Chiến dịch đổ bộ hải quân tiếng anh là gì

Trước nguy cơ thất bại của Chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", Tổng thống Mỹ Giôn-xơn đã quyết định đẩy mạnh chiến tranh xâm lược miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam. Để thực hiện kế hoạch đó, đêm ngày 31/7/1964, rạng sáng 01/8/1964, tàu khu trục Ma Đốc của Mỹ đã tiến sâu vào vùng biển Việt Nam và gây ra nhiều tội ác đối với nhân dân ta. Với ý chí quyết đánh, giám đánh và quyết tâm trừng trị kẻ xâm phạm. Ngày 2/8/1964, biên đội tàu phóng lôi: 333, 336, 339 xuất kích bất chấp sự chống trả của đối phương, cán bộ, chiến sỹ 3 tàu của HQNDVN đã anh dũng kiên cường đánh trả buộc tàu Ma đốc phải tháo chạy ra khỏi hải phận vùng biển miền Bắc; lợi dụng sự kiện này, đêm ngày 4/8/1964, chính quyền Mỹ dựng lên vụ "Vịnh Bắc Bộ" vu cáo cho Hải quân Việt Nam cố ý tấn công tàu chiến Mỹ ở vùng biển quốc tế, để lấy cớ ngày 5/8/1964 dùng lực lượng không quân tập kích ác liệt vào lực lượng Hải quân Việt Nam từ Sông Gianh, Cửa Hội, Lạch Trường đến Bãi Cháy, nhằm tiêu hao lượng tàu chiến đấu, quân cảng, kho tàng, nhiên liệu của Hải quân Việt Nam.

Trong trận đầu thử lửa, Hải quân Việt Nam đã hiệp đồng chặt chẽ với bộ đội phòng không quốc gia, công an vũ trang, dân quân tự vệ các địa phương đập tan cuộc tập kích bằng Không quân của Mỹ, đã bắn rơi 8 máy bay, bắn bị thương nhiều chiếc khác, bắt sống Trung uý giặc lái An-vơ-rét (là phi công đầu tiên bị bắt ở miền Bắc).

Chiến thắng ngày 2 và 5/8/1964 là thắng lợi có ý nghĩa về chính trị, có tiếng vang lớn trên thế giới của quân và dân Việt Nam. Ngày 2 và 5/8/1964, mãi mãi trở thành ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của HQNDVN và của quân, dân miền Bắc. Giai đoạn (1964 - 1975): Hải quân nhân dân Việt Nam tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc.

Hải quân nhân dân Việt Nam cùng quân dân cả nước đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng Không quân và Hải quân của đế quốc Mỹ, bảo vệ miền Bắc XHCN

Trước nguy cơ thất bại của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ đã liều lĩnh đưa quân Mỹ vào miền Nam, tiến hành cuộc “chiến tranh cục bộ” bằng chính lực lượng viễn chinh và chư hầu, hòng cứu vãn nguy cơ sụp đổ của nguỵ quân, nguỵ quyền Sài Gòn. Đồng thời với âm mưu uy hiếp tinh thần nhân dân và phá huỷ tiềm lực kinh tế, quốc phòng miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn miến Bắc đối với miền Nam, Mỹ tiến hành mở rộng cuộc chiến tranh leo thang phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân.

Cùng với cả nước, Hải quân nhân dân Việt Nam đã vượt qua mọi khó khăn, ác liệt chiến đấu anh dũng, bắn rơi 118 máy bay, bắn chìm và bị thương 45 tàu thuyền của địch, góp phần đánh thắng chiến tranh leo thang phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ.

Hải quân nhân dân Việt Nam làm nòng cốt đánh bại chiến dịch phong tỏa thuỷ lôi trên sông, biển miền Bắc

Cùng với việc sử dụng không quân và hải quân tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc lần tthứ nhất, ngày 26/02/1967, đế quốc Mỹ sử dụng nhiều máy bay xuất phát từ tàu sân bay của Biên đội 77, Hạm đội 7 thực hiện chiến dịch phong toả thuỷ lôi, bom từ trường vào hầu hết hệ thống giao thông thuỷ - bộ ven biển miền Bắc. Với quyết tâm "Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến” Hải quân Việt Nam phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt; lực lượng đầu tiên, trực tiếp và chủ yếu trong tháo gỡ, rà phá, làm mất hiệu lực 2.400 quả thuỷ lôi, mở tuyến thông luồng bảo đảm cho tàu thuyền hoạt động, sản xuất, tiếp nhận, vận tải chi viện cho chiến trường miền Nam trên hầu hết các cửa sông, cửa biển và hải cảng; đánh bại một phương thức tác chiến chiến lược rất thâm độc của địch. Hải quân nhân dân Việt Nam mở đường Hồ Chí Minh trên biển, vận chuyển chi viện cho cách mạng miền Nam

Một trong số những con tàu Không số trong hải trình chi viện cho chiến trường miền Nam

Để chi viện cho cách mạng miền Nam, cùng với Đoàn 559 mở đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn. Đoàn 759 (tiền thân của Đoàn 125) được thành lập ngày 23/10/1961 để mở Đường Hồ Chí Minh trên biển.

Trong suốt 14 năm vận chuyển chi viện cho chiến trường miền Nam, HQNDVN đã chấp nhận mọi hy sinh, gian khổ, mưu trí vượt qua các tuyến bao vây, phong toả, đối phó với từng thủ đoạn của địch; sáng tạo nhiều phương thức hoạt động độc đáo, táo bạo; hình thành nhiều tuyến, mở hàng chục bến bãi thuộc hầu hết các tỉnh ven biển miền Nam, đến tận cùng của đất nước và sát cửa ngõ Sài Gòn; vận chuyển kịp thời và đúng thời cơ hàng ngàn tấn vũ khí, đạn dược, thuốc men, hàng chục ngàn lượt người đến những chiến trường khó khăn nhất, nơi mà con đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn chưa vươn tới được, góp phần chi viện đắc lực cho cách mạng miền Nam.

