hiểu từ tuần trước) HS: Lên trình bày nội dung đã chuẩn bị Tích hợp giáo dục kỹ năng sống- GDCD GV tổng kết: Theo quy định của pháp luật thì hành vi đánh đề bị coi là hành vi đánh bạc và tuỳ mức độ có thể bị: 1. Xử phạt vi phạm hành chính 2. Truy cứu trách nhiệm hành sự. Vì vậy các em không nên tham gia vào các trò chơi liên quan đến cờ bạc. Nếu có tiền chúng ta có thể mua sổ số kiến thiết. Nếu trúng thì có lợi cho bản thân, nếu không thì tiền đó kiến thiết đất nước. Mỗi người hãy sống có ích không tham gia vào các trò lừa bịp trong xã hội, vừa mất tiền bản thân làm giàu bất chính cho kẻ khác lại vi phạm pháp luật. Ngoài ra phải tuyên truyền cho bạn bè, người thân và gia đình biết và phòng tránh. Tích hợp tình huống trong học tập GV: Muốn biết học sinh làm bài hiệu quả hay không ta phải làm gì trong bài toán này? HS: Tính xác suất học sinh đạt điểm tối đa và xác suất học sinh đạt điểm trung bình. GV: Yêu cầu các em làm bài GV: Em có nhận xét gì về kết quả trên? HS: Đưa ra nhận xét của mình Tích hợp giáo dục kỹ năng sống và học tập GV: Tổng kết: Qua kết quả trên cho thấy với hình thức kiểm tra bằng TNKQ thì một HS nếu học không học bài thì làm bài chắc chắn không hiệu quả và sẽ đạt điểm thấp. Hiện nay hình thức thi bằng TNKQ rất phổ biến, mỗi em một mã đề khác nhau, không thể trao đổi hay nhìn bài nhau được. Vì vậy các em phải tích cực học tập mới dạt được hiệu quả cao trong các kì thi Vậy xác suất để người chơi thắng là 1 100 , tức là xác suất thua là 1 0,01 0,99- = Ví dụ 4: Trong bài thi TNKQ có 30 câu hỏi, mỗi câu có 4 phương án trả lời, trong đó chỉ có 1 phương án trả lời đúng. Một học sinh không học bài nên làm bài bằng cách với mỗi câu chọn 1 phương án bất kỳ. Nếu làm bài theo cách đó có hiệu quả không? Giải: Xác suất để HS đạt 10 điểm tức là xác suất để HS trả lời đúng cả 30 câu là: 20 30 1 86,7.10 4 - = Xác suất để HS đạt điểm trung bình tức là xác suất để HS trả lời đúng 15 câu là: 15 30 15 1 1 0,122 24 C = <
  • 15. toán trong thực tế. GV: Yêu cầu HS bằng kiến thức về xác suất hãy giải quyết bài toán trên. GV: Hướng dẫn: Từ luật chơi cần phải tính được sau quá trình chơi thì người chơi có khả năng thu được bao nhiêu tiền? GV: Chia lớp thành 4 nhóm, Sử dụng kỹ thuật công đoạn trong bài toán này. Nhóm 1 làm ý a; nhóm 2 làm ý b, nhóm 3 làm ý c, nhóm 4 làm ý d. Sau khi làm xong các nhóm trình bày vào giấy Ao, nhóm 1 chuyển cho nhóm 2, nhóm 2 chuyển cho nhóm 3, nhóm 3 chuyển cho nhóm 4, nhóm 4 chuyển cho nhóm 1 . HS: thảo luận theo nhóm và ghi kết quả của nhóm vào giấy A0. - Cử đại diện của nhóm nộp kết quả cho GV - HS trao đối nhận xét kết quả của nhóm khác. GV: Nhận xét và cho điểm