Thực hành Sư phạm là gì
Quản lý công tác thực hành sư phạm nhằm nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên tại trường Cao đẳng sư phạm nhà trẻ - mẫu giáo Trung ương 1.PDFBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 143 trang ) Show
10 1.2. Thực hành trong trường Cao đẳng sư phạm mầm non 14 1.2.1. Thực hành sư phạm 14 1.2.2. Thực hành sư phạm trong chương trình đào tạo giáo viên mầm non trình độ Cao đẳng 14 1.3. Quản lý công tác thực hành sư phạm với việc nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên Cao đẳng mầm non 18 1.3.1. Chất lượng và chất lượng đào tạo 18 1.3.2. Quản lý công tác thực hành sư phạm với việc nâng cao chất lượng đào tạo. 22 1.4. Các biện pháp quản lý 33 1.4.1. Biện pháp và biện pháp quản lý 33 1.4.2. Biện pháp quản lý thực hành sư phạm 33 1.4.3. Biện pháp quản lý công tác THSP nhằm nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên CĐMN đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục 34 Chương 2: Thực trạng quản lý công tác thực hành sư phạm đối với sinh viên trường CĐSP NT MG TW1 35 2.1. Tổ chức nghiên cứu thực trạng 35 2.1.1. Nội dung nghiên cứu thực trạng 35 2.1.2. Phương pháp nghiên cứu thực trạng 35 2.2. Kt qu nghiờn cu thc trng 38 2.2.1. Thc trng cỏc c s thc hnh s phm ca sinh viờn CMN Trng CSP NT MG TW1 38 2.2.2. Thc trng ni dung, qui trỡnh, hỡnh thc t chc thc hnh s phm 42 2.2.3. Thc trng qun lý cụng tỏc thc hnh s phm i vi sinh viờn Trng CSP NT MG TW1 47 2.2.4. ỏnh giỏ chung v qun lý cụng tỏc thc hnh s phm 59 2.2.5. Nguyờn nhõn ca thc trng qun lý cụng tỏc thc hnh s phm i vi sinh viờn CMN Trng CSP NT MG TW1 61 Chng 3: Bin phỏp qun lý cụng tỏc thc hnh s phm nhm nõng cao cht lng o to sinh viờn ti trng CSP NT MG TW1 64 3.1. Căn cứ và nguyên tắc xây dựng hệ thống các biện pháp 65 3.1.1. Căn cứ của việc xây dựng hệ thống các biện pháp 65 3.1.2. Nguyên tắc của việc xây dựng và vận dụng các biện pháp quản lý công tác thực hành s- phạm 65 3.2. Những biện pháp quản lý công tác thực hành s- phạm 66 3.2.1. Nâng cao nhận thức cho các đối t-ợng tham gia công tác thực hành s- phạm 66 3.2.2. Xây dựng mạng l-ới tr-ờng mầm non Thực hành 71 3.2.3. Hoàn thiện văn bản qui định về quản lý thực hành s- phạm 74 3.2.4. Hoàn thiện nội dung, qui trình, hình thức tổ chức thực hành s- phạm theo h-ớng đổi mới quản lý GD và đào tạo GVMN 81 3.2.5. Tăng c-ờng kiểm tra việc quản lý, h-ớng dẫn sinh viên THSP tại các cơ sở thực hành 88 3.2.6. Đổi mới nội dung đánh giá kết quả thực hành s- phạm của sinh viên 89 3.3. Thử nghiệm các biện pháp quản lý công tác THSP 93 Kết luận và khuyến nghị 99 Danh mục các tài liệu tham khảo 103 Phụ lục 107 DANH MỤC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN STT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ 1 BGH : Ban giám hiệu 2 CBQL : Cán bộ quản lý 3 CĐCQ : Cao đẳng chính qui 4 CĐMN : Cao đẳng mầm non 5 CĐSP : Cao dẳng sư phạm 6 CĐSP NT MG TW1 : Cao đẳng sư phạm Nhà trẻMẫu giáo TW1 7 CS-GD : Chăm sóc giáo dục 8 ĐVHT : Đơn vị học trình 9 GD : Giáo dục 10 GD&ĐT : Giáo dục và Đào tạo 11 GDMN : Giáo dục mầm non 12 GVMN : Giáo viên mầm non 13 GVSP : Giảng viên sư phạm 14 MN : Mầm non 15 MNTH : Mầm non thực hành 16 QL : Quản lý 17 QLGD : Quản lý giáo dục 18 SP : Sư phạm 19 SPMN : Sư phạm mầm non 20 TH : Thực hành 21 THSP : Thực hành sư phạm 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nghị quyết Trung ương 2 Khoá VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Giáo dục vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, được coi là khâu đột phá để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm tạo ra nguồn lực con người cho sự phát triển nhanh và bền vững. Kết luận của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khoá IX, tiếp tục thực hiện nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII về giáo dục đã nhấn mạnh: Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, trước hết nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo. Trong chiến lược phát triển giáo dục mầm non 2000 2010, việc tìm ra các biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên tạo động lực cho sự phát triển giáo dục mầm non được đặt ở vị trí rất quan trọng, bởi lẽ giáo viên là yếu tố quyết định thành công mục tiêu về nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục mầm non đồng bộ với đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay. Với sự phát triển kinh tế và dân trí của xã hội, yêu cầu của phụ huynh đối với việc chăm sóc con em ngày càng cao, càng đòi hỏi sự vững vàng, hoàn thiện của giáo viên mầm non. Nhu cầu của các trường mầm non cũng như lực lượng cán bộ nói chung, đòi hỏi lực lượng giáo viên hiện nay phải có một tay nghề chắc chắn, đáp ứng nhu cầu của công tác chăm sóc giáo dục trẻ em theo hướng đổi mới. Từ đó mục tiêu đặt ra đối với việc đào tạo giáo viên mầm non trình độ Cao đẳng trong giai đoạn hiện nay của các trường sư phạm phải đư- ợc quan tâm đến kết quả đầu ra sao cho phù hợp với nhu cầu sử dụng sau đào tạo. 2 Trong những năm qua, công tác đào tạo giáo viên mầm non ở Trường CĐSP NT MG TW1 đã có những thành tích đáng kể, Nhà trường đã đào tạo được một đội ngũ đông đảo với hàng nghìn giáo viên, họ đã đóng góp phần công sức to lớn vào sự nghiệp giáo dục mầm non ở nước ta. Hiện nay, trước những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đã và đang đặt ra những nhiệm vụ mới cho trường là phải đào tạo một đội ngũ giáo viên có chất lượng cao, giỏi về chuyên môn, vững vàng về nghiệp vụ sư phạm, năng động và sáng tạo. Để làm tốt sứ mạng của mình, Nhà trường đang tìm các biện pháp để nâng cao chất lượng đào tạo. Một trong những biện pháp đó là giải quyết tốt mối quan hệ giữa nâng cao trình độ lý thuyết và kỹ năng thực hành sư phạm cho sinh viên. Thực hành được xem là cầu nối giữa lý luận với thực tiễn. Như Bác Hồ đã nói: Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế, lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông. Xuất phát từ tính chất quan trọng của công tác thực hành sư phạm, việc quản lý công tác này sao cho hiệu quả là vấn đề đặt ra cho những người làm công tác quản lý đào tạo. Những năm gần đây đã có một số đề tài khoa học nghiên cứu vấn đề thực hành sư phạm của sinh viên Cao đẳng Mầm non như: Xây dựng qui trình thực hành nghiệp vụ sư phạm cho học sinh Trường Cao đẳng sư phạm Nhà trẻ Mẫu giáo Trung ương - Nguyễn Thanh Huyền 1994; Hoàn thiện bộ máy quản lý hoạt động thực hành nghề của học sinh Cao đẳng sư phạm Nhà trẻ Mẫu giáo - Nguyễn Thị Tỉnh, 1995. Nét chung của các đề tài trên là mới đề cập một số vấn đề có tính chất bộ phận của công tác quản lý cũng như việc rèn luyện tay nghề cho sinh viên, chưa có công trình nghiên cứu có hệ thống về quản lý công tác thực hành sư phạm. Xuất phát từ lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề: Quản lý công tác thực hành sƣ phạm nhằm nâng cao chất lƣợng đào tạo sinh viên tại Trƣờng 3 Cao đẳng sƣ phạm Nhà trẻ Mẫu giáo Trung ƣơng 1 làm đề tài nghiên cứu của luận văn. 2. Mục đích nghiên cứu Đề xuất những biện pháp khả thi về quản lý công tác thực hành sư phạm nhằm nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên tại Trường CĐSP NT MG TW1. 