Thiên tiên thánh mẫu là ai

Trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Tứ Phủ của người Việt, Mẫu Thượng Thiên hay còn gọi là Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên là thánh Mẫu đứng đầu được thờ cùng với Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn và Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ là ba vị trong hàng đầu tiên –  Tam Tòa Thánh Mẫu được chính thờ trong các ngôi đền, điện, phủ trong hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.

Sự tích nguồn gốc và tên gọi Mẫu Thượng Thiên

Mẫu Thượng Thiên còn có các danh hiệu khác như Thiên Thanh Công Chúa, Thanh Vân Công Chúa, Cửu Trùng Thánh Mẫu [Mẫu Cửu], Lục Cung Vương Mẫu, Mão Dậu Công Chúa….,.Nhiều ý kiến cho rằng Cửu Trùng Thánh Mẫu được đồng nhất với Cửu Thiên Huyền Nữ [bên Trung Hoa]. Cửu Thiên Huyền Nữ bên Trung Hoa được xây dựng với một hình tượng nữ thần Linh thiêng với các sự tích kì bí. Còn trong tâm linh người Việt, đơn giản Mẫu Cửu Trùng Thanh Vân là vị Thánh Mẫu ngự nơi chín tầng mây, là vị nữ thần quyền hành cai quản tiên cung, cai quản lục cung sáu viện [Lục Cung Vương Mẫu]. Ngoài ra Mẫu Cửu Trùng Thanh Vân còn có danh hiệu khác là Bán Thiên Công Chúa [Mẫu Bán Thiên]. Một số các đền phủ hay những điện thờ tại gia đều có ban thờ Mẫu Bán Thiên ngoài trời.

Khác với Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải, Mẫu Thượng Thiên không giáng trần, và có rất ít thần tích kể về thân thế, xuất xứ và việc cứu nhân độ thế của bà. Về xuất xứ, có ý kiến cho rằng đồng nhất Mẫu Thượng Thiên có nguồn gốc là Cửu Huyền Thiên công chúa, một vị thần Trung Quốc, tuy nhiên tác giả cho rằng điều này là không phù hợp. Về công đức của Thánh Mẫu, có thuyết nói, Mẫu từng giúp người dân Việt Cổ từ thời lập nước đánh đuổi giặc Xuy Vưu sang xâm lược nên được nhớ ơn.

Thánh Mẫu Liễu Hạnh là hóa thân của Mẫu Thượng Thiên ?

Mãi cho đến Thế kỷ XV, XVI  khi Thánh Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện thì giân dan cho là hóa thân của Mẫu Thượng Thiên. Từ đó về sau, các công đức và những truyền thuyết về Mẫu Thượng Thiên đều được biết tới dưới danh nghĩa là Thánh Mẫu Liễu Hạnh.

Ban chính tòa thờ Tam Tòa Thánh Mẫu trong cung cấm Phủ Tiên Hương – Phủ Dầy

Theo các tài liệu nghiên cứu về quá trình tam sinh tam hóa của Thánh Mẫu Liễu Hạnh vào các thế kỷ XV, XVI, XVII thì Thánh Mẫu Liễu Hạnh vừa có thực với cuộc sống trần gian, có cha mẹ, chồng con, là biểu tượng về tấm gương đức hạnh Trung -Trinh – Hiếu – Từ cùng công, dung, ngôn, hạnh. Đồng thời, Mẫu Liễu Hạnh lại là Tiên, là Thánh, là Phật, là Đại vương luôn thương yêu, che chở giúp đỡ, cứu khổ, cứu nạn cho muôn dân, trừng trị những kẻ độc ác. Vì vậy, Thánh Mẫu Liễu Hạnh được nhân dân tôn thờ làm thần chủ của Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Tứ phủ, là hàng Thánh  “Tứ bất tử”, và là bậc “Mẫu nghi thiên hạ”, được ghi chép trong “Thiên Bản lục kỳ chi đệ nhất”.