Huấn luyện lực lượng Đặc công Hải quân tiến công địch trên chiến trường sông, biển miền Nam.

Với nhiệm vụ tấn công địch trên chiến trường sông biển miền Nam, đánh phá các căn cứ hậu cần, kho tàng, hải cảng, triệt phá các đường giao thông thủy bộ quan trọng, tạo thế bao vây quân Mỹ, ngụy trở thành một lực lượng chiến lược của lực lượng vũ trang ở miền Nam, Hải quân Việt Nam được đảm nhận nhiệm vụ huấn luyện cán bộ, chiến sỹ đặc công nước chi viện cho các chiến trường và trực tiếp chiến đấu trên chiến trường Cửa Việt - Đông Hà. Hải quân Việt Nam đã huấn luyện đào tạo, bổ sung cho các chiến trường miền Nam được hơn 5.000 cán bộ, chiến sỹ đặc công. Trong 7 năm, chiến đấu trên chiến trường Cửa Việt - Đông Hà. Đặc công Hải quân đã đánh 300 trận; đánh chìm, đánh hỏng 336 tàu xuồng chiến đấu, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Góp phần cùng các lực lượng trên khắp chiến trường miền Nam đánh chìm, đánh hỏng 7.473 tàu thuyền, đánh sập hàng trăm cầu cống, vật chất phục vụ chiến tranh, cùng quân dân miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Hải quân nhân dân Việt Nam tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975

Trong chiến dịch mùa Xuân năm 1975, Hải quân Việt Nam đã huy động đến mức cao nhất lực lượng tàu thuyền chiến đấu và vận tải để đưa gần 4.000 cán bộ, chiến sỹ đi chiến đấu và phục vụ chiến đấu, chở pháo, xe tăng, vũ khí các loại từ hậu phương miền Bắc vào chiến trường miền Nam. Dùng tàu chiến thả thủy lôi ở cửa biển Thuận An - Bán đảo Sơn Trà để chặn địch tháo chạy ra biển, góp phần tạo điều kiện để các đơn vị bộ binh giải phóng các thành phố, các tỉnh ven biển, tiếp quản căn cứ Quy Nhơn, Nha Trang, Cam Ranh; đồng thời dùng lực lượng tàu của Đoàn 125 chở đoàn Đặc công 126 và phối hợp với một bộ phận của lực lượng Quân khu V chiến đấu giải phóng quần đảo Trường Sa, góp phần vào thắng lợi vĩ đại và trọn vẹn của dân tộc.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh đã kết thúc thắng lợi vẻ vang, non sông đất nước ta liền một dải. Cách mạng Việt Nam chuyển sang thời kỳ mới. Quân chủng Hải quân cùng quân dân cả nước bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới, Hải quân nhân dân Việt vừa thực hiện điều chỉnh tổ chức, bố trí, sắp xếp lại lực lượng, chuyển từ nhiệm vụ huấn luyện và chiến đấu sang nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu; vừa phải tham gia quản lý, ổn định vùng mới giải phóng, giải quyết nhiều vấn đề sau chiến tranh và làm kinh tế. Trước yêu cầu xây dựng từng bước chính quy, hiện đại, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc, ngày 26 tháng 10, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 141/QĐ-QP tổ chức 5 vùng duyên hải: Vùng 1, Vùng 2, Vùng 3, Vùng 4, Vùng 5 trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân, mỗi Vùng tương đương cấp sư đoàn, có nhiệm vụ phụ trách từng khu vực duyên hải được phân công. Giai đoạn (1976 - 2012): Hải quân nhân dân Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế và tập trung xây dựng Quân chủng

Hải quân nhân dân Việt Nam thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vùng biển, Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia (1979-1989) và giúp đỡ Lào

Chỉ sau 3 ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, bọn Pôn pốt-Iêng-xa-ry đã xua quân tấn công Đảo Phú Quốc, Thổ Chu và tàn sát, bắt đi hàng trăm dân thường Việt Nam. Năm 1978, cuộc xung đột biên giới trở thành cuộc chiến tranh thực sự.

Trên hướng biển Tây Nam, HQNDVN đã cùng các quân, binh chủng tiến hành các cuộc chiến đấu trên hướng chiến lược quan trọng của chiến dịch, cùng các lực lượng tiêu diệt 1.241 tên địch, bắt sống và gọi hàng 1.680 tên, giải phóng 12.300 dân, đánh chìm 27 tàu chiến, góp phần giải phóng Thủ đô Phnôm Pênh, thành phố Cô Công, các vùng biển Campuchia, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng. Sau ngày 7/01/1979, một lực lượng cán bộ, chiến sỹ Hải quân Việt Nam đã ở lại để bảo vệ công cuộc hồi sinh của nhân dân Campuchia cho đến năm 1989 mới rút quân về nước. Đồng thời từ năm 1976 - 1988, giúp bạn Lào tổ chức xây dựng lực lượng, đào tạo huấn luyện hàng trăm cán bộ, chiến sỹ và thợ kỹ thuật, giúp bạn đóng mới một số tàu vận tải, đảm bảo kỹ thuật và viện trợ 14 tàu PBR, 33 tấn phụ tùng, sửa chữa 97 tàu, trang bị hàng chục máy công cụ, khôi phục Xưởng Chi-nai-mô, góp phần tăng cường mối quan hệ đoàn kết giữa Quân đội và nhân dân hai nước Việt - Lào.