và khen thưởng nhóm làm tốt. GV: Yêu cầu HS tính số tiền mà người chơi có khả năng thu được và rút ra nhận xét có nên chơi không? HS: Trong các trò chơi may rủi hiện nay thì phần thiệt luôn thuộc về phía người chơi. Vì vậy đế chơi cho vui thì có thể chơi, còn nếu chơi với mục đích kiếm tiền thì không nên. Ví dụ 5: Trong hội chợ thường xuất hiện trò chơi chọn bóng như sau: Người chủ trò tay cầm túi vải, trong túi có 6 quả bóng đen và 6 quả bóng trắng. Điều kiện chơi như sau: Nếu bạn bỏ ra 20.000 đ thì được chọn 6 quả bóng. a) Nếu 6 quả bạn chọn toàn màu trắng hoặc toàn màu đen thì bạn được 50.000 đ. b) Nếu bạn chọn được 5 quả đen và 1 quả trắng hoặc 5 trắng 1 đen thì bạn được 20.000 đ c) Nếu bạn chọn được 4 quả trắng, 2 quả đen hoặc 2 trắng 4 đen thì bạn được 2000 đ d) Nếu bạn chọ được 3 quả đen, 3 quả trắng thì bạn không được gì và mất luôn 20.000 đ ở trên Và thực tế là người chơi luôn thua. Tại sao? Giải: Ta thấy rằng lấy được 6 quả bóng màu đen hoặc lấy 6 quả bóng màu trắng là chỉ có 1 khả năng. Nếu bạn chọn được 5 quả đen và 1 quả trắng hoặc 5 trắng 1 đen thì có 1 5 6 6 . 36C C = khả năng Nếu bạn chọ được 4 quả trắng, 2 quả đen hoặc 2 trắng 4 đen thì có 2 4 6 6 . 225C C = khả năng Nếu bạn chọn được 3 quả đen, 3 quả trắng thì có 3 3 6 6 . 400C C = khả năng Vậy các khả năng có thể xảy ra là ( )1 36 225 400 .2 924+ + + = a)Xác suất chọn được 6 quả cùng màu là 2 0,02 924 = b)Xác suất chọn chọn được 5 quả đen và 1 quả trắng hoặc 5 trắng 1 đen là 72 0,078 924 = c) Xác suất chọn chọn được 4 quả đen và 2 quả trắng hoặc 4 trắng 2 đen là 450 0,487 924 =
  • 16. chọn chọn được 5 quả đen và 1 quả trắng hoặc 4 trắng 2 đen là 400 0,433 924 = Do vậy nếu bỏ ra 20.000 đ thì khả năng người chơi thu được số tiền là ( )50000.0,02 2000.0,078 200.0,047 .10 4534+ + = Vậy người chủ trò thu được số tiền là 20.000 - 4534=15466 đ Vậy rõ ràng người chơi luôn luôn thua Hoạt động 4: Tìm hiểu tính chất của xác suất Hoạt động của giáo viên và học sinh Nội dung cơ bản GV: Yêu cầu HS nhắc lại biến cố không thể, biến cố chắc chắn, biến cố đối và biến cô xung khắc? GV: Hướng dẫn HS xây dựng và chứng minh các công thức trên HS: Chứng minh công thức Tích hợp bài toán trong Sinh học - Y học GV hướng dẫn: - Mỗi lần sinh là một sự kiện hoàn toàn độc lập, và có 2 khả năng có thể xảy ra: hoặc trai hoặc gái với xác suất bằng nhau và bằng 2 1 . - Xác suất sing con trai hay gái trong n lần sinh là kết quả của sự tổ hợp ngẫu nhiên: (♂+♀) (♂+♀)…(♂+♀)= (♂+♀)n n lần → Số khả năng xảy ra trong n lần sinh là 2n GV: Yêu cầu HS tìm các phương án để giải bài toán trên HS: Có 2 cách làm: Định lí: P( ) ; P( ) ;   0 1 P(A) 0 1 với mọi biến