Thủa xưa, dân gian cho rằng vũ trụ được chia làm ba miền ứng với Tam phủ gồm Thiên [trời], Địa [đất], Thủy [nước] hoặc Tứ phủ thì có thêm Nhạc [núi rừng]. Thánh Mẫu Liễu Hạnh thường được đồng nhất hóa là Mẫu Thượng Thiên và Mẫu Địa [còn gọi là Mẫu Bán Thiên]. Công chúa La Bình, con gái đức Tản Viên Sơn Thánh được tôn vinh là Mẫu Thượng Ngàn và công chúa Tam Giang, con gái vua Động Đình Long Vương là Mẫu Thoải. Từ đó hình thành nên Tam tòa Thánh Mẫu. Trong nghi thức hầu đồng,khi cung thỉnh Mẫu có đoạn:

“Đệ Nhất Thiên Tiên cung thỉnh mời Đệ Nhất Thiên Tiên
Thanh Vân Công Chúa Thượng thiên Mẫu ngự về”

Trong bản văn Công Đồng lại có đoạn:

“Cửu Trùng Thánh Mẫu thiên đình
Bán Thiên Công Chúa quế quỳnh đôi bên
Hội bàn tiên khăn điều áo thắm
Chốn Quảng Hàn cung cấm vào ra”

Hay trong văn Cửu Trùng Thánh Mẫu có đoạn

“Lưng ong tóc phượng rà rà
Áo xông hương xạ hài hoa chân giày
Cửu trùng ngự chín tầng mây
Quản cai các bộ tiên nay thượng đình“

Mẫu Thượng Thiên có ngự đồng không ?

Điểm đặc biệt thường thấy trong hàng Tam tòa Thánh Mẫu, cả ba Mẫu: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải đều không tung khăn ngự đồng, các thanh đồng khi khai đàn mở tiệc hầu Mẫu chỉ thỉnh tráng bóng và tuyên kinh, thông thường dùng khăn đỏ, một số nơi sử dụng khăn vàng, nhưng tác giả cho rằng khăn đỏ là chuẩn nhất.

Đền thờ Mẫu Thượng Thiên

Cho đến nay, để nói về đền thờ Mẫu Thượng Thiên cũng không nhiều nơi chính thờ, điều này cũng một phần do về sau này khi đã có Thánh Mẫu Liễu Hạnh là thần chủ của Đạo Mẫu nên đền thờ Mẫu Thượng Thiên ít được xây dựng hơn, người ta thường thờ và thỉnh ngài trong hàng Tam tòa Thánh Mẫu tại các đền phủ. Tại các đền, điện, phủ thờ Tam Tứ phủ cũng có nơi thờ Mẫu Thượng Thiên ở chính cung, hoặc là trong cung cấm, có nơi lại thờ ngài ở ban trung thiên [giữa trời] để thập phương bái vọng.  Đền Mẫu Cửu ở Ninh Sở, Thường Tín, Hà Nội là một trong số ít ngôi đền chính thờ Mẫu Thượng Thiên – Mẫu Cửu Trùng Thiên, ngôi đền này được xây từ rất lâu và không ai rõ được xây dựng vào năm nào. Ngoài ra còn một số nơi khác thờ Mẫu Thượng Thiên như đền cô Chín Sòng Sơn Thanh Hóa, đền Thượng Ba Vì  Hà Nội.

Tiệc Mẫu Thượng Thiên

Hàng năm, ngày hội chính của Mẫu Thượng Thiên là 3/3 âm lịch – cũng là ngày hóa của Thánh Mẫu Liễu Hạnh tại quần thể Phủ Dầy Nam Định, thời gian này cũng là dịp tổ chức Lễ hội Phủ Dầy thu hút đông đảo nhân dân mọi miền trẩy hội.

Ngoài ra, ở một số ngôi đền khác lại tổ chức khánh tiệc lễ Mẫu Thượng Thiên – Mẫu Cửu Trùng Thiên vào ngày 9/9 âm lịch. Trong những ngày này, người dân thường sắm sửa lễ tới các đền phủ để thành tâm nhang khói cầu xin Mẫu ban cho sức khỏe, tài lộc và bình an.

