Sinh ý nghĩa là gì

Sinh thái học là một nhánh của sinh học, trong đó các tương tác giữa các sinh vật sống với môi trường sống nơi chúng được tìm thấy được nghiên cứu và phân tích , đó là các mối quan hệ tồn tại giữa các yếu tố sinh học (mối quan hệ giữa các sinh vật sống) và các yếu tố phi sinh học ( điều kiện môi trường).

Về mặt từ nguyên học, từ sinh thái học bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp ökologie bao gồm sự kết hợp của các từ Hy Lạp oikos , có nghĩa là 'nhà', 'nhà' hoặc 'nhà ở', và logo , có nghĩa là 'nghiên cứu' hoặc 'chuyên luận'. Theo nghĩa này, sinh thái học có nghĩa là 'học tại nhà'.

Đó là Ernst Haeckel, một nhà khoa học người Đức, người đã tạo ra thuật ngữ sinh thái vào năm 1869 để chỉ định một tên cho khoa học nghiên cứu mối quan hệ giữa các sinh vật sống và môi trường.

Do đó, đối tượng nghiên cứu của hệ sinh thái là xác định các yếu tố phi sinh học (độ ẩm, nhiệt độ, giữa các yếu tố khác) tương tác với các yếu tố sinh học (mối quan hệ giữa sự đa dạng lớn của các sinh vật được tìm thấy trong cùng một môi trường sống).

Do đó, sinh thái học đặc biệt chú ý đến các đặc điểm cụ thể của môi trường sống ảnh hưởng đến sự phát triển, sửa đổi và hành vi của các loài khác nhau.

Theo nghĩa này, khái niệm sinh thái con người đề cập đến nghiên cứu khoa học về mối quan hệ giữa con người và môi trường, bao gồm các điều kiện tự nhiên, tương tác và các khía cạnh kinh tế, tâm lý, xã hội và văn hóa. Do đó, sinh thái học tập trung vào nghiên cứu hệ sinh thái hoặc quần thể nói chung.

Tương tự như vậy, sinh thái học là một khoa học trong đó các nghiên cứu được thực hiện về những gì có thể là những thay đổi mà hệ sinh thái có thể trải qua từ các hoạt động của con người.

Điều quan trọng là làm nổi bật tầm quan trọng của các nghiên cứu sinh thái, đa ngành, giúp mở rộng kiến ​​thức trong lĩnh vực khoa học này, cũng như thiết kế các chiến lược và cơ chế tập trung vào bảo tồn và bảo tồn môi trường.

Mặt khác, hiện tại thuật ngữ sinh thái vượt ra ngoài nghiên cứu khoa học, giờ đây nó là một phần của các chiến dịch chính trị và các phong trào xã hội nhằm tìm kiếm sự bảo vệ và tương tác có ý thức của con người với môi trường.

Do đó, sinh thái học đã áp dụng một đặc tính môi trường và mục tiêu của nó là chăm sóc và duy trì sự cân bằng của các hoạt động của con người với môi trường sống của chúng ta.

Xem thêm:

  • Sinh học Cân bằng môi trường Hệ sinh thái

Các ngành sinh thái chính

Các ngành chính của nghiên cứu và nghiên cứu trong đó sinh thái học được phân chia như sau:

  • Autoecology: một nhánh của hệ sinh thái nghiên cứu sự thích nghi của các loài với các điều kiện nhất định của các yếu tố phi sinh học. Demoecology (động lực dân số): nhánh nghiên cứu, từ sinh thái học và nhân khẩu học, các đặc điểm chính của cộng đồng hoặc dân số chiếm một môi trường sống nhất định. Synecology (sinh thái cộng đồng): nhánh của hệ sinh thái nghiên cứu sự tương tác giữa các cộng đồng sinh học và hệ sinh thái. Nông học: ngành bắt đầu từ kiến ​​thức về sinh thái và nông học để phát triển các mô hình sản xuất thực phẩm có tính đến cả hệ sinh thái và môi trường xã hội. Ecophysiology (sinh thái môi trường): chi nhánh của hệ sinh thái nghiên cứu các hiện tượng sinh lý trong môi trường, trong đó có thể trải nghiệm những thay đổi do hiện tượng tự nhiên khác nhau hoặc hoạt động của con người. Macroecology: chi nhánh của hệ sinh thái học mô hình sinh thái được lặp lại trên quy mô lớn.

