Tại sao dùng tiền thay vàng

Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac – Lê nin: Tiền giấy có chức năng phương tiện cất trữ không? Vì sao?

..

Những nội dung liên quan:

..

Phương tiện cất trữ là gì?

Phương tiện cất trữ là một trong bốn chức năng của tiền tệ, làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ. Sở dĩ tiền làm được chức năng này là vì: tiền là đại biểu cho của cải xã hội dưới hình thái giá trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải. Để làm chức năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền, vàng, bạc. Chức năng cất trữ làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho lưu thông. Nếu sản xuất tăng, lượng hàng hóa nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào lưu thông. Ngược lại, nếu sản xuất giảm, lượng hàng hóa lại ít thì một phần tiền vàng rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ.

Vì sao tiền giấy không thực hiện được chức năng phương tiện cất trữ?

Tiền giấy không có chức năng phương tiện cất trữ

Tiền giấy không thực hiện được chức năng phương tiện cất trữ vì bản thân tiền không mang giá trị giống như vàng, bạc.

Mục đích của việc đưa tiền [tiền giấy] vào lưu thông trong xã hội là để tiền làm vật trung gian giúp cho sự trao đổi hàng hóa của mọi người cho nhau được dễ dàng, nhanh chóng và thuận tiện thông qua các hoạt động mua bán trên thị trường, và qua đó sẽ giúp cho sự hoạt động, tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Ở đây bạn cũng cần lưu ý rằng nền kinh tế tăng trưởng và phát triển là hệ quả [chứ không phải là mục đích] của việc đưa tiền vào lưu thông.

Dùng tiền [tiền giấy] làm vật trung gian giúp cho sự trao đổi, trước hết mọi người sẽ đem hàng hóa [hay dịch vụ] mà mình có để bán đổi lấy tiền, sau đó mọi người sẽ dùng số tiền vừa có được đó để mua đổi lấy hàng hóa [hay dịch vụ] khác mà mình cần. Hai quá trình bán và mua đó diễn ra tuần tự riêng biệt nhau, cách nhau trong một khoảng thời gian nhất định. Khoảng thời gian cách nhau giữa việc bán và mua đó chính là khoảng thời gian cất trữ và lưu thông của tiền giấy. Mọi người cất trữ tiền giấy cũng tức là mọi người tạm thời chưa muốn dùng tiền giấy để đổi lấy hàng hóa [hay dịch vụ] mà họ chưa thật sự cần.

Tiền giấy là một loại tem phiếu đặc biệt, một loại giấy nợ đặc biệt của xã hội [các DNTM] đối với những người sở hữu nó. Mọi người cất trữ tiền giấy cũng là một cách thức gián tiếp để cất trữ hàng hóa, của cải, tài sản tạm thời chưa dùng đến của mình; và những hàng hóa, của cải, tài sản này đang được các DNTM tạm thời cất trữ và giữ hộ cho những người đang sở hữu, nắm giữ tiền giấy.

Trong ngắn hạn, tiền giấy vẫn luôn có khả năng thực hiện được chức năng cất trữ nếu như người dân vẫn có được niềm tin và tin tưởng vào giá trị [sức mua] của nó.

Trong dài hạn, nếu tiền giấy bị lạm dụng phát hành ra để tiêu xài hoặc cho vay để tiêu xài, thì sẽ dẫn đến lạm phát, giá cả hàng hóa tăng lên, giá trị sức mua của tiền giấy sẽ bị sứt mẻ và giảm sút. Do bị thiệt hại vì giá trị sức mua của tiền giấy bị giảm sút, người dân sẽ không còn muốn cất trữ tiền giấy trong dài hạn nữa mà họ sẽ chuyển tiền giấy sang thành các loại tài sản khác có giá trị bền vững hơn theo thời gian như vàng, bạc, bất động sản,….

Tóm lại, cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn, nếu tiền giấy được phát hành ra và đưa vào lưu thông chỉ với mục đích duy nhất là để tiền giấy làm vật trung gian trao đổi, giúp cho sự trao đổi hàng hóa của mọi người cho nhau trong xã hội, không lạm dụng phát hành tiền giấy ra để tiêu xài hoặc cho vay để tiêu xài, thì tiền giấy sẽ vẫn luôn có được khả năng thực hiện chức năng cất trữ một cách ổn định, lâu dài và bền vững, túi tiền của người dân sẽ không bị suy giảm giá trị sức mua theo thời gian.