Kinh Mẫu Thượng Thiên

Gần đây trên một số trang thông tin có đăng tải nội dung một bài kinh được cho là của Mẫu Thượng Thiên, tác giả xin giới thiệu để bạn đọc tham khảo tại đây >>> Kinh Mẫu Thượng Thiên

Xem thêm: >>> Văn khấn Mẫu Thượng Thiên

Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.

Thánh Mẫu Liễu Hạnh [chữ Hán: 聖母柳杏] hay Liễu Hạnh công chúa [chữ Hán: 柳杏公主] là một trong những vị Thánh quan trọng của tín ngưỡng Việt Nam. Bà còn được gọi bằng các tên: Bà Chúa Liễu, Liễu Hạnh [柳杏], Mẫu Liễu Hạnh [母柳杏] hoặc ở nhiều nơi thuộc vùng Bắc Bộ bà được gọi ngắn gọn là Mẫu Liễu.

Thánh Mẫu Liễu HạnhMẫu đệ Nhất Thiên Tiên Quỳnh Hoa Liễu Hạnh Dậu Cung công chúa

Phủ Chính Tiên Hương trong Quần thể di tích Phủ Dầy thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh

Một trong Tứ bất tửThông tin chungTên thật
Phạm Tiên Nga - Lê Giáng Tiên

Tập tin:Tứ Phủ Liễu hạnh.jpg

Liễu Hạnh Công Chúa

Theo truyền thuyết trong dân gian Việt Nam, Mẫu Liễu Hạnh là một trong bốn vị thánh Tứ bất tử. Bà vốn là con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng đế, 3 lần giáng trần. Bà đã được các triều đại phong kiến từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn cấp nhiều Sắc, tôn phong là "Mẫu nghi thiên hạ - Mẹ của muôn dân", "Chế Thắng Bảo Hòa Diệu Đại Vương” và cuối cùng quy y cửa Phật theo lối bán tu rồi thành đạo là Mã Vàng Bồ Tát.

Bà chính là vị Thánh Mẫu đứng đầu hệ thống Tam phủ, Tứ phủ thờ đạo Mẫu. Nhiều làng xã và các đô thị ở phía bắc Việt Nam đều có đền thờ bà.

Căn cứ vào Quảng Cung Linh Từ Phả Ký, Quảng Cung Linh Từ Bi Ký và Cát Thiên Tam Thế Thực Lục hiện đang lưu giữ ở địa phương do Ban quản lý Di tích – danh thắng của tỉnh Nam Định sưu tầm và một số tài liệu trong Hội đồng khoa học lịch sử Nam Định thẩm định thân thế và sự tích bà Liễu Hạnh như sau:

Lần giáng trần đầu tiên

Vào đầu thời nhà Hậu Lê, tại thôn Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam, có ông Phạm Huyền Viên, người xã La Ngạn kết duyên cùng bà Đoàn Thị Hằng, người ấp Nhuế Duệ, cũng xã Vỉ Nhuế [nay là thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định].

Hai ông bà là những người hiền lành, tu nhân tích đức nhưng hiềm một nỗi đã ngoài 40 mà chưa có con. Một đêm rằm tháng hai, ông bà được thần báo mộng là Ngọc Hoàng sẽ cho con gái thứ hai là Công chúa Hồng Liên đầu thai làm con, từ đó bà có thai. Trước khi sinh, vào đêm ngày 6 tháng 3 năm Quý Sửu 1433, trời quang mây vàng như có ánh hào quang. Ông Huyền Viên ngồi đợi tin mừng, bỗng như có một nàng tiên từ trong đám mây bước xuống thềm nhà, và bà sinh một bé gái. Vì vậy ông đặt tên con là Phạm Tiên Nga.

Phạm Tiên Nga càng lớn càng xinh đẹp, mọi việc nữ công gia chánh đều thành thạo, đảm đang. Đến năm 15 tuổi đã có nhiều người đến dạm hỏi nhưng nàng đều khước từ vì nàng còn phải ở nhà chăm sóc cha mẹ già yếu, canh cửi quán xuyến công việc gia đình.