Tương tác sinh thái

Trong sinh thái học, các quá trình, động lực và tương tác giữa tất cả các sinh vật sống trong quần thể, cộng đồng, hệ sinh thái hoặc sinh quyển được nghiên cứu.

Tương tác sinh thái được đặc trưng bởi lợi ích của hai sinh vật sống (hài hòa) hoặc bởi tác hại của một trong số chúng (không điều hòa) và có thể xảy ra giữa các sinh vật cùng loài (intraspecific) hoặc của các loài khác nhau (xen kẽ).

  • Quan hệ nội tại hài hòa: xã hội (tổ chức của các cá nhân cùng loài) và thuộc địa (nhóm các cá nhân cùng loài với mức độ phụ thuộc lẫn nhau). Quan hệ nội bộ nội tiết: cạnh tranh ăn thịt người và cạnh tranh giữa các quốc gia và liên vùng. Chúng là mối quan hệ giữa các loài bằng nhau, nhưng có một thiệt hại ở ít nhất một trong hai bên. Hài hòa các mối quan hệ khác loài: . Hỗ sinh (hoặc cộng sinh), các protocooperation, các inquilism (hoặc epibiosis) và commensal các mối quan hệ khác loài không điều hòa: các amensalismo (hoặc kháng sinh), động vật tàn phá ăn thịt, ký sinh và nô lệ.

Sinh học là môn khoa học nghiên cứu về nguồn gốc, sự tiến hóa và đặc điểm của sinh vật , cũng như quá trình sống, hành vi và sự tương tác của chúng với nhau và với môi trường.

Từ này, như vậy, được hình thành từ nguồn gốc Hy Lạp βί bí (bíos), có nghĩa là 'cuộc sống', và -λλγίγί ((-logy), có nghĩa là 'khoa học' hoặc 'nghiên cứu'.

Như vậy, sinh học chịu trách nhiệm mô tả và giải thích hành vi và đặc điểm phân biệt sinh vật sống, với tư cách cá nhân, hoặc được coi là toàn bộ, như một loài.

Tầm quan trọng của sinh học

Một trong những mục tiêu cơ bản của sinh học là thiết lập các quy luật chi phối cuộc sống của sinh vật . Nói cách khác, nó bao gồm các nghiên cứu về nguồn gốc của sự sống và sự tiến hóa của nó trong suốt sự tồn tại của chúng ta.

Do đó, cần phải thực hiện nghiên cứu và nghiên cứu về sinh vật liên tục. Điều này đã cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về các vi sinh vật phức tạp và cơ thể chúng ta hoạt động như thế nào.

Tương tự như vậy, nghiên cứu khoa học về sinh học đã cho phép các chuyên gia khác nhau tạo ra các loại thuốc và vắc-xin chống nhiễm trùng hoặc ngăn ngừa bệnh tật để cải thiện chất lượng cuộc sống của chúng ta, bao gồm cả động vật và thực vật.

Do đó, sinh học cũng là một khoa học đóng góp kiến ​​thức tuyệt vời cho các ngành nghiên cứu khoa học khác.