cố A Nếu A và B là haibiến cố xungkhắcthì xác suất để A hoặc B xảy ra là: P(A  B) = P(A) + P(B) (Quy tắc cộng xác suất) Chú ý: Cho k biến cố A1, A2, …,Ak. đôi một xung khắc. Khi đó P(A1  A2  …  Ak) = P (A1 ) + P( A2)+ … + P(Ak) Hệ quả: Cho biến cố A. Xác suất của biến cố đối A là: ( )P( ) 1 P AA = - Ví dụ 6: Một cặp vợ chồng dự kiến sinh 3 người con. Tìm xác suất để trong 3 lần sinh họ có được cả con trai và con gái. Giải: Cách 1: ( Nhóm 1) Sử dụng quy tắc cộng xác suất) Xét phép thử T: “ Sinh ba người con”
  • 17. thể tính tổng XS để có (2trai + 1 gái) và (1 trai + 2 gái) (Quy tắc cộng xác suất) - Cách 1: Có thể lấy 1 trừ 2 trường hợp XS (3 trai) và (3 gái) ( Xác suất của biến cố đối) GV: Chia lớp thành 2 nhóm, mỗi nhóm thực hiện giải theo 1 cách. Sử dụng kỹ thuật 3 lần 3 trong ví dụ này. Nhóm 1 cho ý kiến phản hồi của nhóm về bài làm của nhóm 2 và ngược lại. Mỗi nhóm cần viết ra : 3 điều tốt, 3 điều chưa tốt, 3 đề nghị cải tiến. Sau khi thu thập ý kiến GV xử lý và tổ chức thảo luận về các ý kiến phản hồi HS: Suy nghĩ và hoạt động theo nhóm theo yêu cầu của giáo viên GV yêu cầu tổ 2 lên trình bày hiểu biết của nhóm về tỉ lệ nam, nữ trong giai đoạn hiện nay và những hệ luỵ của việc chọn giới tính thai nhi?(HS đã được chuẩn bị nội dung trước 1 tuần) Tích hợp Giáo dục kỹ năng sống và giáo dục pháp luật GV: Về mặt di truyền học sinh contrai hay con gái đều có khả năng như nhau. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay do việc sàng lọc giới tính diễn ra phổ biến dẫn đến mất cân bằng giới tính và ảnh hưởng lớn đến đạo đức, kinh tế, xã hội Việc lựa chọn giới tính thai nhi là hành vi vi phạm pháp luật của cả khách hàng và người cung cấp dịch vụ. Tại Điều 40, Khoản 7, Mục b của Luật Bình đẳng Giới đã quy định: “Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức hoặc xúi dục, ép buộc người khác phá thai vì giới tính của thai nhi là hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực Y tế”. Tổ chức trò chơi thực tế: Trò chơi gieo súc sắc HS chuẩn bị: 4 con súc sắc GV: Công bố luật chơi và phần quà cho đội thắng cuộc.  n( )  3 2 Gọi A: “ 3 Ba người con có cả trai và gái” A1: “ Sinh được 2 con trai và 1 con gái” A2: “Sinh được 1 con trai và 2 con gái” P(A) P(A) P(A ) C C     1 2 3 3 1 2 3 3 3 2 2 4 Vậy xác suất cần tìm bằng 3 4 Cách 2: ( Nhóm 2) Sử dụng xác suất của biến cố đối) Gọi A: “ 3 người con có cả trai và gái” Thì A : “ 3 người con đều có cùng giới tính” Xác suất sinh 3 trai là: 3 2 1       Xác suất sinh 3 gái là: 3 2 1       Áp dụng hệ quả P(A) = 1 - P(Ā) = 4 3 2 1 2 1 1 33              Vậy xác suất cần tìm bằng 3 4 Ví dụ 7: Khi chơi trò gieo súc sắc có 2 cách chơi như sau: Cách 1: Gieo một con súc sắc 4 lần nếu 1 lần xuất hiện mặt 6 chấm là thắng Cách 2: Gieo 24 lần 1 cặp súc sắc nếu xuất hiện một cặp (6;6) thì thắng Nếu là bạn sẽ chọn chơi theo cách nào? Giải: Đối với cách 1