Còn nữa…

Các tìm kiếm liên quan đến Vì sao giấy không thực hiện được chức năng phương tiện cất trữ: Sự khác nhau giữa tiền giấy và tiền vàng, bạc, Tiền giấy có thực hiện được chức năng cất trữ không, tại sao tiền giấy không có giá trị thực, tiền giấy thực hiện được những chức năng nào của tiền tệ, chức năng của tiền giấy, vì sao vàng đắt hơn sắt, tại sao tiền giấy không thực hiện được chức năng cất trữ, tiền giấy là gì, tại sao không nên cất trữ tiền giấy, tiền giấy có những chức năng gì, vì sao tiền giấy không thực hiện được chức năng cất trữ

Tiền giấy, Tiền tệ, 73

Trong lịch sử tiền tệ, với những đặc tính ưu việt vàng đã thống trị thời gian dài trong vai trò tiền tệ của mình. Mặc dù chức năng tiền tệ của vàng không còn phù hợp với nền kinh tế hiện đại nhưng vàng tiếp tục tác động mạnh đến giá trị của tiền tệ các nước đó và đóng một vai trò không thể thiếu trên thị trường ngoại hối.

Bạn đang xem: Vì sao vàng được chọn làm vật ngang giá chung


Là một trong những kim loại quý hiếm hàng đầu và cũng là biểu tượng của quyền lực và sự giàu có, vàng luôn được quan tâm nhiều nhất nhờ vai trò nổi bật trong cả giới đầu tư và tiêu dùng. Sự lên xuống của giá vàng luôn là tâm điểm chú ý không chỉ trong giới đầu tư mà còn đối với toàn xã hội.

Từ thời cổ đại, vàng luôn được xem là thước đo giá trị – là một dạng tiền và vật cất trữ của cải cũng là một hàng hóa kỳ lạ với khả năng đặc biệt làm “phong vũ biểu” cho sức khỏe nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Vàng đã độc chiếm ngôi vị tiền tệ lâu dài cho đến khi nhân loại phát minh ra tiền giấy. 

Vậy trong bài viết dưới dây, anhchien.vn sẽ cùng các bạn giải đáp thắc mắc vì sao vàng có được vai trò tiền tệ? cũng như tìm hiểu việc thực hiện chức năng tiền tệ của vàng trong nền kinh tế hiện đại như thế nào.


Vì sao vàng có được vai trò tiền tệ


Khái niệm về tiền tệ tiền tệ

Tiền tệ là gì?

Tiền tệ được định nghĩa là một phương tiện thanh toán, là đồng tiền được luật pháp quy định đóng vai trò là vật ngang giá chung nhằm mục đích trao đổi hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia hay nền kinh tế. Hiểu nôm na thì tiền tệ chính là một phương tiện lưu thông, làm môi giới trong quá trình trao đổi hàng hóa.

Không chỉ là một phạm trù kinh tế, tiền tệ còn là một phạm trù lịch sử, trong đó sự ra đời và tồn tại của tiền tệ gắn liền với sự ra đời và tồn tại của sản xuất và trao đổi hàng hóa.

Các hình thái của tiền tệ ngày nay

Tiền tệ có thể mang hình thức tiền giấy hoặc tiền kim loại do nhà nước phát hành và được chấp nhận sử dụng trong thanh toán trong đó giá trị được đảm bảo bởi các tài sản khác như vàng, kim loại quý, trái phiếu, ngoại tệ, hoặc tiền mã hóa Bitcoin, Ethereum.

Giá trị của tiền tệ đến từ đâu?

Giá trị của tiền tệ không phải giá trị tự thân mà là những gì tiền tệ có thể trao đổi được – số lượng hàng hóa và dịch vụ mua được bằng một đơn vị tiền tệ. Hay nói cách khác giá trị của tiền tệ là nghịch đảo của giá cả hàng hóa.

Bốn chức năng cơ bản của tiền tệ

Tiền tệ mang 4 chức năng cơ bản bao gồm:

Chức năng thước đo giá trịChức năng phương tiện trao đổiChức năng phương tiện thanh toánChức năng tiền tệ thế giới.