3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu Công tác thực hành sư phạm của sinh viên Cao đằng mầm non Trường CĐSP NT MG TW1. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Quản lý công tác thực hành sư phạm nhằm nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên Cao đẳng mầm non tại Trường CĐSP NT MG TW1. 4. Giả thuyết khoa học Nếu xây dựng và triển khai đồng bộ những biện pháp phù hợp về nhận thức, về xây dựng mạng lưới và qui trình quản lý công tác thực hành sư phạm của sinh viên tại các trường mầm non Thực hành thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên Trường CĐSP NT MG TW1. 5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1.1. Xây dựng cơ sở lý luận về quản lý công tác thực hành sư phạm nhằm nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên mầm non. 5.1.2. Phân tích thực trạng quản lý công tác thực hành sư phạm đối với sinh viên Cao đẳng mầm non Trường CĐSP NT MG TW1. 4 5.1.3. Đề xuất những biện pháp quản lý công tác thực hành sư phạm nhằm nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên Cao đẳng mầm non tại Trường CĐSP NT MG TW1. 5.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 5.2.1. Giới hạn nội dung nghiên cứu của đề tài: Công tác thực hành sư phạm của sinh viên Cao đẳng Mầm non Trường CĐSP NT MG TW1 bao gồm nhiều nội dung khác nhau. Trong phạm vi luận văn thạc sĩ, chúng tôi chỉ nghiên cứu một số biện pháp quản lý THSP thường xuyên của sinh viên CĐMN tại các cơ sở thực hành nhằm nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên mầm non trình độ cao đẳng. 5.2.2. Địa bàn nghiên cứu: Nghiên cứu về quản lý công tác THSP của sinh viên Cao đẳng Mầm non tại các trường mầm non Thực hành ở Thành phố Hà Nội. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu chúng tôi đã sử dụng phối hợp các phương pháp sau: 6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ thống hoá, khái quát hoá các thông tin khoa học, trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, chỉ thị nghị quyết và các tài liệu khoa học làm cơ sở lý luận cho đề tài. 6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu thực tiễn cụ thể sau đây: 6.2.1. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục: 5 Tổng kết kinh nghiệm quản lý công tác THSP đối với sinh viên Trư- ờng CĐSP NT MG TW1. 6.2.2. Phương pháp quan sát: Quan sát các hoạt động của các thành viên tham gia công tác THSP để tìm hiểu thực trạng quản lý công tác thực hành sư phạm các cấp: Trường sư phạm, Khoa GDMN và các trường mầm non Thực hành, nơi trực tiếp hướng dẫn sinh viên THSP. 6.2.3. Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến các cán bộ quản lý ngành học, ý kiến các cán bộ có liên quan tới việc tổ chức công tác thực hành sư phạm của sinh viên. 6.2.4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động sư phạm: Nghiên cứu mục tiêu, nội dung, kế hoạch, đánh giá kết quả từng đợt thực hành của sinh viên. Nghiên cứu sản phẩm hoạt động sư phạm của GVMN và sinh viên. Nghiên cứu chương trình đào tạo GVMN trình độ cao đẳng để có nhận định tương tác với kết quả thực hành của sinh viên. 