  • 18. chọn, HS nào chọn cách 1 vào đội 1, HS nào chọn cách 2 vào đội 2. HS: Bàn bạc và cử đại diện nhóm lên chơi GV: Sau khi các đội chơi xong, Đội nào thắng được quà. Yêu cầu HS từng đội giải thích tại sao lại chọn đội 1, hoặc đội 2. HS: Giải bài toán trên theo đội đã chọn và trình bày vào giấy A3. Sau đó cử đại diện lên trình bày cách gíải của của đội mình. GV: Kết luận: Từ cách giải của hai đội thì chọn cách 1 phần thắng sẽ cao hơn Gọi A : “Có ít nhất 1 lần xuất hiện mặt 6 chấm trong khi gieo 1 con súc sắc 4 lần” ( ) ( ) 4 4 4 4 5 5 1 0,5177 6 6 P A P A= Þ = - = Đối với cách 2: Khi gieo 1 cặp súc sắc sẽ có 36 kết quả đối xứng nhau Khi gieo 24 lần số phần tử không gian mẫu là 3624 Gọi A : “Có ít nhất 1 lần xuất hiện cặp mặt (6;6) chấm trong khi gieo 1 cặp súc sắc 24 lần” ( ) ( ) 24 24 24 24 35 35 1 0,4914 36 36 P A P A= Þ = - = Vậy chọn cách 1 khả năng thắng cao hơn Hoạt động 5: Biến cố độc lập - Công thức nhân xác suất Hoạt động của giáo viên và học sinh Nội dung cơ bản GV: Giới thiệu khái niệm hai biến cố độc lập, lấy ví dụ minh họa. GV: Yêu cầu HS nhắc lại biến cố giao HS: Tập A BÇ gọi là giao của hai biến cố. Kí hiệu .A B GV: Chia lớp thành 2 nhóm , nhóm 1 làm ví dụ 8, nhóm 2 làm ví dụ 9. Sau đó sử dụng kỹ thuật công đoạn trong hoạt động này. HS: Làm bài theo nhóm và trình bày vào giấy A0 Định nghĩa: Hai biến cố A và B được gọi là độc lập nếu việc xảy ra hay không xảy ra của biến cố này không làm ảnh hưởng tới xác suất xảy ra của biến cố kia. Ví dụ: Xét phép thử gieo một xu liên tiếp hai lần. A là biến cố lần gieo thứ nhất đồng xu xuất hiện mặt sấp; B là biến cố lần gieo thứ 2 đồng xu xuất hiênh mặt ngửa. Khi đó A, B là hai biến cố độc lập. Ví dụ 8: Bạn thứ nhất có một đồng tiền, bạn thứ 2 có một con súc sắc. Xét phép thử: Bạn thứ nhất gieo đồng tiền, bạn thứ hai gieo súc sắc a) Mô tả không gian mẫu b)Tính xác suất của các biến cố: A: Đồng tiền xuất hiện mặt ngửa B: Con súc sắc xuất hiện mặt 5 chấm c) A, B có là hai biến cố độc lập không? Chứng minh rằng ( ) ( ) ( ). .P A B P A P B= Ví dụ 9: Bạn thứ nhất có một đồng tiền, bạn thứ 2 có một con súc sắc. Xét phép thử: Bạn thứ nhất gieo đồng tiền, bạn thứ hai gieo súc sắc a) Mô tả không gian mẫu b)Tính xác suất của các biến cố: A: Đồng tiền xuất hiện mặt sấp B: Con súc sắc xuất hiện mặt 6 chấm