Để thực hiện các chức năng tiền tệ, tiền tệ cần phải mang những tính chất cơ bản như:

Tính lưu thôngTính dễ nhận biếtTính lâu bền, dễ vận chuyểnTính đồng nhất.

Lịch sử ra đời của tiền vàng


Sự ra đời của tiền vàng


Tiền đã trải qua quá trình hình thành và phát triển trong hơn 5.000 năm. Thời cổ đại người dân không mua hay bán bằng tiền mà trao đổi trực tiếp hàng hóa lấy hàng hóa để có được thứ họ mong muốn.

Khi xã hội càng phát triển yêu cầu sản xuất trao đổi hàng hóa cũng vì thế ngày càng cao, việc trao đổi hàng hóa không chỉ còn diễn ra trong một vùng, một quốc gia nữa mà mở rộng ra giữa các quốc gia với nhau, hình thức hàng hóa – tiền tệ càng ngày càng tỏ ra không thuận tiện trong việc di chuyển. Do vậy nhu cầu phải tìm một vật ngang giá chung thuận tiện và dễ di chuyển, trao đổi hơn dần hình thành.

Qua chiều dài lịch sử loài người, trước khi những đồng tiền kim loại và tiền giấy xuất hiện đã có rất nhiều vật phẩm được sử dụng làm tiền, bao gồm cả những thứ tưởng như không thể như vỏ ốc, lá cây thuốc lá. Có những nơi người ta sử dụng răng cá mập như là vật trao đổi trung gian hay thậm chí tiền có thể là những chiếc lông chim sặc sỡ và những chiếc vỏ sò quý hiếm hay những cộng lông cứng trên đuôi voi.

Vậy thì hóa tệ kim loại xuất hiện từ khi nào? Không ai biết chính xác người ta bắt đầu sử dụng tiền dưới những hình thức đồng tiền kim loại từ khi nào nhưng theo nhiều nghiên cứu những đồng tiền xu đầu tiên được sản xuất từ đồng và sau đó là sắt.

Đến năm 700 trước Công nguyên, Pheidon – vua của thành bang Hy Lạp cổ đại Argos đã cho đúc tiền xu bằng kim loại quý bạc thay vì sắt. Những tiền vàng đầu tiên được được đúc tại vương quốc Lydia ở Tiểu Á bắt đầu từ 600 năm trước Công nguyên.

Trong thời gian đầu mới xuất hiện, tiền vàng thường tồn tại dưới dạng nén, thỏi. Về sau để tiện cho việc trao đổi, tiền vàng thường được được đúc thành những đồng xu với khối lượng và độ tinh khiết nhất định, vì thế mà còn được gọi là tiền đúc.

Vì sao vàng có được vai trò tiền tệ?


Vì sao vàng có được vai trò tiền tệ


Từ trước đến nay, các hàng hoá đóng vai trò tiền tệ đều có khuynh hướng tự bản thân nó đều phải có giá trị và phải có một công dụng nhất định nào đó.

Lịch sử đã chứng kiến việc thống trị rất dài của tiền vàng trong vai trò tiền tệ. Thực tế là hệ thống thanh toán dựa trên vàng hay còn gọi là chế độ bản vị vàng vẫn còn được duy trì cho đến mãi thế kỷ 20, chính xác là đến năm 1971. Điều này đã chứng tỏ những hiệu quả to lớn mà nó mang lại cho nền kinh tế.

Giá trị cao của vàng nhờ hình thức đẹp, tính tinh khiết, không bị ăn mòn, luôn ổn định, và dễ nhận ra đã đưa nó trở thành vật bảo toàn giá trị và thước đo giá trị của các dạng hàng hóa, vật chất khác. Không chỉ có giá trị, chính tính thẩm mỹ cao của loại hàng hóa đặc biệt này khiến vàng trở nên quý giá. Vì vậy, đương nhiên việc dùng vàng trong trao đổi với vai trò tiền tệ dễ dàng được chấp nhận trên phạm vi rộng lớn.

Có thể vàng không phải là kim loại quý hiếm nhất trên thế giới nhưng nhu cầu của xã hội về vàng đã xuất hiện rất sớm trong lịch sử và ngày càng tăng đã khiến cho vàng trở thành một thứ hàng hoá rất hấp dẫn, được nhiều người ưa thích.