6.2.5. Phương pháp điều tra: Xây dựng phiếu điều tra dành cho cán bộ quản lý các cấp: Cấp Trường, cấp Khoa, Ban giám hiệu các trường mầm non; GVSP; GVMN và sinh viên để tìm hiểu thực trạng quản lý công tác THSP. 6.3. Phương pháp thống kê toán học: Dùng phương pháp thống kê toán học để phân tích số liệu nghiên cứu. 7. Cấu trúc của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương: 6 Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về quản lý công tác thực hành sư phạm. Chƣơng 2: Thực trạng quản lý công tác thực hành sư phạm đối với sinh viên Trường CĐSP NT MG TW1 Chƣơng 3: Biện pháp quản lý công tác thực hành sư phạm nhằm nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên tại Trưòng CĐSP NT MG TW1. Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC THỰC HÀNH SƢ PHẠM 1.1. Khái niệm về quản lý và quản lý giáo dục 1.1.1. Khái niệm chung về quản lý 1.1.1.1. Khái niệm Quản lý là một hoạt động được hình thành từ khi xã hội loài người xuất hiện, con người có sự hợp tác với nhau hoặc cùng nhau hoạt động với những mục đích chung nào đó. Ở đâu con người tạo lập nên nhóm xã hội là ở đó cần đến quản lý, dù nhóm nhỏ, nhóm lớn, nhóm chính thức, nhóm không chính thức và bất kể nội dung hoạt động nhóm đó là gì. Từ xa xưa, con người đã biết sử dụng hoạt động quản lý vào việc tổ chức các hoạt động của mình. Thời Trung Hoa cổ đại, 4 chức năng cơ bản của quản lý đã được xác định. Đó là kế hoạch hoá, tổ chức, tác động và kiểm tra. Tuy tư tưởng và quan điểm về quản lý đã có cách đây 2500 năm, nhưng cho đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cuộc vận động quản lý theo khoa học mới xuất hiện. Người khởi xướng cuộc vận động này là Frederich Winslow Taylor. Năm 1911, Winslow Taylor đã cho xuất bản cuốn sách Các nguyên tắc quản lý theo khoa học. 7 Ngày nay quản lý là một hoạt động đặc trưng bao trùm lên mọi mặt đời sống xã hội. Quản lý được coi là một công việc vô cùng quan trọng, nhưng rất khó khăn và phức tạp. Vì quản lý liên quan đến nhân cách của nhiều cá nhân trong tập thể xã hội, liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ trách nhiệm và cuộc sống nói chung của mỗi người, nghĩa là quản lý phải đáp ứng được yêu cầu luôn thay đổi và phát triển của xã hội. Thực tế khái niệm quản lý được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khoa học, sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội. Thường ngày, chúng ta nói những người chịu trách nhiệm tổ chức, điều hành, điều khiển, chỉ huy một nhóm sản xuất, một trường học, một cơ quan, xí nghiệp là những người làm công tác quản lý. Do đối tượng quản lý rất đa dạng, phong phú, phức tạp tuỳ thuộc từng lĩnh vực hoạt động cụ thể và mỗi giai đoạn phát triển xã hội khác nhau cũng có những quan niệm khác nhau, nên định nghĩa về quản lý cũng có nhiều cách khác nhau: Winslow Taylor, người đầu tiên nghiên cứu quá trình lao động trong bộ phận của nó, đã nêu ra hệ thống tổ chức lao động nhằm khai thác tối đa thời gian lao động, sử dụng hợp lý nhất công cụ và phương tiện lao động nhằm tăng năng xuất lao động, đã quan niệm: QL là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó như thế nào bằng phương pháp tốt nhất, rẻ nhất. Nhà lý luận quản lý kinh tế người Pháp Fayon cho rằng: Quản lý là quá trình đưa xí nghiệp tới đích, cố gắng sử dụng tốt nhất nguồn lực (nhân lực, vật lực) của nó. Theo Mary Parker Follett: Quản lý là một quá trình động, liên tục, kế tiếp nhau chứ không tĩnh tại. 8 Theo Nguyễn Ngọc Quang: Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nói chung là khách thể quản lý nhằm thực hiện các mục tiêu dự kiến [33] Theo Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: Hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức.[15, tr. 1] Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về quản lý như sau: Quản lý là sự tác động có định hướng, có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý một cách hợp qui luật nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của môi trường. Đặc trưng của quản lý: Đặc trưng thứ nhất: Quản lý là hoạt động có mục đích, có định hướng, có kế hoạch. Đặc trưng thứ hai: Quản lý là sự lựa chọn khả năng tối ưu. Ở đâu không có lựa chọn thì ở chỗ đó không cần thiết đến quản lý. Đặc trưng thứ ba: Quản lý sắp xếp và thể hiện hợp lý các tác động đã lựa chọn. Đặc trưng thứ tư: Quản lý làm giảm tính bất định và làm tăng tính tổ chức tình trạng ổn định của hệ thống. 1.1.1.2. Chức năng của quản lý: Quản lý có 4 chức năng cơ bản sau: 1. Chức năng kế hoạch hoá Đây là chức năng hoạch định, là chức năng quan trọng nhất của người quản lý. Kế hoạch hoá là xác định rõ mục đích, mục tiêu trong tương lai của tổ chức và những biện pháp, cách thức để đạt được mục đích, mục tiêu đó. Nội dung chủ yếu của chức năng kế hoạch hoá là ổn định và xác lập các mục tiêu; xác định rõ và đảm bảo các nguồn lực để đạt được mục tiêu đã đề 9 ra, quyết định xem những hoạt động nào, những biện pháp như thế nào để đạt được các mục tiêu đó. Sản phẩm của chức năng kế hoạch hoá là kế hoạch, có 3 loại kế hoạch: kế hoạch chiến lược (giải quyết các mục tiêu chiến lược), kế hoạch chiến thuật (giải quyết các mục tiêu chiến thuật), kế hoạch tác nghiệp (giải quyết các mục tiêu tác nghiệp). 2. Chức năng tổ chức Chức năng tổ chức được tiến hành sau khi đã thực hiện xong chức năng kế hoạch hoá nhằm thực hiện kế hoạch đã đề ra. Tổ chức là sự hình thành cấu trúc các quan hệ giữa các bộ phận trong tổ chức. Nếu tổ chức tốt thì người quản lý có thể phối hợp, điều hành tốt các nguồn lực, tạo ra sự vận hành đồng bộ trong bộ máy của tổ chức, tạo ra sức mạnh hợp đồng của các bộ phận để phát triển tổ chức và đạt được mục tiêu đã đề ra. Thành tựu của một tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của người quản lý sử dụng các nguồn lực này sao cho có kết quả và hiệu quả. Nội dung chủ yếu của chức năng tổ chức gồm: Xây dựng cơ cấu tổ chức, xác định nhiệm vụ quyền hạn của từng thành viên, từng bộ phận của tổ chức; quản lý nhân sự (bao gồm đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sắp xếp, phân công, phân nhiệm, đề bạt, sa thải ), tổ chức các hoạt động. 3. Chức năng điều khiển (chỉ đạo). Sau khi kế hoạch đã được lập, cơ cấu bộ máy đã hình thành, nhân sự đã được tuyển dụng sắp xếp thì phải có người lãnh đạo (nhà quản lý) dẫn dắt và điều khiển. Đó là quá trình tập hợp, liên kết các thành viên trong tổ chức, giám sát các hoạt động của các thành viên, các bộ phận trong tổ chức, điều khiển, hướng dẫn, điều chỉnh công việc hợp lý, nhịp nhàng không chồng chéo; xử lý uốn nắn các hành vi vi phạm, động viên khuyến khích người lao động nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức. 4. Chức năng kiểm tra. 10 Kiểm tra là những hoạt động của chủ thể quản lý tác động đến khách thể quản lý nhằm đánh giá kết quả vận hành của tổ chức. Thông qua kiểm tra, người quản lý nắm