Ngày 10 tháng 10 năm Nhâm Ngọ [1462], cha của nàng qua đời. Hai năm sau mẹ của nàng cũng về nơi tiên cảnh. Phạm Tiên Nga đã làm lễ an táng cha mẹ ở phía đông nam phủ Nghĩa Hưng [nay là thôn La Ngạn, ở đây có đền thờ cha và mẹ của Phạm Tiên Nga].

Sau ba năm để tang cha mẹ, lo mồ yên mả đẹp, Phạm Tiên Nga bắt đầu chu du khắp nơi làm việc thiện [lúc này Tiên Nga vừa tròn 35 tuổi].

Bà đã ủng hộ tiền của và công sức giúp dân đắp đê ngăn nước Đại Hà từ bên kia phía núi Tiên Sơn [nay là núi Gôi] đến Tịch Nhi [nay chính là đường đê Ba Sát, nối Quốc lộ 10 chạy dọc xã đến ngã ba Vọng. Đây cũng chính là con đường nối di tích Phủ Dầy với Phủ Quảng Cung].

Cùng với việc đắp đê, bà còn cho làm 15 cây cầu đá, khơi ngòi dẫn nước tưới tiêu, khai khẩn đất ven sông, giúp tiền bạc cho người nghèo, chữa bệnh cho người ốm, sửa đền chùa, cấp lương bổng cho các vị hương sư, khuyên họ cố sức dạy dỗ con em nhà nghèo được học hành.

Năm 36 tuổi, bà đến bờ Sông Đồi dựng một ngôi chùa trên mảnh vườn nhỏ, đặt tên là Chùa Kim Thoa. Bên trên thờ đức Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát, bên dưới thờ cha và mẹ.

Sau đó hai năm, bà tới tu sửa chùa Sơn Trường - Ý Yên, Nam Định, chùa Long Sơn - Duy Tiên, Hà Nam, chùa Thiện Thành ở Đồn Xá, Bình Lục, Hà Nam. Tại chùa Đồn Xá, bà còn chiêu dân phiêu tán, lập ra làng xã, dạy dân trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải.

Tháng Giêng năm Nhâm Thìn [1472], bà trở lại chùa Kim Thoa, và tháng 9 năm ấy bà trở về quê cũ cùng các anh chị con ông bác tu sửa đền thờ Tổ họ Phạm khang trang bề thế [nay còn đền thờ ở phía nam xóm Đình thôn La Ngạn]. Sau đó bà lại đi chu du ở trong hạt, khuyên răn bà con dân làng những điều phải trái.

Rồi trong đêm ngày 2 tháng 3 năm Quý Tỵ, thời Hồng Đức [1473], trời nổi cơn giông, gió cuốn, mây bay, bà đã hóa thần về trời. Năm đó bà vừa tròn 40 tuổi.

Ngay sau khi bà mất, nhân dân xã La Ngạn, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng đã lập đền thờ trên nền nhà cũ, gọi là Phủ Đại La Tiên Từ. Đồng thời quê mẹ của bà là xã Vỉ Nhuế cũng lập đền thờ để tưởng nhớ công lao của bà, gọi là Phủ Quảng Cung.

Lần giáng sinh thứ hai

Vì thương nhớ cha mẹ và quê hương ở cõi trần mà đến thời Lê Thiên Hựu, năm Đinh Tỵ [1557], bà lại giáng sinh lần thứ hai làm con ông Lê Thái Công và bà Trần Thị Phúc tại thôn An Hải, xã Vân Cát, huyện Thiên Bản, hạt Sơn Nam Hạ [nay là xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định, cách quê cũ Vỉ Nhuế chừng 7 km]. Do ông Lê Thái Công nhìn mặt con, thấy nét mặt giống nàng tiên nữ bưng khay rượu trong bữa tiệc chúc thọ Ngọc Hoàng mà ông mơ trước đó nên đặt tên cho con là Lê Giáng Tiên.

