Nước sông là nước gì

Mỗi loại nước đều có những đặc điểm khác nhau về nguồn gốc, tính chất, và tất nhiên là cả tên gọi. Để các bạn hiểu hơn về các loại nước uống, The Water MAN tổng hợp tên gọi tính chất các loại nước và cả tên tiếng Anh của tất cả các loại nước. Cùng tìm hiểu ngay thôi.

Surface water: Nước mặt. Nước mặt là các nguồn nước trong sông, hồ hoặc trong các vùng đất ngập nước.

Groundwater: Nước ngầm. Nước ngầm là những nguồn nước nằm trong lòng đất, được chứa trong các khe nứt, lỗ rỗng của đất hoặc đá. Nước ngầm còn có trong các tầng ngậm nước.

Frozen water: Nước đóng băng. Nước đóng băng là nước được lấy từ các tảng băng trôi, sông băng, các khối băng vĩnh cửu. Hiện tại, loại nước này vẫn chưa được sử dụng rộng rãi.

Spring water: Nước suối. Nước suối bắt nguồn từ những khe, mạch nước ngầm trong lòng đất, tụ lại thành dòng lớn gọi là suối.

Nước sông là nước gì

Artesian water: Nước giếng phun. Như tên gọi của nó, nước giếng phun là nước phun trào lên từ các miệng giếng phun (artesian well) tự nhiên bởi áp suất trong lòng đất.

Well water: Nước giếng ngầm. Một loại nước rất quen thuộc với người dân Việt Nam, nước giếng. Gọi nước giếng ngầm để phân biệt với nước giếng phun (artesian water).

Rain water: Nước mưa. Ở một số quốc đảo, khu vực như Hồng Kong, nước mưa được thu giữ để sử dụng cho sinh hoạt. Đây còn là nguyên liệu để sản xuất nước uống đóng chai.

Iceberg water: Nước băng trôi. Nước băng trôi được lấy từ những khối băng vĩnh cửu hoặc những tảng băng trôi. Loại nước này thường được sử dụng làm nước đóng chai.

Glacier water: Nước sông băng. Tương tự như nước băng trôi, nước sông băng cũng được dùng để làm nước đóng chai chứ ít được sử dụng trong sinh hoạt. Băng ở sông băng là nguồn dự trữ nước ngọt lớn nhất thế giới.

Nước sông là nước gì

Deep sea water: Nước biển sâu. Nước biển sâu là nước ở vùng có độ sâu hơn 200m ngoài đại dương.

Briny water: Nước siêu mặn. Nước siêu mặn được tìm thấy ở các hồ siêu muối (hypersaline lake). Lượng muối có trong nước siêu mặn có thể cao gấp 10 lần nước biển. Biển Chết (Dead sea) là cái tên đặc trưng khi nói đến loại nước này.

Seawater: Nước biển. Nước biển là nước từ biển hay các đại dương, có độ mặn khoảng 3,5%.

Brackish water: Nước lợ. Nước lợ là nước có độ mặn cao hơn nước ngọt và thấp hơn nước mặn. Nước lợ được tìm thấy ở cửa sông, rừng đước, biển và hồ nước lợ.

Desalinated water: Nước tách muối. Loại nước này thường được tách bỏ muối và khoáng, gần như nước tinh khiết.

Tap water: Nước máy. Nước có nguồn gốc từ sông, hồ và xử lý ở các nhà máy nước trước khi được đưa đến các hộ dân để sử dụng.

Mineral water: Nước khoáng. Nước có chứa các khoáng chất, tùy theo khu vực địa lý mà thành phần và hàm lượng khoáng trong nước sẽ khác nhau.

Nước sông là nước gì

Sparkling water: Nước có gas. Nước có gas được chia làm 2 loại, nước có gas tự nhiên có chứa các khoáng chất và nước có gas nhân tạo, có thể có hoặc không chứa khoáng.

Purified water: Nước tinh khiết. Nước tinh khiết là nước được xử lý qua các màng lọc, thường là màng thẩm thấu ngược (RO) để loại bỏ các thành phần khác ngoài nước.

Distilled water: Nước cất. Nước được sản xuất bằng phương pháp chưng cất.