được những vấn đề tồn tại, hạn chế, những thiếu sót, khuyết điểm, những trì trệ để có biện pháp điều chỉnh, uốn nắn, khắc phục, đồng thời nắm được những ưu điểm để phát huy động viên, khuyến khích, hoàn thiện kế hoạch tổ chức chỉ đạo. Nội dung kiểm tra là kiểm soát tình hình, phát hịên, động viên phê bình, đánh giá, thu thập thông tin. Theo thuyết hệ thống thì kiểm tra là quá trình thiết lập mối quan hệ ngược trong quản lý. Bốn chức năng của quản lý: Kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra có quan hệ biện chứng, chặt chẽ với nhau, phối hợp và bổ sung cho nhau tạo thành một chu trình quản lý, trong chu trình đó, yếu tố thông tin luôn có mặt trong các khâu với vai trò vừa là điều kiện, vừa là phương tiện không thể thiếu được khi thực hiện các chức năng quản lý và ra quyết định. Mối quan hệ này được thể hiện qua sơ đồ: 1.1.2. Quản lý giáo dục. 1.1.2.1. Khái niệm KiÓm tra KẾ HOẠCH TỔ CHỨC CHỈ ĐẠO THÔNG TIN 11 Quản lý giáo dục là một bộ phận của quản lý xã hội. Khái niệm quản lý giáo dục được hiểu khá rộng trong nhiều phạm vi từ vĩ mô đến vi mô. Theo Nguyễn Ngọc Quang: Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp qui luật của Chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ thống vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện các tính chất của nhà trường Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học giáo dục thế hệ trẻ, đa hệ thống giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất. [33, tr.35 ] Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là hoạt động điều hành phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh mẽ công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội. [14, tr.31] Theo Phạm Minh Hạc: Quản lý giáo dục là quản lý trường học, thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh. [25, tr.34] Ngày nay theo quan điểm: học thường xuyên, học suốt đời, do đó giáo dục không chỉ giới hạn cho thế hệ trẻ mà giáo dục cho mọi người, cho nên quản lý giáo dục được hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân nhằm thực hiện mục tiêu: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Thực chất quản lý giáo dục là quá trình tổ chức, điều chỉnh sự vận hành của các yếu tố sau: - Đường lối, chiến lược và chính sách Giáo dục của đất nước. - Tập hợp những con người bao gồm: các nhà sư phạm (cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên), trẻ em, gia đình, đoàn thể và xã hội - Điều kiện cơ sở vật chất (đồ dùng trang thiết bị dạy, học, đồ chơi, đồ dùng sinh hoạt, bàn ghế, trường, lớp vv ). Theo các nhà quản lý giáo dục, có thể hiểu khái niệm về quản lý giáo dục: 12 Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp qui luật của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm thực hiện các chức năng quản lý trong công tác giáo dục, bao gồm: kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra và đánh giá các quá trình giáo dục để đạt mục tiêu đã đề ra. 1.1.2.2. Đặc điểm của quản lý giáo dục Tuy hệ thống giáo dục là bộ phận của hệ thống xã hội nhưng quản lý giáo dục khác biệt với quản lý các tổ chức khác, biểu hiện một số đặc điểm sau: 1. Trước hết, các mục đích của giáo dục cũng như của nhiều tổ chức dịch vụ khác cụ thể, tƣờng minh, lƣợng hoá. Thật khó mà có được những định chuẩn rành mạch dứt khoát đối với hoạt động giáo dục khi so sánh với các hoạt động sản xuất kinh doanh khác, chẳng hạn như phải đạt lợi nhuận cao nhất, phải có số lượng sản phẩm nhiều nhất, phải đảm bảo sự đa dạng tối đa của sản phẩm hàng hoá Các cơ sở giáo dục có sứ mệnh cao cả là phát triển năng lực của mỗi cá nhân, hình thành cho con người có những giá trị và niềm tin, chăm sóc thanh thiếu niên theo các giai đoạn kế tiếp nhau trong những chuỗi dài ngày nọ sang ngày kia, chuẩn bị cho học sinh, sinh viên bước vào giai đoạn học tiếp theo, hay bước vào cuộc sống với công việc phải hoàn thành. 