Lần này, bà kết duyên với ông Trần Đào Lang sinh được một người con trai, tên là Nhân, một con gái tên là Hòa. Giữa lúc cả gia đình đang đầm ấm vui vẻ thì bỗng nhiên, vào đúng ngày, bà mất ngày 3 tháng 3 năm Đinh Sửu, thời Lê Gia Thái thứ 5 [1577]. Năm ấy, Bà mới 21 tuổi, tuyệt nhiên không bệnh tật gì. Lăng mộ và đền thờ ở Phủ Dầy, thôn Thiên Hương - Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định.

Lần giáng sinh thứ ba

Giáng Tiên về trời đúng hạn định theo lệnh của Ngọc Hoàng. Nhưng khi nàng đã ở trên trời thì lòng trần lại canh cánh, ngày đêm da diết trong lòng nỗi nhớ cha mẹ, chồng con nên nàng muốn xuống trần gian lần nữa. Khi về đến nhà vừa đúng lúc gia đình đang làm giỗ mãn tang cho nàng, mọi người đều hết sức ngạc nhiên và vô cùng sung sướng. Nàng ôm lấy mẹ mà khóc, rồi kể hết sự tình, dặn anh hãy gắng lo chăm sóc cha mẹ, vì lần này xuống trần nàng không thể ăn ở như lần trước, rồi trở về nhà chồng.Thánh Mẫu Liễu Hạnh gặp chồng, con cái mừng mừng tủi tủi. Nàng cũng kể rõ mọi chuyện cho chồng biết, khuyên chồng hãy cố gắng luyện chí, yên tâm theo đuổi sự nghiệp công danh, đừng quên chăm sóc con thơ, phụng dưỡng cha mẹ. Nàng quét dọn, sửa sang nhà cửa, may vá quần áo cho chồng cho con, rồi bỗng chốc lại thoắt biến lên mây… Cứ như thế, thỉnh thoảng nàng lại hiện về, làm xong các việc rồi lại biến đi. Ròng rã hàng chục năm sau, cho đến khi con cái khôn lớn và Đào Lang công thành danh toại, nàng mới từ biệt để đi chu du thiên hạ.[1]

Hành thiện giúp đời

Trận giao chiến trên Đèo Ngang[2]

Thời vua Lê Thái Tổ [1385-1433] trị vì. Lần ấy, Tiên Chúa đang hóa phép thành cô gái, mở quán bán cho khách bộ hành ở chân đèo Ngang [Hà Tĩnh]. Lời đồn đại về một cô gái nhan sắc tuyệt vời bỗng đâu xuất hiện ở nơi đèo heo hút gió, làm cho mọi người hết sức ngạc nhiên. Rồi chỗ nào cũng thấy thì thào bàn tán. Chẳng mấy chốc, lời đồn đại cũng tới tận kinh đô đến tai hoàng tử sắp kế nghiệp đến tìm Tiên Chúa nhưng bị bà làm thành một kẻ ngẩn ngơ, điên điên dại dại. Cả hoàng triều bối rối, lo sợ. Tìm thầy tìm thuốc có đến cả tháng mà bệnh tình hoàng tử vẫn không thuyên giảm. Nhà vua nhờ sự giúp đỡ của tám vị Kim Cương đã lừa bắt được Tiên Chúa. Họ đưa Tiên Chúa về kinh để hỏi tội. Sau khi nghe Tiên Chúa kể lại hành vi của Hoàng tử, Nhà vua đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt, nói lời cảm tạ rồi chúc Tiên Chúa lên đường may mắn.

