Cách hướng dẫn sử dụng thuốc an toàn hợp lý

- Thuốc bán theo đơn là những thuốc chỉ nên dùng khi có chỉ định của bác sĩ và về nguyên tắc thuốc chỉ được bán ra khi người mua có đơn thuốc của bác sĩ. Đơn thuốc này có thể bị từ chối nếu như đã hết hiệu lực hay người bệnh sử dụng để mua lại nhiều lần.

- Kháng sinh là một trong những thuốc thuộc nhóm kê đơn. Tuy nhiên chúng ta thường có thói quen tự mua kháng sinh để sử dụng khi sốt,ho,sổ mũi, đau họng… Trong khi đó, kháng sinh hầu như không cần thiết phải sử dụng trong đa số trường hợp. Do đó, tự dùng kháng sinh chỉ gây tốn kém tiền bạc, ảnh hưởng đến sức khỏe mà còn làm tăng nguy cơ kháng thuốc cho bản thân và cộng đồng.

- Bên cạnh kháng sinh, thuốc kháng viêm-giảm đau là nhóm thuốc thứ hai thường được sử dụng bừa bãi trong khi đó ngoại trừ Aspirin, Paracetamol (thường thấy là Tylenol, Hapacol, Efferalgan) và Ibuprofen, tất cả những thuốc còn lại đều cần thiết phải có chỉ định của bác sĩ. Bên cạnh thuốc kháng sinh vàthuốc kháng viêm- giảm đau còn có nhiều loại thuốc khác thuộc nhóm kê đơn như thuốc điều trị tim mạch, huyết áp, tiểu đường, hormon (ngoại trừ thuốc ngừa thai), kháng lao, kháng nấm, kháng virus, thuốc điều trị rối loạn đông máu, thuốc điều trị hen suyển,…

- Một thuốc phù hợp với người này không hẳn đã có hiệu quả và an toàn đối với người kia. Vì vậy không nên dùng thuốc theo kiểu “truyền miệng” hay mượn toa thuốc của người khác khi thấy họ có những biểu hiện tương tự với mình. Liều điều trị và liều gây độc của những thuốc thuộc nhóm kê đơn thường rất gần nhau do vậy chỉ sử dụng khi có ý kiến của bác sĩ. Không tự ý tăng, giảm liều, ngưng đột ngột hay kéo dài hơn so với đơn thuốc đã được chỉ định.

- Trong quá trình đang điều trị, nếu muốn dùng thêm thuốc khác ngay cả chỉ là thuốc bổ hãy tham khảo ý kiến của bác sĩ để tránh tình trạng tương tác thuốc hay thay đổi hiệu quả của thuốc điều trị.

2. Thuốc bán không theo đơn

- Thuốc bán không theo đơn là những thuốc có thể mua mà không cần phải có chỉ định của bác sĩ. Những thuốc này có thể được tìm thấy ở nhà thuốc và đôi khi ở những nơi khác như siêu thị, nhà ga, hiệu sách,… Thuốc không kê đơn thường chỉ có tác dụng làm dịu triệu chứng như sốt, ho, sổ mũi, nhức đầu hay tăng cường sức đề kháng như vitamin và khoáng chất.

- Mặc dù thuốc có thể mua khi chưa có chỉ định của bác sĩ,nhưng điều này không có nghĩa là thuốc hoàn toàn an toàn với người sử dụng. Để không ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe, cần phải đọc kỹ tên thuốc và các thông tin được in trên nhãn mác như thành phần, liệu lượng, cách dùng, những tác dụng phụ có thể gặp phải và những trường hợp nào cần hạn chế hay ngưng sử dụng sản phẩm này. Khi sử dụng thuốc cần dùng đúng theo liều lượng do nhà sản xuất đưa ra. Không nên dùng quá liều hay kéo dài hơn so với thời gian được khuyến cáo.

- Đa số các chuyên gia đều khuyên rằng nên chọn thuốc không kê đơn chỉ có tác dụng làm dịu một triệu chứng mà thôi. Tránh sử dụng những thuốc phối hợp nhiều dược chấtmặc dù chúng có thể giảm nhiều triệu chứng cùng một lúc nhằm hạn chế khả năng tương tác thuốc có hại cho cơ thể. Hãy tham khảo ý kiến của dược sĩ, bác sĩ trước khi phối hợp nhiều loại thuốc không kê đơn với nhau hoặc đang dùng thuốc để điều trị bệnh theo chỉ định của bác sĩ.