2. Trong giáo dục rất khó đo lƣờng, đánh giá việc đạt đƣợc các mục đích, trong các tổ chức sản xuất kinh doanh, rất dễ đo lường mức độ đạt được mục tiêu thông qua những chỉ tiêu tài chính, doanh số bán hàng, lợi nhuận thu được, lãi xuất cổ tức tăng lên Trong trường học sự đánh giá việc đạt được mục tiêu phải là đánh giá dài hạn khi tính đến một chu trình giáo dục dài hơi, ít nhất là 5 năm đối với bậc tiểu học, 9 năm đối với trung học cơ sở, 12 năm đối với trung học phổ thông, 3-5 năm đối với bậc cao đẳng đại học Trong một số khía cạnh, hầu như khó có thể đánh giá mức độ đạt được mục đích. 13 Chúng ta cũng có thể đánh giá việc đạt được mục tiêu qua các kỳ thi hay trắc nghiệm. Nhưng với mục tiêu không tường minh, những tiêu chí không rõ ràng, những chức năng đôi lúc mâu thuẫn nhau, nhà trường sẽ gặp phải những rắc rối lớn trong quản lý. Thiếu những mục tiêu tường minh và phù hợp thì không thể có những căn cứ để quyết định phân bổ nguồn lực. Không có những phép đo rõ ràng về thành tựu thì không thể có cách thức rõ ràng đánh giá sự tiến bộ của mỗi thành viên hay của một cơ sở giáo dục. 3. Sự hiện diện của trẻ em, thanh thiếu niên nhƣ là tâm điểm của các cơ sở giáo dục - đào tạo. Học sinh và sinh viên được coi là khách hàng hay đầu ra của các trường phổ thông hay đại học. Với tư cách là khách hàng, trẻ em và thanh thiếu niên khác xa với những nguyên liệu thô trong các ngành sản xuất kinh doanh. Quá trình học tập được xây dựng trên mối quan hệ nhân cách với tất cả những đặc điểm phong cách cá nhân trong suy nghĩ, ứng xử và không tiên đoán trước được. 4. Người quản lý và người giáo viên (ở trường phổ thông) và giảng viên (ở trường đại học đều có chung một căn bản chuyên nghiệp với những giá trị được chia sẻ, được đào tạo và có những kinh nghiệm không khác nhau bao xa Với tư cách là những nhà chuyên môn, người giáo viên đòi hỏi có một mức độ tự chủ (nếu không nói là tự trị), trong lớp học. Bản chất của mối quan hệ lớp học hoặc nhóm học sinh, sinh viên là không tuân thủ tuyệt đối những qui chế đóng hoặc sự thanh sát cứng nhắc. Hơn nữa, giáo viên - nhà chuyên môn phải tham gia vào quá trình ra quyết định của trường học (phổ thông hay đại học) bởi lẽ sự cam kết của họ trong việc thực hiện các quyết định đó là rất quan trọng. 5. Mối quan hệ khách hàng giữa giáo viên và học sinh, giữa giảng viên và sinh viên có nhiều khác biệt so với quan hệ chuyên môn khách hàng trong những lĩnh vực hoạt động khác. Trước hết, giáo viên có sự giao tiếp thường kỳ và rộng mở với học sinh, thường tiếp xúc với nhau nhiều lần mỗi 14 tuần trong suốt nhiều năm học. Thường là học sinh, sinh viên có rất ít cơ hội lựa chọn người giáo viên của mình. Học sinh bị buộc phải trải qua 5 năm, 9 năm hay 12 năm học phổ thông với tư cách là thành viên của các cơ sở giáo dục và phải chấp nhận những giáo viên đã dành sẵn cho các em. Đây là một đặc điểm khiến các cơ sở giáo dục khác biệt khá nhiều so với các loại hình tổ chức khác, thậm chí so với các tổ chức có nhiều nhà chuyên môn hoạt động, chứ không chỉ so với những tổ chức kinh doanh. 