  • 19. giải của hai ví dụ trên yêu cầu HS nêu công thức nhân xác suất. HS: Phát biểu công thức nhân xác suất. Tích hợp bài toán về thể dục thể thao Giáo viên hướng dẫn học sinh Xét phép thử: “ Trong 3 lần bắn, người đó bắn trúng hồng tâm ít nhất một lần”. 1 lần trúng, 2 lần trượt Xảy ra: 2 lần trúng, 1 lần trượt 3 lần trúng Mệnh đề phủ định của mệnh đề trên: “ Cả 3 lần không trúng” Từ đókhẳng định: Bài này cóthể làm bằng cách chuyển qua biến cố đối. HS: (Hoạt động theo cặp đôi): Làm bài theo yêu cầu. Sau đó lên trình bày Giáo dục liênmôn : Qua ví dụ giúp học sinh biết được tư duy toán học tốt có ảnh hưởng rất lớn đến thể dục thể thao, giáo dục an ninh quốc phòng. Từ việc tính toán chính xác giá trị xác suất học sinh có niềm tin vào sự tư duy cũng như sự tính toán làm sao để đảm bảo an toàn trong thể thao và tư duy để đạt được thành tích cao nhất trong thi đấu. Tích hợp bài toán có nội dung Vật Lý: GV: Dùng kiến thức về đoạn mạch mắc nối tiếp và song song trong chương trình Vật Lý 11 cùng với kiến thức xác suất giải bài toán trên HS: Ôn lại kiến thức thế nào là mắc nối tiếp, mắc song song. c) A, B có là hai biến cố độc lập không? Chứng minh rằng ( ) ( ) ( ). .P A B P A P B= Công thức nhân xác suất: Nếu A và B là hai biến cố độc lập với nhau thì ( ) ( ) ( ). .P A B P A P B= Ví dụ 10: Xác suất trúng hồng tâm của 1 người bắn cung là 0,2. Tính xác suất để trong 3 lần bắn độc lập người đó bắn trúng hồng tâm ít nhất 1 lần. Lời giải: Gọi biến cố A: “ Trong ba lần bắn, người bắn cung bắn trúng hồng tâm đúng 1 lần” A1: “ Người bắn cung bắn trúng hồng tâm ở lần thứ nhất” A2: “ Người bắn cung bắn trúng hồng tâm ở lần thứ hai” A3: “ Người bắn cung bắn trúng hồng tâm ở lần thứ ba” Gọi biến cố B: “ Trong 3 lần bắn, người đó bắn trúng hồng tâm ít nhất một lần”. Khi đó biến cố B : “Trong 3 lần bắn, người đó không bắn trúng hồng tâm lần nào” Nhận xét: B = 321 AAA Suy ra P( B ) = P( 321 AAA ) =(0,8)3 = 0,512 Vậy P(B) = 1 – P( B ) = 1 – 0,512 = 0,488 Ví dụ 10: Có 5 linh kiện điện tử, xác suất hỏng tại một thời điểm là 0,01; 0,02; 0,02; 0,01 và 0,04 tương ứng. Tìm xác suất để có dòng điện chạy qua theo dạng mạch sau: a) Mạch mắc nối tiếp. b) Mạch mắc song song. Giải: a) Gọi Ai là biến cố linh kiện thứ i chạy tốt ( i =1, 2, 3, 4, 5)
  • 20. biến cố dòng điện chạy qua đoạn mắc nối tiếp thì 1 2 3 4 5 A AA A A A= Vì Ai là các biến cố độc lập nên ( ) ( ) ( ) ( ) ( ) ( ) ( )( ) ( )( ) 1 2 3 4 5 2 A A A A A 1 0,01 1 0,02 1 0,01 1 0,04 0,904 P A P P P P P= = - - - - » Vậy xác suất để có dòng điện chạy qua đoạn mắc nối tiếp là khoảng 0,904 b) Gọi B là biến cốdòng điện chạy qua đoạn mắc song song thì B là biến cố cả 5 linh kiện đều bị hỏng và 1 2 3 4 5 B A A A A A= Tacó ( ) ( ) ( ) ( ) ( ) ( ) ( )1 2 3 4 5 9 1 1 1 1,6.10 0,999 P B P B P A P A P