Chi nhánh sinh học

Sinh học là một ngành khoa học rộng lớn, từ đó nhiều nhánh xuất hiện đi sâu vào các khía cạnh đa dạng nhất liên quan đến các sinh vật sống, chẳng hạn như:

  • Giải phẫu: nghiên cứu cấu trúc bên trong và bên ngoài của các sinh vật sống. Vi khuẩn học: nghiên cứu vi khuẩn. Y sinh: nghiên cứu về sức khỏe của con người. Hóa sinh: nghiên cứu các quá trình hóa học. Sinh thái học: nghiên cứu các sinh vật và mối quan hệ của chúng, thậm chí với môi trường. Phôi học: nghiên cứu sự phát triển của phôi. Côn trùng học: nghiên cứu côn trùng. Đạo đức: nghiên cứu hành vi của con người và động vật. Sinh học tiến hóa: nghiên cứu về sự thay đổi mà chúng sinh trải qua thời gian. Phylogeny: nghiên cứu về cách các sinh vật phát triển. Di truyền học: nghiên cứu về gen. Mô học: nghiên cứu thành phần và cấu trúc của các mô. Miễn dịch học: nghiên cứu các cơ chế của cơ thể để chống lại độc tố, kháng nguyên, trong số những người khác. Mycology: nghiên cứu về nấm. Vi sinh vật: nghiên cứu vi sinh vật. Tổ chức: nghiên cứu các cơ quan của động vật và thực vật. Paleontology: nghiên cứu các sinh vật sống trên Trái đất trong quá khứ. Phân loại học: nghiên cứu cho phép phân loại sinh vật sống. Virus học: nghiên cứu về virus. Động vật học: nghiên cứu động vật.

Xem thêm:

  • Mô học, Giải phẫu, Sinh thái.

Sinh học phân tử

Sinh học phân tử là một phần của sinh học nghiên cứu các quá trình của sinh vật theo quan điểm phân tử. Cụ thể, nó tập trung vào nghiên cứu hai đại phân tử: axit nucleic, bao gồm DNA và RNA và protein.

Sinh học tế bào

Là sinh học tế bào, còn được gọi là sinh hóa tế bào và trước đây gọi là tế bào học, nó là một phần của sinh học nghiên cứu các hiện tượng sinh học diễn ra trong các tế bào, cũng như tính chất, cấu trúc, chức năng, bào quan, vòng đời và cách thức của chúng họ tương tác với môi trường của họ. Nó là một môn học liên quan đến sinh học phân tử.

Sinh học biển

Sinh học biển là một nhánh của sinh học chịu trách nhiệm nghiên cứu các sinh vật sống trong hệ sinh thái biển, cũng như bảo tồn sinh vật biển và môi trường của nó theo nghĩa vật lý và hóa học.

Phép ẩn dụ, ví von khiến ta phải suy nghĩ

Sinh ý nghĩa là gì

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Phép ẩn dụ được lồng ghép chằng chịt vào tấm thảm ngôn ngữ, mà nếu không có chúng, ngôn ngữ sẽ là một miếng vải sờn rách, thô cứng.

Nhưng ngoài việc đưa màu sắc và hình ảnh vào ngôn ngữ, phép ẩn dụ còn đảm nhận một chức năng cụ thể: chúng giải thích các khái niệm phức tạp mà ta chưa quen, giúp ta kết nối với nhau và thậm chí có thể định hình quá trình suy nghĩ của chúng ta.

Cháu gái Trump và những tiết lộ gây sốc về gia đình

Giải mã tâm lý đòi giật sập tượng các nhân vật lịch sử

Sức mạnh thần thánh của sự nhàm chán

Chúng giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới của mình.

Chuyển ý nghĩa

Vậy 'ẩn dụ' chính xác là gì?

Chúng ta có thể lôi sách vở cũ ra để tìm lại một định nghĩa mơ hồ từ những ngày còn đi học, mà theo dòng định nghĩa trong từ điển Cambridge thì đó là "một cách diễn đạt thường thấy trong văn học, theo đó miêu tả một người hoặc vật bằng cách nói đến một thứ khác được coi là có đặc điểm tương tự như người hoặc vật đó".

Đối với Aristotle, ẩn dụ là đặt cho thứ gì đó một cái tên thuộc về thứ khác.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Trong tiếng Pháp có cách diễn đạt 'Tôi có trái đào' để thể hiện ý nghĩa 'Tôi rất hào hứng', một trong những phép ẩn dụ được dùng nhiều ở nước này

Thật ra, từ 'metaphor' (tức ẩn dụ) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, và bản thân nó cũng là một phép ẩn dụ. Từ này có nghĩa là 'mang qua chỗ khác hoặc mang ra ngoài' (kết hợp 'meta' (vượt ra ngoài) và 'phero' (mang theo)). Ẩn dụ mang ý nghĩa từ cái này sang cái khác.

