Văn học hiện thực phê phán là gì năm 2024

Trong bối cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20, dưới ách đô hộ của thực dân Pháp và phát xít Nhật, sự bóc lột của bọn cường hào, địa chủ đã gây bao đau khổ cho nhân dân. Từ thành phố đến nông thôn, người dân bị ngược đãi, bị đàn áp và bị bóc lột đến tận xương tủy. Hiện thực đen tối của cuộc sống những năm trước cách mạng được các nhà văn ghi lại bằng những nét bút giản dị, tạo nên một trào lưu lớn trong đời sống văn học lúc bấy giờ: trào lưu văn học hiện thực phê phán.

Chủ nghĩa hiện thực phê phán là một khuynh hướng sáng tạo của chủ nghĩa hiện thực - một khuynh hướng thẩm mỹ không hướng vào thế giới bên ngoài mà hướng vào cuộc sống hiện thực và khám phá bản chất của cuộc sống. Là một khuynh hướng sáng tạo thuộc chủ nghĩa hiện thực, nhưng chủ nghĩa hiện thực phê phán đã không đạt được một hệ tư tưởng mới: hệ tư tưởng tư sản, nên khuynh hướng chủ đạo vừa phê phán cảm hứng của giai cấp tư sản trong xã hội phong kiến ​​vừa tôn trọng quần chúng nhân dân.

2. Các giai đoạn phát triển

- Giai đoạn 1930-1945

Có thể coi đây là thời kỳ quyết định của trào lưu văn học này. Hầu hết các thể loại văn học đều tương đối phong phú và đa dạng.Phóng sự tết thành công gắn với tên tuổi của Vũ Trọng Phụng (Cạm bẫy người, Cơm thày cơm cô…), Tam Lang (Tập phóng sự Tôi kéo xe)… Truyện ngắn và tiểu thuyết cũng đóng dấu với sự xuất hiện đặc biệt của Nguyễn Công Hoan. Thơ ca hiện thực gắn với những sáng tác của Tú Mỡ… Vì đây là khoảng thời gian đầu định hình nên văn học hiện thực phê phán giai đoạn này chưa tái hiện không gian rộng lớn của hiện thực xã hội lúc bấy giờ mà chỉ chú ý đến diện mạo hiện thực của đô thị trong quá trình “thực dân hóa”. Ở giai đoạn này, văn học chưa khắc họa những nhân vật điển hình trong những hoàn cảnh điển hình.

- Giai đoạn 1936-1939

Do tình hình xã hội có nhiều thuận lợi cho sự phát triển của văn học hiện thực, các cây bút hiện thực chủ nghĩa như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố… đã đạt tới độ chín tài năng, liên tiếp cho ra đời những tác phẩm xuất sắc. Hàng loạt các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng như: Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê…., nhiều truyện ngắn xuất sắc và tiểu thuyết như “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan… đều tập trung phê phán tố cáo mãnh liệt những thủ đoạn áp bức bóc lột, chính sách bịp bợm, giả dối của giai cấp thống trị, đồng thời phơi bày nỗi thống khổ của nhân dân với thái độ cảm thông sâu sắc. Cảm hứng phê phán đã hướng ngòi bút Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố vào việc khắc hoạ những nhân vật điển hình phản diện có ý nghĩa phê phán quyết liệt.

- Giai đoạn 1940-1945

Cảm hứng phê phán vẫn chiếm ưu thế nhưng cũng có những nét mới, nổi bật nhất trong các sáng tạo của Nam Cao. Nếu Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố thiên về tả thực phản ánh xã hội đương thời thì Nam Cao không chỉ miêu tả mà còn phân tích lí giải những hiện tượng, những vấn đề của hiện thực đó. Ngòi bút Nam Cao luôn có xu hướng phân tích xã hội qua việc phân tích tâm lý nhân vật. Có thể nói, đến Nam Cao, cảm hứng phê phán đã trở thành cảm hứng phân tích phê phán.

3. Thành tích nổi bật

- Về nội dung:

Chủ nghĩa hiện thực mới phát triển được khoảng 15 năm nhưng đã có nhiều tên tuổi lớn như: Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao… Tác phẩm của họ là những bức tranh hiện thực đậm nét, mang tính đời sống xã hội cao. giá trị nhận thức cho người đọc. Nói về những tác phẩm: “Bước đường cùng”, “Tắt đèn”, “Bỉ vỏ”, “Chí Phèo”... Nguyễn Khải cho rằng đó là những tác phẩm có thể tôn trọng mọi nền văn học. Khung cảnh xã hội lúc bấy giờ thật ảm đạm, nhiều tang thương, nhiều tệ nạn xã hội, làng quê xơ xác, đổ nát, người nông dân bị đẩy xuống đáy, rồi trở nên vô lương tâm, trụy lạc, trở thành nạn nhân của xã hội. . Ở thành thị, các phong trào do thực dân khởi xướng như: “Âu hóa”, “Vui vẻ trẻ trung”, thi đấu thể thao, cải cách y phục… càng lộ rõ ​​chân tướng và tạo ra nhiều nghịch cảnh. Dòng văn học hiện thực phê phán đã phơi bày, bóc trần bộ mặt của xã hội.

Nhà văn hiện thực, trí thức mới, vốn xuất thân từ tầng lớp trung lưu, thậm chí xuất thân từ những gia đình nghèo khó, phải bươn chải mưu sinh. Như vậy, họ gần gũi, thấu hiểu và đứng về phía người lao động, được miêu tả qua những trang viết.

Đối với mối quan hệ giữa văn học và cuộc đời, Nam Cao có một lập luận sâu sắc. Trong tác phẩm “Trăng sáng”, nhân vật Điền chuyển từ góc độ nghệ thuật của chủ nghĩa lãng mạn sang góc độ nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” chỉ có thể bắt nguồn từ bi kịch. cuộc sống. âm thanh của nỗi đau."

- về nghệ thuật

Văn học hiện thực 1930 – 1945 đã dựng nên những chân dung nhân vật có sức khái quát cao, chân thực và sinh động, có ý nghĩa xã hội và giá trị thẩm mỹ độc đáo, là những nhân vật kinh điển.

Bên cạnh thành công trong việc xây dựng những điển hình sinh động, văn học hiện thực phê phán còn đạt đến chiều sâu trong phân tích tâm lý nhân vật. Các nhà văn tiêu biểu như Nam Cao, Tô Hoài, Kim Lân…

Nhà văn đạt được thành tựu lớn nhất trong nghệ thuật này là Nam Cao. Các nhân vật trong truyện của ông có chiều sâu cảm xúc, có tuyến tâm lý và đối thoại nội tâm. Nhiều tác phẩm có cấu trúc tâm lý độc đáo, như “Sống mòn”, “Đời thừa”, “Chí Phèo”.

Nhìn chung, các nhà văn hiện thực giai đoạn này đã hiểu rõ sứ mệnh của mình. Họ chủ động trên những trang viết, có vốn sống phong phú. Kiến thức rộng để có thể tạo được hiệu quả nghệ thuật cao nhất.