Mặc dù ở các xã hội khác nhau, quy trình vàng đóng vai trò tiền tệ cũng khác nhau nhưng chung quy lại việc vàng được thế giới hàng hóa suy tôn làm tiền tệ và cũng bởi vì nó có nhiều ưu thế vượt trội hơn so với hàng hóa khác trong việc thực hiện chức năng tiền tệ, cụ thể là:

Đặc tính lý hóa của vàng đáp ứng mọi tiêu chuẩn để thực hiện vai trò tiền tệ

Hãy cùng Sanat Kumar, kỹ sư hóa học từ Đại học Columbia khám phá bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học để tìm hiểu vì sao vàng lại được ưa chuộng và sử dụng làm hóa tệ kim loại trong suốt hàng nghìn năm trong lịch sử. 

Như các bạn đã biết, bảng tuần hoàn bao gồm 118 nguyên tố hóa học được sắp xếp từ trái qua phải, từ trên xuống dưới theo quy luật thứ tự tăng dần số hiệu nguyên tử trong đó các nguyên tố trong bảng tuần hoàn hóa học sẽ được xếp theo chiều tăng dần của điện tích hạt nhân. 

Chúng ta cùng phân tích tại sao không phải là các nguyên tố khác mà chỉ có vàng mới đáp ứng đầy đủ các tiêu chí để thực hiện vai trò tiền tệ:

Khí và chất lỏng: Các khí quý hiếm [chẳng hạn như argon và heli], cũng như các nguyên tố như hydro, nitơ, oxy, flo và clo ở dạng khí ở nhiệt độ phòng và áp suất tiêu chuẩn trong khi đó, thủy ngân và brom là chất lỏng. Như vậy việc sử dụng các nguyên tố này làm tiền là hoàn toàn viển vông và thiếu thực tế.Các nguyên tố nhóm Lantan và actinides: Lanthanides và actinides nói chung đều là những nguyên tố có thể phân hủy và trở thành chất phóng xạ. Vậy, nếu bạn mang theo những thứ này trong túi, chúng có thể chiếu xạ hoặc đầu độc bạn. Kim loại kiềm và kiềm thổ: Các kim loại kiềm và kiềm thổ nằm ở phía bên trái của bảng tuần hoàn, và có khả năng phản ứng cao ở áp suất tiêu chuẩn và nhiệt độ phòng và thậm chí có thể bốc cháy.Kim loại chuyển tiếp: Có khoảng 30 nguyên tố hóa học ở thể rắn, không cháy và không độc hại. Tuy nhiên để được sử dụng làm tiền nó cần phải hiếm, trong khi các nguyên tố như niken và đồng lại được tìm thấy trên khắp lớp vỏ Trái đất với số lượng tương đối dồi dào.Nguyên tố tổng hợp và siêu hiếm: Osmium chỉ tồn tại trong vỏ Trái đất từ ​​các thiên thạch trong khi đó các nguyên tố tổng hợp như rutherfordium và nihonium chỉ được tạo ra trong phòng thí nghiệm.

Sau khi loại trừ hết các nguyên tố trên chỉ còn lại năm kim loại quý: bạch kim, palladi, rhodi, bạc và vàng. Bạc đã từng được sử dụng như tiền, nhưng nó bị xỉn màu theo thời gian trong khi rhodium và palladium mới được khám phá gần đây nên hạn chế trong việc sử dụng làm tiền trong lịch sử.

Vậy chỉ còn lại 2 nguyên tố là bạch kim và vàng.

Xem thêm: Top 4 Tủ Lạnh Mini Chất Lượng, Giá Rẻ, Tiết Kiệm Đáng Mua Hiện Nay

Bạch kim có điểm nóng chảy cực cao nên để nấu chảy nó những lò luyện từ thời cổ đại không thể đáp ứng được. Như vậy chỉ còn lại vàng với điểm nóng chảy thấp hơn lại dễ uốn – đều là những thuộc tính lý tưởng để sử dụng làm tiền. 

Ngoài ra, vàng khắc phục mọi điểm yếu của các nguyên tố khác lại đặc biệt không tan vào khí quyển, không bùng cháy và không gây độc hoặc chiếu xạ cho người sở hữu nên các nền văn minh nhanh chóng nhất quán sử dụng vàng như một vật liệu có giá trị.