Cô đơn, sinh tồn và tình yêu thương trong đại dịch

Thế kỷ 21: Khi thế giới diễn ra như cảnh phim bom tấn

Những phim Ghibli khán giả Việt mê mẩn phải xem

Phép ẩn dụ hoán chuyển tất cả các ngụ ý, liên tưởng và kết nối - nó không chỉ là trao đổi lời nói mà còn trao đổi các khái niệm và ý tưởng.

Nhiều nhà khoa học, trong đó có Albert Einstein, đã sử dụng phép ẩn dụ để giải thích các lý thuyết.

"Cách duy nhất để chúng ta có thể học được điều mới là so sánh nó với thứ nào đó mà chúng ta đã biết," tác giả James Geary nói trên chương trình Word of Mouth của Đài BBC Radio 4.

Nhưng đó không chỉ là 'cho biết về sự giống nhau' hoặc tiết lộ về một thứ gì đó đã có từ trước, giáo sư Stacy Pies ở Đại học New York nói. Nó cũng là 'một bước nhảy vọt về trí tưởng tượng, giúp mở rộng cách chúng ta suy nghĩ' và mở rộng hệ quy chiếu.

Chúng ta thường dựa vào phép ẩn dụ để nói về cảm xúc hoặc ý tưởng, chẳng hạn như phép ẩn dụ nguyên mẫu, 'trái tim tôi tan vỡ'.

Geary nói rằng ẩn dụ được tìm thấy, giống như hóa thạch, trong "bất kỳ từ ngữ nào chúng ta sử dụng để truyền đạt ý nghĩa, độ phức tạp và nội dung. cho dù là ở bề mặt hay khi bạn đào sâu vào từ nguyên... Chúng ta thường nghĩ về phép ẩn dụ như một cách dùng từ, nhưng thực ra đó là cách tư duy."

Phép ẩn dụ là cách để thu hút ta vào việc tìm hiểu một cái gì đó - và một khi ta hiểu được thì sẽ có "khoảnh khắc thân mật giữa những tâm hồn được thực sự thỏa mãn, cảm thấy dễ chịu và mọi thứ tràn đầy ý nghĩa", Pies nói.

Chẳng hạn, những hình ảnh khác thường nhưng rất phù hợp được sử dụng trong bài thơ 'Ẩn dụ' của Sylvia Plath sẽ rất hợp ý với nhiều bà mẹ khi họ nhớ lại thời kỳ mang thai: 'Một con voi, một ngôi nhà ục ịch, / Một quả dưa bước đi trên hai dây leo. / Ôi trái đỏ, ngà voi, gỗ tốt! / Ổ bánh to đang nổi men. / Trong cái ví bự có đồng tiền mới. / Tôi là phương tiện, là giai đoạn, là một con bò có chửa...'

"Đó là sự giao lưu song phương - bạn tiếp cận người khác, bạn chìa tay ra với người bạn trò chuyện cùng và nói 'xin hãy hiểu cho tôi'," Pies giải thích.

Đối với người sử dụng phép ẩn dụ thì khi có ai đó hiểu được đúng ý mình, họ sẽ có cảm giác được công nhận, "được thấu hiểu, cảm thấy như lời mời của mình đã được đối phương chấp nhận, và mình được họ chìa tay ra nắm lấy," bà nói.

Pies so sánh phép ẩn dụ với 'cờ vua 3D'.

Bạn đang nghĩ ba điều cùng một lúc: nói gì, nói vậy có nghĩa là gì và không có nghĩa gì.

Vậy điều gì làm nên một ẩn dụ tốt, hay nói cách khác là một phép ẩn dụ đạt hiệu quả?

Đối với Pies, đó là khi có sự hồ hởi. Chắc chắn đó là phép ẩn dụ sống động, ấn tượng và độc đáo.