Alkaline water: Nước ion kiềm. Còn được gọi là nước kiềm, nước điện giải. Nước ion kiềm được sản xuất nhờ công nghệ điện phân nước, giúp pH trong nước tăng lên khoảng 8,5-9,5.

Saline water: Nước muối sinh lý. Nước được tạo thành bằng cách pha muối vào nước tinh khiết. Dùng để rửa vết thương, khử trùng hoặc bổ sung điện giải. Thường được gọi tắt là “nước muối” (salt water).

Trên đây là những từ vựng tiếng Anh về nước uống mà The Water MAN muốn giới thiệu đến bạn. Hãy cùng chúng tôi khám phá thêm nhiều điều bổ ích về nước, một chất cực kì cần thiết cho sự sống qua những bài viết của của The Water MAN nhé!

Hệ thống nước mặt của Việt Nam bao gồm sông, suối, ao hồ, vùng đất ngập nước và đại dương, trong đó nguồn nước sông là quan trọng nhất được sử dụng rộng rãi trong sinh kế và sản xuất.

Nước sông là nước gì

Một con sông gần  Sa Pa, Việt Nam, một thị trấn biên giới và thủ phủ tỉnh Lào Cai ở Tây Bắc Việt Nam. Ảnh của BRJ INC Giấy phép BY-NC-ND-2.0.

Việt Nam có hệ thống sông ngòi chằng chịt với hơn 2.360 con sông có chiều dài hơn 10 km trong đó có 109 sông chính. Có 16 lưu vực sông lớn với diện tích lưu vực trung bình trên 2.500 km2, 10/16 lưu vực có diện tích trên 10.000 km21 Đó là các sông Hồng, Thái Bình, Bằng Giang, Kỳ Cùng, Mã, Cả, Vu Gia – Thu Bồn, Ba, Đồng Nai và Mê Kông. 2

Trong số các lưu vực sông này, 60% tập trung dọc theo lưu vực sông Mê Kông và 16% dọc theo lưu vực sông Thái Bình. 3 Năm 2011, tổng diện tích lưu vực của hai lưu vực sông này là hơn 1.167.000 km2, với 72% lưu lượng bề mặt trong các lưu vực này là bắt nguồn từ bên ngoài lãnh thổ Việt Nam. Chỉ có 310-320 tỷ m3 nước có nguồn gốc nội sinh 4

Hai lưu vực sông chính của Việt Nam tạo nên hai đồng bằng châu thổ lớn là đồng bằng sông Hồng và sông Mê Kông, hai vựa lúa quan trọng đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước. Nước chảy vào cả hai vùng đồng bằng này đều bắt nguồn từ các con sông xuyên biên giới ở thượng nguồn, vì vậy Việt Nam không có toàn quyền kiểm soát lưu lượng. Điều này dẫn đến sự phức tạp trong trị thủy so với các con sông nhỏ bắt nguồn từ nội địa. Biến đổi khí hậu, phá rừng, khai thác mỏ và việc xây dựng các đập thủy điện cũng tác động đáng kể đến chất và lượng tài nguyên nước tại Việt Nam cũng như hạn chế tổng lượng nước hữu ích. 5

Địa hình dốc ở Việt Nam dọc theo trục tây bắc và đông nam, khiến nước mặt tập trung chủ yếu ở phía đông, nơi có tất cả các lưu vực sông chính, trong khi các khu vực miền núi phía tây khô hạn hơn nhiều.

Biến đổi khí hậu đã dẫn đến một số hiện tượng thời tiết khắc nghiệt, chẳng hạn như hạn hán ở ngay tại các vùng có lượng mưa cao và xâm nhập mặn do mực nước biển dâng cao. Điều này đã làm giảm chất và lượng nước mặt tại Việt Nam. Nguồn nước trở nên khan hiếm hơn, đặc biệt là vào mùa khô, khi ao hồ đã cạn. Hệ thống sông đã bị suy thoái do ô nhiễm và dự trữ nước ngầm đang giảm do khai thác quá mức và thiếu quản lý hiệu quả ở một số khu vực. 6.