Vàng có tính đồng nhất rất cao

Chính tính đồng nhất này của vàng tạo thuận lợi trong việc đo lường và biểu hiện giá cả của các hàng hoá trong quá trình trao đổi. Điểm hấp dẫn hàng đầu khiến vàng đến từ sự tinh khiết, không bị ảnh hưởng về mặt hóa học bởi nhiệt độ, độ ẩm, oxy và hầu hết các chất ăn mòn và cung không bị biến đổi theo thời gian.

Tính dễ nhận biết của vàng

Ngoài ra, vàng rất dễ để nhận biết thẩm định dựa vào màu vàng đặc trưng, độ dẻo, âm thanh khi va chạm và khối lượng riêng của nó.

Vàng có khối lượng riêng khá lớn [19,3 g/cm³], nhờ vậy mà những thủ đoạn pha vàng với các kim loại khác để có thêm khối lượng đều bị dễ dàng phát hiện. Cụ thể, chỉ có osmium [22,6 g/cm³], iridium [22,4 g/cm³], bạch kim [21,45 g/cm³], volfram [19,35 g/cm³] là nặng hơn vàng nhưng chúng đều đắt hơn hoặc gần bằng vàng và hợp kim của vàng và volfram thì khó chế tạo và không hiệu quả.

Dễ phân chia mà không bị ảnh hưởng đến giá trị vốn có

Đây có thể được xem là đặc điểm nổi trội của vàng so với các loại tài sản khác. Với tính dẻo bậc nhất, vàng có thể đúc thành tiền xu, đúc thành nén, thành thỏi…với mục đích trao đổi, dự trữ hay làm đồ trang sức. Đặc biệt sau khi chia tách nếu muốn người ta có thể dễ dàng nấu chảy để đúc nó lại thành thỏi như ban đầu.

Chính đặc tính khác biệt này của vàng đem lại ý nghĩa quan trọng trong việc biểu hiện giá cả và lưu thông hàng hoá trên thị trường bởi lẽ, thị trường hàng hoá rất đa dạng và giá cả rất khác nhau.

Hơn nữa, vàng có thể cất giữ gần như là mãi mãi và việc vận chuyển hết sức dễ dàng bởi một trọng lượng nhỏ của vàng có thể đại diện cho giá trị một khối lượng hàng hoá lớn.

Tiền vàng có chức năng gì mà tiền giấy không có?

Tiền vàng lợi ích hơn tiền giấy ở chỗ tiền vàng có chức năng lưu trữ giá trị, còn tiền giấy thì không.

Từ khi được bắt đầu được khai thác đến nay lượng vàng mà con người có được không thay đổi đột biến hay nguồn cung vàng là giới hạn.

Cho đến nay tổng cộng khoảng 190.000 tấn vàng đã được khai thác trong khi đó theo Cơ quan Khảo sát Địa chất Mỹ, trữ lượng vàng dưới lòng đất hiện ước tính còn khoảng 50.000 tấn. Dựa trên tính toán sơ bộ, thế giới còn khoảng 20% trữ lượng vàng chưa được khai thác. Tuy nhiên, con số này cũng chưa cố định.

Không như những hàng hóa khác, phần lớn vàng được cất trữ trong kho, quỹ, két sắt với chức năng chính là vật lưu trữ giá trị bên cạnh các chức năng khác như trang sức, răng giả và đồ điện tử.

Tuy nhiên việc sử dụng vàng làm đồ trang sức hay các vật trang trí khác cũng có thể coi là cùng chức năng lưu trữ giá trị bởi thuộc tính thẩm mĩ của nó. Ngoài vàng ra, bất kỳ vật phẩm nào khác đều có thể biến đổi giá trị khi cung và cầu thay đổi.

Tại sao vàng là hàng hóa đặc biệt?

Khác với tất cả hàng hóa khác, ở mọi nơi “giá trị” của vàng là như nhau và đều là tài sản có giá trị bậc nhất. Điều này giúp cho việc mua bán trao đổi hàng hóa thuận tiện hơn rất nhiều so với những vật trao đổi trung gian trước đây.