Nhưng cũng còn tùy thuộc vào việc người dùng phép ẩn dụ với mong muốn sẽ đạt được điều gì ở đối phương. Khi họ gợi lên được kết quả mà họ mong muốn, Geary nói, thì sẽ có "một kết nối tuyệt vời, giống như một tia lửa".

Sự tương tự ẩn

"Khi bạn nhìn thấy một cái gì đó tượng trưng cho thứ mà bạn đã biết, bạn sẽ thấy vui là mình nhận ra nó," Pies nói.

Trái lại, khi bạn chứng kiến điều gì đó trong nghệ thuật mà mình chưa từng biết đến trong cuộc sống, thì đó sẽ là một cách để trải nghiệm. "Hành động tưởng tượng và cảm nhận sẽ mở rộng năng lực cảm xúc của bạn," bà giải thích.

Ví von là phép tu từ gần gũi và có chung nhiều đặc tính với phép ẩn dụ.

Thế nhưng khác với ẩn dụ, ví von sử dụng từ 'như là'.

Cho nên khi ta nói "cuộc sống giống như là một hộp chocolate" thì đó là một cách ta đang ví von.

Trong bài thơ '90 North', Randall Jarrell đã khắc họa bức tranh sống động qua cách ví von bất ngờ: "như một con gấu leo lên tảng băng, /Tôi trèo lên giường".

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Cả hai phép ví von và ẩn dụ thường làm cho cái không quen thuộc trở nên quen thuộc, nhưng khi một so sánh bất ngờ ckhiến bạn phải xem lại một trải nghiệm quen thuộc (chẳng hạn như việc đi ngủ được so sánh như gấu Bắc cực trèo lên tảng băng) thì nó tạo hiệu ứng ngược chiều: làm cho cái quen thuộc trở nên xa lạ.

Cuộc chiến thành Troy: Huyền thoại hay lịch sử?

Mạo từ 'the' ma thuật trong tiếng Anh

Nhân vật cổ bí hiểm làm thay đổi biên niên sử Trung Hoa

"Thơ ca ẩn dụ đang tìm ra mối liên hệ đó, tìm thấy sự tương đồng ẩn giấu đó," Geary nói.

Thông qua việc làm cho cái quen thuộc trở nên xa lạ, phép ẩn dụ giúp chúng ta không còn chai sạn với cuộc sống hàng ngày, và nó đánh thức các giác quan của chúng ta.

Nó khiến ta chú ý tới, đồng thời nó hé lộ sự độc đáo và kỳ diệu của những điều bình thường mà chúng ta đã nhẵn mặt.

Hãy xem một ví dụ tương đồng về bức tranh vẽ quả táo của Cézanne. Chúng ta nhìn vào quả táo trong bức tranh với mức độ tập trung chăm chú hơn nhiều so với khi nhìn vào một quả táo bình thường, nhưng sau khi nghiền ngẫm bức tranh, chúng ta lại thấy một quả táo bình thường dưới cái nhìn mới lạ. Phép ẩn dụ hiệu quả cũng có công dụng mở mắt như vậy.

Nhưng phép ẩn dụ thành công cũng phụ thuộc vào việc người dùng muốn đạt được cái gì.

Tiến sĩ Kathryn Allan từ Đại học University College London giải thích rằng trong các diễn văn chính trị, phép ẩn dụ được chọn "có chủ đích và một cách có ý thức để cố làm cho mọi người nhận thức tình huống theo một cách nào đó".

Ví dụ, một phép ẩn dụ về chiến tranh ngay lập tức giả định là có một phe 'thiện' và một phe 'ác'.

Trong bài phát biểu quan trọng về virus corona hồi tháng 5/2020, Thủ tướng Anh Boris Johnson đã nói về việc "soi rọi ánh sáng khoa học vào sát thủ vô hình này", và đề cập rằng việc "đi xuống núi" thường nguy hiểm hơn. Những ẩn dụ này chắc chắn không phải là lựa chọn ngẫu nhiên.