- Vitamin, khoáng chất đóng vai trò rất quan trọng trong việc duy trì và tăng cường sức khỏe. Tuy nhiên thuốc bổ chỉ thật sự “ bổ” nếu được sử dụng đúng liều lượng và đúng đối tượng. Dùng quá nhiều thuốc bổ trong một khoảng thời gian dài có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm cho cơ thể. Đôi khi một số thành phần trong thuốc bổ có thể làm giảm hiệu quả và tăng độc tính của thuốc điều trị. Vì vậy hãy hỏi ý kiến bác sĩ hoặc dược sĩ trước khi cho bé uống thuốc bổ nếu bé đang phải dùng thuốc để điều trị bất kỳ một bệnh lý nào.

- Trong đợt điều trị, hãy cố gắng ghi nhận tất cả những thuốc không kê đơn, thuốc bổ, thực phẩm chức năng hay những loại thảo dược đã và đang dùng để cung cấp cho bác sĩ trong mỗi lần tái khám.

- Trước khi dùng bất kỳ thuốc nào hãy đọc kỹ hướng dẫn sử dụng và thông báo ngay cho bác sĩ hoặc dược sĩ những bất thường xảy ra trong quá trình dùng thuốc. Để thuốc luôn bảo đảm chất lượng, cần giữ thuốc ở nơi khô thoáng hay tủ mát,tránh ánh sáng tùy theo yêu cầu của nhà sản xuất. Cần chú ý đến hạn dùng và thời gian hủy thuốc sau khi mở nắp để thay thế thuốc mới ngay cả khi thuốc cũ vẫn còn nhiều.

Hiện nay trên thế giới việc sản xuất cũng như lưu thông phân phối dược phẩm tăng quá lớn. Nước ta cũng vậy. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để người dân biết và sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, hiệu quả.

Cách hướng dẫn sử dụng thuốc an toàn hợp lý

Tư vấn sử dụng thuốc cho người bệnh.

Khi có bệnh và phải dùng thuốc, bệnh nhân nên đặt câu hỏi tại sao phải dùng thuốc. Có phương pháp nào khác thay thế thuốc để điều trị không? Tại sao phải dùng thuốc này? Tại sao lại phải dùng nhiều thuốc như vậy? Thuốc này có dễ mua không?... Thuốc, có định nghĩa như mọi người đã biết, nó là sản phẩm dùng để chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ cho con người. Nhưng luôn luôn ghi nhớ rằng nó chưa phải là hướng duy nhất để điều trị bệnh tốt nhất. Bởi lẽ ngoài tác dụng tốt, đúng mục đích cho điều trị, nó còn có tác dụng phụ, phản ứng có hại của thuốc (ADR)... cho đến nay ngay đến từ ngữ vẫn còn nhiều người, kể cả số ít đang làm chuyên môn trong ngành y, hiểu chưa thấu đáo, còn có sự lẫn lộn giữa tác dụng phụ và ADR. Ta nên hiểu cụ thể là ngoài tác dụng chính, thuốc còn có thêm các tác dụng khác nữa. Ví dụ như diazepan (seduxen) là thuốc giải lo âu, bồn chồn còn có tác dụng an thần, gây ngủ mà mọi người vẫn gọi nhầm là thuốc ngủ. Thuốc sản xuất đã đạt GMP, GLP, GSP... nhưng vẫn có ADR xảy ra với cá thể bệnh nhân. Vì vậy ngay từ vấn đề từ ngữ cũng cần hiểu chi tiết, nếu không hướng sử dụng thuốc sẽ có nhầm lẫn xảy ra.