Cuộc gặp gỡ với Phùng Khắc Khoan và nguồn gốc di tích Phủ Tây Hồ

Tương truyền, ông đã gặp thần nữ là Liễu Hạnh công chúa cả thảy hai lần, và đều có xướng họa thơ: một lần gặp ở chùa Thiên Minh [Lạng Sơn] khi ông đi sứ về, một lần ở Hồ Tây [nay thuộc Hà Nội] khi ông cùng với hai bạn họ Ngô và họ Lý đi chơi thuyền. Lần ở Hồ Tây, người tiên kẻ tục bèn làm thơ xướng họa liên ngâm, sau được nữ sĩ Đoàn Thị Điểm chép trong truyện "Vân Cát thần nữ" ở tập Truyền kỳ tân phả của bà. Theo nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân, thì bài thơ ấy được đặt tên là Tây Hồ quan ngư [Xem cá Hồ Tây]. Bản tiếng Việt do Phan Kế Bính dịch có tên là Cảnh Hồ Tây.[3]

Theo "Nam Hải Dị Nhân" của Phan Kế Bính thì Tiên Chúa vân du đến miền xứ Lạng. Lúc Phùng Khắc Khoan đi sứ từ Trung quốc về đến Lạng Sơn ông thấy một cô gái xinh đẹp ngồi dưới ba cây thông trước sân chùa, vừa đàn vừa hát.

Ông bèn lên tiếng ghẹo: 三木森庭,坐著好兮女子 - Tam mộc sâm đình, tọa trước hảo hề nữ tử.  [Cụm từ "tam mộc sâm" 三木森 chỉ ba 三 chữ mộc木 [cây; gỗ] hợp lại thành chữ sâm 森 [cây cối rậm rạp; đông đúc] và cụm từ "hảo... nữ tử " 好… 女子 chỉ chữ nữ 女 [đàn bà, con gái] hợp với chữ tử 子 [con] thành chữ hảo 好 [tốt, đẹp, hay].

Người con gái nghe vậy, đối ngay: 重山出路走來使者吏人 - Trùng sơn xuất lộ, tẩu lai sứ giả lại nhân. [Cụm từ "trùng sơn xuất " 重山出 chỉ hai 重 chữ sơn 山 [núi] chồng lên nhau thành chữ xuất 出 [= ra; đi ra] và cụm từ "sứ... lại nhân"使…吏人 chỉ chữ lại 吏 [làm việc quan] hợp với chữ nhân 人 [người] thành chữ sứ 使 [người được vua hay chính phủ phái đi làm việc gì].

Phùng Khắc Khoan hết sức kinh ngạc bèn nói tiếp: 山人凴一几,莫非仙女臨凡 - Sơn nhân bàng nhất kỷ, mạc phi tiên nữ lâm phàm. [Cô sơn nữ ngồi ở ghế, phải chăng là tiên nữ giáng trần? Nhưng lắt léo ở chỗ: chữ sơn 山 và chữ nhân 亻ghép lại thành chữ tiên  仙. Chữ bàng có bộ kỷ 几. Chữ nhất và chữ kỷ ghép lại thành chữ phàm 凡.

Cô gái đáp ngay: 文子帶長巾必是學生視帳 - Văn tử đới trường cân, tất thị học sinh thị trướng. [Ông nhà văn chít khăn dài, chính thị học sinh nhòm trướng. Câu đáp không những lịch sự, dí dỏm mà chơi chữ cũng hết sức tinh vi: chữ văn 文 và chữ tử 子 ghép lại thành chữ học 斈 [= 學]. Dưới chữ đới 帯 có bộ cân 巾. Chữ trường 長 và chữ cân ghép lại thành chữ trướng 帳].

Phùng Khắc Khoan vô cùng khâm phục cô gái. Ông cúi đầu làm lễ, lúc ngẩng đầu thì cô gái đã biến mất. Chỉ thấy trên thân cây gỗ viết bốn chữ: 卯口公主- Mão khẩu công chúa] và kế bên tấm biển cũng có bốn chữ:  冫馬已走 - Băng mã dĩ tẩu. Nghĩa là: Cây gỗ là bộ mộc. Mộc 木 thêm chữ mão 卯 là chữ liễu 柳. Mộc 木 thêm chữ khẩu 口 là chữ hạnh  杏, người con gái vừa rồi chính là Liễu Hạnh công chúa. Còn bộ băng 冫 đi với chữ mã 馬, chính là họ Phùng 馮 của ta. Chữ dĩ 已 nằm cạnh chữ tẩu 走, chính là chữ khởi 起. Có lẽ Liễu Hạnh công chúa dặn Phùng Khắc Khoan phải khởi công sửa lại ngôi chùa này. Sau đó, Phùng Khắc Khoan cho người tu sửa lại ngôi chùa khang trang.