A P A P A - = - = - = - » Vậy xác suất để có dòng điện chạy qua đoạn mắc nối tiếp là khoảng 0,9999 4. Củng cố: (Sử dụng kĩ thuật bản đồ tư duy) a) Lý thuyết: Cho HS trình bày các nội dung đã được học theo bản đồ tư duy GV giới thiệu cách làm việc bằng bản đồ tư duy như sau: -Viết tên chủ đề hoặc ý tưởng chính vào trung tâm - Từ chủ đề chính ở trung tâm vẽ các nhánh chính, trên mỗi nhánh viết 1 nội dung lớn có liên quan đến ý tưởng ở trung tâm nói trên - Từ các nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp các nội dung thuộc nhánh chính đó. - Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo. b) Bài tập củng cố. Trong mỗi câu đều có 1 phương án trả lời đúng. Em hãy tìm phương án đó. Câu 1: (Bài toán về súc sắc) Gieo một con súc sắc cân đối đồng chất hai lần. Tính xác suất để tổng số chấm xuất hiện trong 2 lần gieo bằng 8 A. 5 36 B. 1 9 C. 1 12 D. 1 6 Câu 2: (Tích hợp kiến thức môn Hình học) Cho một lục giác đều ABCDEF. Viết các chữ cái A, B, C, D, E, F vao 6 thẻ. Lấy ngẫu nhiên hai thẻ. Tìm xác suất sao cho đoạn thẳng mà các đầu mút là các điểm được ghi trên 2 thẻ đó là: Đường chéo của lục giác đó A. 1 5 B. 2 5 C. 3 5 D. 4 5 Câu 3:(Tích hợp trò chơi trên truyền hình). Chiếc kim của bánh xe trong trò chơi: “Chiếc nón kỳ diệu” có thể dừng lại ở 1 trong 7 vị trí với khả năng như nhau. 54321 5 4 3 2 1
  • 21. để trong 3 lần quay, chiếc kim của bánh xe đó lần lượt dừng lại ở 3 vị trí khác nhau. A. 1 49 B. 3 49 C. 30 49 D. 42 49 Câu 4: (Tích hợp tình huống trong học tập). Một đề thi có 5 câu được chọn ra từ 100 câu có sẵn. Một học sinh học thuộc 80 câu. Tính xác suất để học sinh đó rút ngẫu nhiên ra một đề thi có 4 câu đã học thuộc A. 5135 12222 B. 1027 48888 C. 1330 75287520 D. 12342 45649 5. Hướng dẫn học bài ở nhà - Làm bài tập trong SGK - Ôn lại toàn bộ phần lý thuyết đã học -Làm thêm một số bài tập sau - Chuẩn bị tiết sau kiểm tra về các nội dung đã được tích hợp trong bài trên TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đại số và giải tích 11 (Ban cơ bản). Nxb Giáo dục. 2. Đại số và giải tích 11 (Ban nâng cao). Nxb Giáo dục. 3. Tài liệu tập huấn: Dạy học tích hợp ở trường THCS, THPT – Bộ Giáo dục và Đào tạo. 4. NguyÔn V¨n B¶o (2005), Gãp phÇn rÌn luyÖn cho häc sinh n¨ng lùc vËn dông kiÕn thøc To¸n häc ®Ó gi¶i quyÕt mét sè bµi to¸n cã néi dung thùc tiÔn, LuËn v¨n Th¹c sÜ gi¸o dôc häc, tr-êng §¹i häc Vinh. 5. NguyÔn B¸ Kim (2004), Ph-¬ng ph¸p d¹y häc m«n To¸n, Nxb §¹i häc S- ph¹m. 6. NguyÔn B¸ Kim (Chñ biªn), Ch-¬ng §inh Nho, NguyÔn M¹nh C¶ng, Vò D-¬ng Thôy, NguyÔn V¨n Th-êng (1994), Ph-¬ng ph¸p d¹y häc m«n To¸n (PhÇn 2: D¹y häc nh÷ng néi dung c¬ b¶n), Nxb Gi¸o dôc.