Và điều gì làm cho việc ẩn dụ hoặc ví von trở nên dở? Có lẽ nó nghe chán ngắt hoặc không gây hứng khởi.

Chúng ta có thể nói một câu sáo mòn - kiểu như 'hai hạt đậu trong một quả đậu' - đó là một cách nói nghèo trí tưởng tượng. Nó có vẻ đã nhàm chán và không còn độc đáo nữa do đã được sử dụng quá nhiều.

"Lời nói sáo mòn thực sự là phép ẩn dụ tuyệt vời, nhưng nó lại là nạn nhân của chính sự thành công của nó," Geary nhận xét.

Trong cuốn 'Những phép ẩn dụ trong đời sống chúng ta', George Lakoff và Mark Turner cho rằng những cách cơ bản mà chúng ta nói về bản thân đều là mang tính ẩn dụ, ngay cả khi chúng ta cho rằng mình đang nói theo nghĩa đen.

Chẳng hạn, chúng ta thường nói như thể quá khứ ở phía sau còn tương lai thì ở phía trước chúng ta. Nhưng có những nơi trên thế giới lại xem quá khứ như ở phía trước, bởi vì nó là cái đã được biết. Điều này liệu có ảnh hưởng đến những gì chúng ta cho là có thể hoặc thậm chí ảnh hưởng toàn bộ khung tư duy của chúng ta không?

Loại ẩn dụ này - mà theo đó thời gian là một hành trình, chẳng hạn như 'chúng ta sẽ băng qua cây cầu đó khi chúng ta tới chỗ đó' - còn được gọi là 'ẩn dụ nguyên thủy' vì nó là phần không thể thiếu trong ngôn ngữ, cách tư duy của chúng ta và cách chúng ta nhìn nhận và trải nghiệm thế giới.

Những cái này thường là không thể cảm nhận được.

"Ngôn ngữ thường dùng có rất nhiều ẩn dụ mà chúng ta không nhận ra," Geary nói. Nhiều câu thành ngữ phổ biến trong cốt lõi chính là dùng phép ẩn dụ, ví dụ như 'tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa'.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Một số ẩn dụ được gọi là 'ẩn dụ chết' bởi vì chúng ta thậm chí không coi chúng là ẩn dụ - ví dụ, cách dùng phổ biến từ 'nhìn thấy' để nói ý là 'hiểu', như trong câu 'Tôi nhìn thấu được ý bạn'.

Allan nói rằng ngay khi chúng ta có bằng chứng, dường như các động từ như nhau đã được dùng để nói về cảm nhận bằng ánh mắt và cảm nhận bằng trí não.

Nhưng vì chúng ta biết rằng ẩn dụ thường dựa trên cái cụ thể để diễn đạt cái trừu tượng, chúng ta mặc định rằng nó bắt nguồn từ nghĩa của việc nhìn bằng ánh mắt.

Allan lưu ý rằng nghiên cứu gần đây về ngữ nghĩa học nhận thức cho thấy những ẩn dụ 'chết' như thế này thực ra có lẽ là những kiểu ẩn dụ 'có sức sống' nhất, bởi vì chúng gắn chặt trong cách nghĩ.

Cái được gọi là 'ẩn dụ căn bản' là những cách ẩn dụ gắn chặt với ngôn ngữ bởi cách thức hoạt động thể chất của chúng ta trong đời sống. Chẳng hạn như ta dùng từ 'lên' để nói về những thứ mang ý nghĩa tích cực, và từ 'xuống' để hàm ý những điều tiêu cực. Nguyên do có vẻ như bởi chúng ta luôn khát khao được ở thế vươn lên, Allan giải thích. Chúng ta hầu như không có bất kỳ lựa chọn nào khác, không thể nghĩ được gì khác ngoài những cách thể hiện như vậy.

'Gần như phổ quát'

Thật khó để chứng minh rằng có những hình thức ẩn dụ phổ quát tồn tại trong mọi loại ngôn ngữ.