Hiện nay những câu đối, những dấu tích về 2 lần gặp gỡ tại Lạng Sơn và Phủ Tây Hồ còn lưu lại ở Phủ Mẫu Thượng [Long Nga Linh Từ] [nơi Phùng Khắc Khoan gặp Liễu Hạnh lần đầu] và Phủ Tây Hồ [lần gặp thứ hai]

Cuộc tái hợp với Đào Lang - Người chồng kiếp trước

Vì tình nghĩa thuỷ chung với chồng con ở trần thế nên đến thời Lê Khánh Đức thứ 2 [1650], bà vân du đến làng Tây Mỗ, xã Hà Thái, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, vào ngày 10 tháng 10 năm Canh Dần, tái hợp với ông Trần Đào Lang lúc này đã tái sinh là Mai Thanh Lâm, sinh được một con trai tên là Cổn. Bà mất ngày 23 tháng 12 năm Mậu Thân, thời Lê Cảnh Trị thứ 6 [1668]. Năm ấy bà vừa 18 tuổi. Đền thờ bà ở Phủ Sòng Sơn, Thanh Hoá.

Quy y Phật tổ[4]

Sau khi hóa về trời, do vẫn còn tâm nguyện giúp đời nên Tiên Chúa khẩn thiết xin Ngọc Hoàng Thượng đế cho trở lại cõi trần gian. Ngọc Hoàng Thượng đế lắng nghe và hiểu rõ tất cả. Ngài cho gọi hai thị nữ tin cậy là Quỳnh Hoa và Quế Hoa bảo cùng đi với Tiên Chúa.

Lần này Tiên Chúa xuống Phố Cát, huyện Thạch Thành, Thanh Hoá. Ở đây, cũng như những lần trước Tiên Chúa thường hiển linh giúp đỡ người lành, trừng trị kẻ ác. Nhân dân cùng nhau góp của góp công, dựng một ngôi đền để lấy chỗ phụng thờ Tiên Chúa.

Những sự việc ấy lọt đến tai vua Lê chúa Trịnh. Hai vị vua chúa cho rằng trước kia tiên vương thả "yêu nữ" ra là một sai lầm, bây giờ đã đến lúc cần phải thẳng tay trừng trị. Bởi vì không thể có luật lệ nào khác ngoài luật lệ của vua chúa và ai muốn làm gì cũng không được tự quyền. Thế là hai vị cho triệu hồi các thuật sĩ tài giỏi trong nước đến kinh đô trong đó có Tiền Quân Thánh [vốn là tướng nhà trời, do mắc lỗi, đã bị đày xuống trần làm con trai thứ ba của một vị thượng sư, sư tổ của phái Nội đạo tràng], giao cho dẫn một đội quân hùng mạnh, đến thẳng miền Phố Cát để đánh dẹp.

Biết là không thể chống cự lại được, Tiên Chúa bảo Quỳnh Hoa, Quế Hoa tìm cách trốn đi, còn tự mình cũng hóa phép thành đứa trẻ, rồi lại hóa phép thành con rồng có vẩy vàng vẩy bạc múa lượn trên không.

Tiền Quân Thánh lúc ấy ngồi trên voi chín ngà niệm thần chú tung lưới sắt ra chụp lấy. Tiên Chúa bị bắt rồi hiện nguyên hình trở lại.