Thuật ngữ chuyên ngành rất cần cho người bệnh

Sử dụng thuốc hợp lý đòi hỏi người bệnh phải nhận được thuốc thích hợp với đòi hỏi của lâm sàng và liều lượng đáp ứng được yêu cầu cá nhân người bệnh trong một khoảng thời gian thích hợp và với chi phí ít gây tốn kém nhất cho người bệnh và cho cộng đồng (WHO, 1998). Cụ thể hơn người sử dụng cần quan tâm đến số phận của thuốc trong cơ thể, quá trình tác dụng của thuốc lên cơ thể (dược lực học) và ngược lại là quá trình tác động của cơ thể lên thuốc (dược động học). Trong đó vấn đề cần quan tâm nhất là: tương tác thuốc (làm giảm hiệu lực, gây độc...), phối hợp thuốc (bất lợi và có lợi). Thuốc chữa triệu chứng (hết triệu chứng có thể dừng thuốc). Thuốc điều trị căn nguyên (phải tuân theo phác đồ nghiêm ngặt về liều lượng, thời gian dùng...). Người xưa có câu "cơm ba bát thuốc ba thang” ngụ ý nói thuốc thang phải có liều lượng. Thuốc cần phải dùng đúng theo thời gian quy định một cách nghiêm ngặt theo nhịp sinh học để phát huy được tác dụng tốt nhất. Ví dụ uống thuốc trước khi ăn, sau khi ăn và trong khi ăn, vào buổi sáng, vào buổi tối trước khi đi ngủ... người ta đưa ra khái niệm liên quan đến liều lượng, đó là "cửa sổ điều trị". Nó thể hiện nồng độ tối đa mà cơ thể có thể dung nạp được trước khi xuất hiện tác dụng gây độc của thuốc. Như vậy độ rộng của "cửa sổ điều trị" hẹp thì độ an toàn của thuốc sẽ thấp và ngược lại. Thuốc có "cửa sổ điều trị" hẹp phải cảnh giác vì liều điều trị và liều độc gần nhau. Vấn đề tương tác thuốc có thể dự kiến được và có khi không dự kiến trước được. Tương tác giữa cơ thể tác động lên thuốc (tương tác dược động học), giữa thuốc và thụ thể (tương tác dược lực học) gián tiếp làm nhiễu tác dụng của thuốc. Tuổi "49 chưa qua 53 đã tới" là tuổi thay đổi sinh lý và tuổi càng cao lượng thuốc lại dùng nhiều lên gây ra tương tác thuốc có ảnh hưởng lớn đến tương đương sinh học của thuốc. Phụ nữ có thai, cho con bú, trẻ em, trạng thái sinh lý bệnh lý của bệnh nhân, người nghiện rượu, thuốc lá, cà phê, chế độ dinh dưỡng, có tự dùng thuốc gì không, các bệnh mắc phải (rối loạn chuyển hóa, thần kinh, tim mạch, tâm thần kinh, chức năng gan, thận...) cũng như vậy. Sử dụng thuốc cấp cứu, chống độc, chống sốc cũng có chuyên luận cụ thể và cần chú ý tất cả những vấn đề đã nêu ở trên. Ở đây quan tâm đến vấn đề thời gian dùng từng thuốc và giữa các thuốc, nhất là thuốc kháng sinh, hướng tâm thần, tim mạch... Điều này được bác sĩ dặn kỹ lưỡng. Nó cũng có trong tờ hướng dẫn sử dụng ở trong hộp thuốc. Bệnh nhân cũng có thể tham khảo kỹ ở các sách hướng dẫn sử dụng thuốc và biệt dược. Việc phối hợp thuốc có tỷ lệ thuận với nguy cơ cao, cho nên cần hạn chế vấn đề này. "Trình độ thầy thuốc không được đo theo độ dài của đơn". Không phối hợp trên năm loại thuốc và càng phối hợp ít càng tốt. Không nên phối hợp thuốc khi lợi ích chưa được chứng minh. Vấn đề tương tác thuốc (thuốc - thuốc, thuốc - thực phẩm, thuốc - nước uống), kể cả ở ngoài cơ thể (do quá trình sản xuất, bảo quản, lưu thông phân phối...) có khi là đối kháng hoặc cộng hưởng, có khi là do hiện tượng vật lý, hoá học (ôxy hoá khử, thuỷ phân,...), do dược lực (hoạt tính, ái lực do liên kết, thay đổi vị trí...) có thể sẽ gây ra bất lợi, ảnh hưởng trực tiếp đến bệnh nhân, lợi bất cập hại.

Tuân thủ chỉ định của bác sĩ, không dùng thuốc qua thông tin quảng cáo

Hiện nay bệnh nhân có tâm lý thích được bác sĩ kê cho nhiều thuốc, thuốc biệt dược mới thì mới vừa ý. Tâm lý này là bất lợi. Bệnh nhân cần tham khảo lời khuyên từ các bác sĩ lâm sàng có kinh nghiệm dựa vào cơ chế để kê đơn, hướng dẫn sử dụng, điều chỉnh thuốc, chứ không phải từ phía tiếp thị theo lợi nhuận. Việc hướng dẫn nên mô phỏng bằng ngôn ngữ cộng đồng để bệnh nhân dễ hiểu, ví dụ: hệ tim mạch giống như hệ thống cấp nước trong gia đình, máy bơm (như quả tim), ống dẫn nước (mạch máu). Ống dẫn nước lâu ngày han gỉ, lắng đọng (giống sự tạo thành tế bào bọt và mảng vữa xơ), làm tắc ống nước và gây ra rò gỉ, vỡ ống nước (giống như tai biến mạch máu). Từ đó bệnh nhân tự liên hệ, hiểu biết và nhớ để sử dụng thuốc cho an toàn, hiệu quả, hợp lý.