Nhưng nghiên cứu đã chỉ ra rằng có 'những ẩn dụ gần như phổ quát' xuất hiện trong nhiều ngôn ngữ, gồm cả những thứ tiếng thuộc các ngữ hệ khác nhau.

Cách ẩn dụ dùng việc 'nhìn thấy' để diễn đạt ý tứ 'đã hiểu' tồn tại trong các ngôn ngữ rất khác biệt nhau, đến nỗi không có khả năng ngôn ngữ này đã vay mượn hình thức biểu đạt này từ ngôn ngữ khác.

Ngoài ra, còn có ẩn dụ diễn đạt sự gần gũi theo nghĩa nồng nhiệt, ví dụ, 'tình bạn ấm áp'. Ôm ấp hoặc gần gũi tạo ra sự ấm áp; vốn là trải nghiệm chung của con người, bạn sẽ thấy nó xuất hiện trong nhiều ngôn ngữ.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Nhà triết học Thế kỷ 17 Thomas Hobbes, xuất thân là theo truyền thống Tin lành Thanh giáo, thì phản đối việc dùng phép ẩn dụ.

Một số người nhận thấy có sự xung đột giữa lý trí và trí tưởng tượng.

Đối với Hobbes, phép ẩn dụ cũng giống như nói dối và lừa gạt, giống như 'lang thang giữa vô số điều phi lý' như cách nói của ông.

Văn học cổ điển đầy những phép ẩn dụ, ví dụ như cách nói 'biển sẫm màu rượu' của thi hào Homer trong sử thi 'Iliad và Odyssey', thường để mô tả biển động hay sóng gió.

Và một số ẩn dụ cũng có ý niệm giống nhau cho dù là ở trong ngôn ngữ nào.

Ví dụ, trong tiếng Hà Lan, bạn có thể nói ai đó có 'da voi', trong khi tiếng Anh nói là 'da dày'. Và trong tiếng Pháp có câu 'khi gà mái mọc răng', tương đương với thành ngữ tiếng Anh 'khi heo biết bay'.

"Các phép ẩn dụ thường bắt nguồn từ những trải nghiệm trong cuộc sống hàng ngày," Pies nói, và nền văn hóa của một quốc gia là cơ sở cho phép ẩn dụ của quốc gia đó.

Ví dụ, có rất nhiều phép ẩn dụ về đồ ăn trong tiếng Pháp - từ 'nói chuyện salad' (nói khoa trương) cho đến 'Tôi có quả đào!' (Tôi rất hào hứng).

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Mặc dù tất nhiên chúng ta nên lưu ý đến việc rập khuôn, Allan cho biết nghiên cứu đã chỉ ra rằng rất có khả năng những người nói ẩn dụ sẽ dựa trên điều gì đó quan trọng về văn hóa.

Theo Pies thì không thể nào có thứ ngôn ngữ mà không dùng đến phép ẩn dụ. "Xuyên suốt, xuyên suốt ngôn ngữ là ẩn dụ," bà cho biết. Nếu không có nó, ngôn ngữ sẽ trở nên buồn tẻ, nhàm chán và đơn điệu. "Chúng ta sẽ bị buồn ngủ!"

Ngôn ngữ cũng sẽ trở nên 'khá cô đơn', vì khoảnh khắc hiểu và được hiểu mà ẩn dụ làm thành khoảnh khắc hòa hợp, không phải theo nghĩa đen, nhưng như một cảm giác, một cách hiển hiện, cả về trí tưởng tượng và cảm xúc, là trải nghiệm đang sống.

"Đó là một lối mở vào một tâm hồn khác, một cánh cửa sổ mà ai đó mở ra và mời chúng ta bước vào không gian chia sẻ của sự thấu hiểu và cái đẹp trong khoảnh khắc."

Có ý nghĩa to lớn hơn chứ không chỉ là một hình thức trang trí ngôn ngữ, phép ẩn dụ có sức mạnh định hình cách chúng ta nhìn và trải nghiệm thế giới.

Không tệ cho những gì chúng ta học ở trường.

Bài tiếng Anh đã được đăng trên BBC Culture.