Giữa lúc ấy Phật tổ xuất hiện giải cứu cho Tiên Chúa. Khi vừa thấy Phật tổ, Tiền Quân Thánh liền sững lại, thay vì vậy đã sai quân lính mang đến cho Tiên Chúa một bộ quần áo cà sa và một chiếc mũ ni cô. Tiên Chúa nhận áo mũ rồi thoắt biến lên mây cùng với Phật tổ.

  • Mã hoàng công chúa, thượng đẳng tối linh tôn thần.
  • Thượng thượng thượng đẳng tối linh, vị bách thần chi thủ
  • Chế Thắng Bảo Hòa Diệu Đại Vương

 

Lễ hội Phủ Dầy

Lễ hội Thánh Mẫu Liễu Hạnh hàng năm được tổ chức vào ngày 3 tháng 3 Âm lịch - ngày giỗ của bà. Địa điểm là:

Quần thể di tích Phủ Dầy tại huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định

Chùa Phúc Lâm Tự, phủ Kim Thoa ở xóm 1 [tục gọi là làng Đồi], xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.

Phủ Quảng Cung [Phủ Nấp] ở thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định

Phủ Tây Hồ ở Hà Nội

Phủ Đồi Ngang, đền Dâu, đền Quán Cháo ở phòng tuyến Tam Điệp [Ninh Bình]

[Đền Sòng] ở phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn, Thanh Hoá. Ngoài ra con có đền thờ bà tại nơi bà chuyển sinh lần thứ ba ở Phố Cát, huyện Thạch Thành, Thanh Hoá

Đền Sòng Sơn ở số 35 phố Tôn Đức Thắng, phường Quốc Tử Giám, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

Lễ hội thường kéo dài vài tuần lễ. Riêng lễ hội Phủ Dầy, còn gắn liền với Hội chợ Viềng, họp vào ngày 7 tháng giêng.

Đền thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh [tục gọi là Đình Nghè], ở xã Yên Luật, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ.

  • Tứ phủ, Tam phủ
  • Đạo Mẫu
  • Hội Phủ Dầy

  1. ^ “Lần giáng sinh thứ ba: quy y Phật Tổ”.
  2. ^ “Trận giao chiến trên Đèo Ngang”.
  3. ^ “Phùng Khắc Khoan”.
  4. ^ “Được Phật Tổ giải cứu và Tiên Chúa Liễu Hạnh quy y Phật Tổ”.

  • Dror, Olga [2007]. Cult, culture, and authority: Princess Lieu Hanh in Vietnamese history. Honolulu, Hawaii: University of Hawai’i Press. ISBN 978-0-8248-2972-8.
  • NGUYỄN QUỐC TUẤN [tháng 5 năm 2007]. “Mother Goddess Lieu Hanh under the view of Religious Studies”. Religious Studies Review. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2010.
  • Simon, Pierre J.; Simon-Barouh, Ida. “The Genii of Four Palaces”. Vietnamese Studies.
  • Taylor, Philip [tháng 12 năm 2003]. “The goddess, the ethnologist, the folklorist, and the cadre: Situating exegesis of Vietnam's folk religion in time and place”. The Australian Journal of Anthropology. 14 [3]: 383–401. doi:10.1111/j.1835-9310.2003.tb00242.x.
  • Ngoc, Huu [2007]. Wandering Through Vietnamese Culture. The Gioi. ISBN 978-90-78239-01-7.
  • Taylor, Philip [2004]. Goddess on the Rise. Honolulu, Hawaii: University of Hawai'i Press. ISBN 0-8248-2801-1.
  • Fjelstad, Karen; Thi Hien, Nguyen [2006]. Possessed by the Spirits: Mediumship in Contemporary Vietnamese Communities. Ithaca, New York: Cornell Southeast Asia Program Publications. ISBN 978-0-87727-171-0.
Wikisource tiếng Việt có toàn văn tác phẩm về:

Liễu Hạnh Công Chúa

Wikisource tiếng Việt có toàn văn tác phẩm về:

Chúa Liễu mắc lỡm

  • Di tích - Danh thắng Quảng Bình

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Liễu_Hạnh_Công_chúa&oldid=68197040”

Video liên quan

Chủ Đề