Nhu cầu nước nông nghiệp và sinh hoạt được dự đoán sẽ tăng mạnh do sự phát triển kinh tế xã hội và tăng trưởng dân số ở tất cả các vùng (xem Bảng 1). Cụ thể, bốn lưu vực sông ở Việt Nam – lưu vực sông Hồng-Thái Bình, Cửu Long, Đồng Nai và lưu vực cụm sông Đông Nam Bộ (SERC) – đóng góp lượng nước cần thiết để sản xuất khoảng 80% GDP của Việt Nam. Các lưu vực này dự kiến sẽ trải qua mùa khô “căng thẳng về nước” trước năm 2030. 7 Lưu vực SERC, bao gồm một nhóm sông ở một phần tương đối khô hạn ở các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận hiện đang chịu áp lực nước nghiêm trọng và dự đoán đến năm 2030 sẽ chỉ đáp ứng được 28% nhu cầu nước vào mùa khô. 8

Nhu cầu nước tưới tổng (GIR) Năm có lượng mưa trung bình

Lưu vực sông200120102020
Bằng Giang 10.6 6.8 6.1
Hồng 13.1 12.1 11.1
11.8 9.4 8.8
Cả 11.9 8.9 7.5
Thạch Hãn 14.5 11.2 10.0
Hương 12.1 11.7 13.0
Thu Bồn 11.6 9.2 8.2
Trà Khúc 12.3 9.8 7.7
Kone 27.1 23.0 19.6
Ba 20.30 13.6 11.7
Sesan 8.1 8.6 7.9
Srepok 14.1 11.6 10.6
Đồng Nai 21.5 12.6 9.6
Cửu Long 19.6 17.1 15.1

Các giá trị GIR trên đây được sử dụng để tính toán nhu cầu nước theo lưu lượng (m3/giây) hoặc theo khối lượng (triệu m3/năm) cần cung cấp cho khu vực thuỷ lợi. Nguồn: Nghiên cứu về Phát triển và quản lý tài nguyên nước trên toàn quốc tại Việt Nam

Trong khi khan hiếm nước đang trở thành một vấn đề lớn ở Việt Nam, nhận thức về vấn đề này còn yếu. Trong một cuộc khảo sát được tiến hành bởi GS.TS Lê Bắc Huỳnh, Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam, về các rủi ro biến đổi khí hậu liên quan đến lưu vực sông, chỉ có 30% số người được hỏi lo lắng về tình trạng các con sông. Hơn 30% số người được hỏi không biết về tác động của ô nhiễm, bồi lắng và giảm lưu lượng nước ở Việt Nam, mặc dù sinh kế của họ bị tác động trực tiếp bởi những áp lực này. 9

Những hạn chế trong quy hoạch đầu nguồn có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho tình trạng khan hiếm nước. Các hoạt động như khai thác gỗ bất hợp pháp, quy hoạch kém trong nông nghiệp và lâm nghiệp, nước thải công nghiệp không được xử lý từ các nhà máy và thành phố làm suy giảm nguồn nước ngọt. Nó cũng làm tăng nguy cơ liên quan đến hạn hán và làm cho hậu quả của hạn nghiêm trọng hơn. 10

Tuy nhiên, hệ thống thủy lợi này được báo cáo là không được duy trì hiệu quả và do đó, hiện mới chỉ hoạt động ở mức 50 đến 60% công suất. Năm 2013 tại thời điểm báo cáo được công bố, mức tiêu thụ nước hàng năm của ngành nông nghiệp ở Việt Nam là khoảng 93 tỷ m3 hoặc chỉ hơn 80% tổng lượng nước tiêu thụ, so với 17,3 tỷ m3 cho công nghiệp (15%), 2 tỷ m3 cho lĩnh vực dịch vụ và 3,1 tỷ m3 cho sinh hoạt 11.

Đến năm 2030, tỷ lệ sử dụng nước dự kiến sẽ thay đổi, với tỷ lệ nước được sử dụng bởi nông nghiệp giảm xuống còn 75%, và tiêu thụ của ngành dịch vụ và sinh hooạt tăng lên 9%. Tổng nhu cầu về nước dự kiến tăng gấp đôi, chiếm khoảng 1/10 lượng nước sông ngòi, 1/3 lượng nước nội địa, 1/3 tổng lượng nước chảy ổn định. 12.