  • 22. LUẬN Việc xây dựng giáo án chủ đề dạy học theo hướng tích hợp giúp cho học sinh được tiếp thu kiến thức một cách chủ động, tíchcực. Học sinh trở thành trung tâm của hoạt động học tập và đã phát huy tối đa tính tự chủ, sáng tạo của người học. Rèn kỹ năng phối hợp, phân công, làm việc theo nhóm, khả năng quan sát, đánh giá, phân tích, tổng hợp tư liệu, giải quyết vấn đề từ đó phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Tuy nhiên, không có phương pháp giáo dục nào là toàn năng. Khi tiến hành dạy học tích hợp theo chủ đề, mỗi giáo viên cần nghiên cứu, vận dụng phù hợp với đặc điểm môn học, người học và điều kiện của địa phương, kết hợp với các phương pháp đã có để phát huy tối đa hiệu quả và mục tiêu dạy học đề ra. Thông qua chuyên đề này tôi mong muốn cùng với đồng chí, đồng nghiệp từng bước tiếp cận, làm quen với những phương pháp, mô hình dạy học mới, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, chuẩn bị cho việc tổ dạy học theo mô hình trường học mới Dạy học tích hợp theo chủ đề Xác suất của biến cố được xây dựng trên sự hiểu biết, kinh nghiệm và sự giúp đỡ của các đồng chí giáo viên bộ môn Toán chắc chắn còn có nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến xây dựng của đồng chí, đồng nghiệp! Trân trọng cảm ơn! 7. 2. Khả năng áp dụng của sáng kiến - Sau khi thực hiện bài học các em cảm thấy rất hứng thú vì thông qua bài dạy ngoài việc nắm được kiến thức cơ bản môn Toán, các em còn được học được nhiều kĩ năng mới, phát triển được năng lực của bản thân và học được cách tự giải quyết một vấn đề khoa học - Trong thực tế giảng dạy, để kiểm tra tính khả thi và hiệu quả của việc vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn, tôi đã tiến hành thực nghiệm ở 2 lớp tại trường THPT Trần Hưng Đạo +) Lớp thực nghiệm : 11A6 +) Lớp đối chứng : 11A1 Cách tiến hành như sau: Lớp 11A1 dạy theo giáo án thường, lớp 11A6 dạy theo giáo án tích hợp. Đây là 2 lớp học sinh có nhận thức tương đối đồng đều, đa số học sinh ngoan và có ý thức học. Sau khi dạy xong ở 2 lớp thực nghiệm và đối chứng, để tạo tính khách quan nhằm kiểm tra nhận thức, tôi đã nhờ giáo viên trong tổ ra một đề kiểm tra với thời gian là 15 phút. Kết quả thu được như sau: Lớp Số học sinh Loại giỏi (9-10 điểm ) Loại Khá (7-8 điểm) Loại TB (5 – 6 điểm) Loại yếu ( 3 - 4 điểm) Thực nghiệm (11A6) 35 15 HS (42%) 12 HS (34,2%) 8 HS (22,8 %) 0 HS 0%
  • 23. HS (23,4%) 15Hs (44,1%) 1 HS (3,1%) Qua kết quả thực nghiệm và quan sát trong giờ học tôi nhận thấy : +Lớp học áp dụng dạy học tích hợp các em thấy sôi nổi, hứng thú hơn nhiểu so với lớp đối chứng. Việc phân chia cho các em công việc thông qua nhiệm vụ ở nhà cũng giúp các em chủ động, sáng tạo rất nhiều trong công việc. Khi giải quyết vấn đề làm các em va chạm rất nhiều với kiến thức liên môn, bắt buộc các em phải tìm hiểu, đào sâu suy nghĩ nên càng khắc sâu kiến thức +Lớp đối chứng là lớp 11A1, trình độ học sinh tương đương với lớp dạy thử nghiệm, nhưng không áp dụng phương pháp mới, các em cơ bản vẫn nắm vững kiến thứca. Tuy nhiên, trong giờ học các em không thực sự hứng thú, vì đa phần cách dạy học vẫn theo kiểu cũ, không liên hệ với thực tế, học sinh chưa thực sự làm việc nên kết quả không cao 8. Những thông tin cần được bảo mật: không 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: - Giáo viên cần đưa ra các phương pháp dạy học phù hợp với năng lực và trình độ nhận thức của học sinh. - Việc thực hiện tích hợp