Một trong những đặc điểm khiến vàng trở nên thu hút các nhà đầu tư chính là tính bảo toàn giá trị tài sản. Kim loại màu vàng này có xu hướng duy trì giá trị của nó theo thời gian.

Ngoài ra, vàng ít chịu ảnh hưởng của năng suất lao động tăng lên như các hàng hóa khác. Sự ổn định của giá trị vàng đến từ việc năng suất lao động sản xuất ra vàng tương đối ổn định khi ngay cả việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào khai thác vàng cũng không làm tăng đáng kể năng suất lao động. Do đó tiền vàng luôn có được giá trị ổn định – một điều kiện rất cần thiết để nó có thể chấp hành tốt các chức năng tiền tệ.

Vì sao ngày nay tiền vàng khó thực hiện được vai trò tiền tệ?

Dù đã có một thời gian dài thống trị trong hệ thống tiền tệ và vẫn luôn có tác động sâu sắc tới giá trị các đồng tiền trên thế giới nhưng hiện tại việc sử dụng tiền vàng ngày càng trở nên bất tiện, không thực hiện được vai trò tiền tệ nữa vì những lý do sau:

Giá trị tương đối của vàng so với các hàng hóa khác tăng lên

Giá trị của vàng tăng lên do năng suất lao động trong ngành khai thác vàng không tăng theo kịp năng suất lao động chung của các ngành sản xuất hàng hóa khác.

Điều đó khiến cho giá trị của vàng trở nên quá lớn nên không thể đáp ứng nhu cầu làm vật ngang giá chung trong một số lĩnh vực có lượng giá trị trao đổi mỗi lần nhỏ như mua bán dịch vụ hoặc hàng hóa tiêu dùng hàng ngày.

Khó lưu thông với số lượng lớn

Khi nền kinh tế phát triển khiến hàng hóa sản xuất ra ngày càng nhiều, thương mại phát triển khiến giao lưu hàng hóa ngày càng rộng thì những nhược điểm của lưu thông tiền vàng càng bộc lộ rõ.

Những thương nhân mua bán khối lượng hàng hóa lớn nếu thanh toán bằng tiền vàng thì việc vận chuyển sẽ rất khó khăn chứ không còn nhẹ nhàng và dễ dàng như trước đây.

Hơn nữa nếu mua bán ở phạm vi rộng thậm chí xuyên quốc gia nếu sử dụng tiền vàng trong thanh toán thì việc bảo quản và vận chuyển vàng tránh được nạn cướp bóc trên đường đi trở thành gánh nặng cho các thương nhân.

Lượng cung vàng không đáp ứng đủ

Trong khi quy mô và trình độ sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển với khối lượng và chủng loại hàng hóa trao đổi ngày càng tăng và đa dạng thì lượng vàng sản xuất và khai khác không đủ đáp ứng nhu cầu về tiền tệ [nhu cầu về phương tiện trao đổi] của nền kinh tế nói chung.

Gây lãng phí tài nguyên

Việc sử dụng vàng là tiền tệ để trao đổi được nhiều nhà kinh tế xem là lãng phí nguồn tài nguyên vốn đã có hạn. Cụ thể, để việc dùng vàng làm tiền tệ con người đã phải giảm bớt các nhu cầu dùng vàng làm đồ trang sức hoặc trong các ngành có sử dụng vàng làm nguyên liệu.

Kết luận

Lịch sử tiền tệ đã ghi nhận vai trò tiền tệ của vàng trong suốt nhiều thế kỷ từ thời cổ đại cho đến những năm 70 của thế kỷ 20 chứng tỏ vàng đã mang lại những hiệu quả to lớn cho nền kinh tế. 

Mặc dù chế độ bản vị vàng không còn tồn tại nữa hay tiền vàng khó khăn trong việc thực hiện vai trò tiền tệ của mình thì vàng vẫn là loại hàng hóa đặc biệt được sử dụng như một rào chắn hiệu quả chống lại tình trạng lạm phát cũng như đóng một vai trò không thể thiếu trên thị trường ngoại hối.

Vàng luôn được ưa chuộng trên khắp thế giới, giữ vàng là một thói quen lâu đời của người Việt và đầu tư vàng cũng chưa bao giờ hết “hot” trong giới trader toàn cầu.

Video liên quan

Chủ Đề