kiến thức cần đảm bảo tính vừa sức, khoa học nhằm phát huy tính chủ động, tích cực và sáng tạo của học sinh trong học tập; tránh việc tích hợp lan man; khiên cưỡng; tích hợp quá nhiều nội dung trong một bài học. - Việc thực hiện tích hợp cần hướng học sinh tới việc giúp học sinh vận dụng kiến thức các môn học để giải quyết các tình huống thực tiễn cuộc sống. - Việc kiểm tra đánh giá trong dạy học tích hợp cần hướng tới việc đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh. 10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến 10.1. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả: Qua quá trình thực nghiệm thiết kế giáo án: Tích hợp kiến thức Vật lí, Địa lí, Sinh học và thực tế, . . . trong dạy học chủ đề Xác suất của biến cố trong Đại số giải tích 11, tôi nhận thấy việc dạy học theo hướng tích hợp góp phần giúp giáo viên linh hoạt, sáng tạo trong dạy học, giúp học lĩnh hội kiến thức Toán học một cách khoa học, có hệ thống và sâu sắc hơn. Các em cũng hình thành cho mình năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề nhất là những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn hoạt động học tập. Việc thực hiện dự án dạy học này có ý nghĩa quan trọng, vì thông qua bài học, một lần nữa các em được ôn tập, ghi nhớ, khắc sâu những kiến thức liên môn đã được học ở môn học khác. Cũng thông qua dự án dạy học này, các em biết xâu chuỗi kiến thức với nhau để giải quyết một vấn đề. 10.2. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức: Đề tài nghiên cứu có tính khả thi, và ứng dụng vào thực tiễn, mang lại hiệu quả cao trong giờ học Toán học ở trường phổ thông. Việc áp dụng dự án sẽ làm tăng hứng thú học tập môn Toán học cho các em học sinh. Trong dự án, học sinh được giao nhiệm vụ về nhà, thảo luận làm việc theo nhóm, nhằm làm tăng khả năng làm việc tự lập,tăng khả năng tìm tòi thông tin, tăng kĩ năng phối hợp với nhau khi làm việc phù hợp với mục tiêu chung về giáo dục trong tương lai
  • 24. dự án dạy học tích hợp này phần nào đã giải quyết được yêu cầu đó. Thông qua dự án, ngoài kiến thức Toán cần đạt được các em có thể khắc sâu thêm các phần kiến thức đã học ở bộ môn khác: vật lí, sinh học, hình học, các tình huống thường gặp trong thực tế. Không những thế, thông qua công việc được giao, các em chủ động lĩnh hội kiến thức, tăng kĩ năng làm việc theo nhóm hiệu quả. Qua bài học này, các em cũng có hiểu biết sâu sắc về lịch sử hình thành bộ môn xác suất, ảnh hưởng của xác suất với đời sống và các môn học khác, tăng ý thức bảo vệ mình trước những trò chơi cờ bac, trò chơi may rủi trong thực tế. Thông qua kiến thức học được, các em những người chủ nhân tương lai của đất nước sẽ biết quy định của pháp luật về chơi đề, về lưạ chọn giới tính thai nhi, đồng thời có thể mang kiến thức của mình học được phổ biến cho nguời khác, hoặc ứng dụng kiến thức để xử lý các tình huống gặp phải. 11. Danh sách những cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu: Số TT Tên tổ chức/cá nhân Địa chỉ Phạm vi/Lĩnh vực áp dụng sáng kiến 1 Nguyễn Thị Thanh Hòa Học sinh lớp 11A6 và 11A1 Trường THPT Trần Hưng Đạo – Tam Dương – Vĩnh Phúc Bài: xác suất của biến cố Tam Dương, ngày.....tháng.....năm 2020 Thủ trưởng đơn vị/ (Ký tên, đóng dấu) Tam Dương, ngày.....tháng.....năm 2020 CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP CƠ SỞ (Ký tên, đóng dấu) Tam Dương, ngày.....tháng.....năm 2020 Tác giả sáng kiến (Ký, ghi rõ họ tên) Nguyễn Thị Thanh Hòa