6. Cấu trúc của các cơ sở giáo dục thường bị chia cắt, phân đoạn vì những nhân tố bên trong cũng như nhân tố bên ngoài. Có quá nhiều cấp ra quyết định trong nội bộ nhà trường: Từ hiệu trưởng, đến các khoa, bộ môn nhiều quyết định khác nhau được ban hành trong những thời điểm khác nhau trong một năm hay giữa các năm. Sự phân đoạn như vậy làm khó cho việc phân bố trách nhiệm ra quyết định quản lý trong mỗi nhà trường. 7. Nhiều cán bộ quản lý trong trường học có rất ít thời gian dành cho hoạt động quản lý trong toàn bộ công việc của họ. 1.1.2.3. Nội dung quản lý giáo dục Nội dung quản lý giáo dục là quản lý các yếu tố cấu thành của hệ thống giáo dục bao gồm: - Quản lý mục tiêu giáo dục - Quản lý nội dung giáo dục. - Quản lý phương pháp giáo dục. - Quản lý tổ chức giáo dục. - Quản lý người dạy - Quản lý người học - Quản lý trường sở và trang thiết bị dạy, học. - Quản lý môi trường giáo dục, các lực lượng giáo dục. - Quản lý kết quả giáo dục. 1.2. Thực hành trong trƣờng Cao đẳng sƣ phạm mầm non 15 1.2.1. Thực hành sư phạm 1.2.1.1. Thực hành Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học (Hoàng Phê chủ biên, Nxb Đà Nẵng, 2002) Thực hành có nghĩa là làm để áp dụng lý thuyết vào thực tế(14, tr.973) Từ điển Anh Việt của Nguyễn Sanh Phúc và nhóm cộng tác, Nxb Văn hoá thông tin cho rằng thực hành là: sự rèn luyện, thời gian luyện tập (47 tr.1213) Trong phạm vi của đề tài, thực hành có thể hiểu như sau: Thực hành là áp dụng lý thuyết đã có để làm một công việc cụ thể, khi đó công việc sẽ đạt được kết quả tốt và người làm việc sẽ phát triển thành thạo tay nghề. 1.2.1.2. Thực hành sư phạm Theo các Từ điển nêu trên và với ý nghĩa mà chúng tôi vừa phân tích thì: Thực hành sư phạm có nghĩa là áp dụng những lý thuyết sư phạm để tiến hành các hoạt động giáo dục và dạy học trong nhà trường. 1.2.1.3. Thực hành sư phạm mầm non Thực hành sư phạm mầm non cũng như thực hành sư phạm nói chung: là áp dụng những lý thuyết về khoa học giáo dục mầm non để tiến hành các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ trong trường mầm non. 16 1.2.2. Thực hành sư phạm trong chương trình đào tạo giáo viên mầm non trình độ cao đẳng. Để trở thành giáo viên mầm non, trong suốt thời gian đào tạo tại trường CĐSP, sinh viên phải thực hiện nhiều hoạt động khác nhau. Những hoạt động đó có một vị trí, vai trò nhất định trong quá trình đào tạo của nhà trường. Trong đó hoạt động THSP có một vị trí, vai trò rất quan trọng đối với sinh viên, bởi nhiều lý do: Một là, giúp sinh viên nắm vững sự đổi mới về chương trình, hình thức tổ chức hoạt động GDMN; nắm được phương pháp giải quyết các tình huống xảy ra trong hoạt động sư phạm. Hoạt động THSP nhằm nâng cao tay nghề cho sinh viên. Vì nếu có tay nghề vững chắc, thành thạo, sinh viên mới có thể thực hiện được nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ theo hướng đổi mới của GDMN. Vì tay nghề được coi là công cụ, phương tiện để tiến hành hoạt động nghề nghiệp. Có công cụ, phương tiện sắc bén, hiện đại thì việc thực hiện nhiệm vụ của người giáo viên sẽ thuận lợi, dễ dàng hơn. Chính vì vậy, đối với sinh viên, THSP vừa là mục đích, vừa là nội dung, vừa là phương tiện của quá trình học tập, rèn luyện trong thời gian học tập tại trường CĐSP. Học tập nghiêm túc và có chất lượng học phần THSP, sinh viên sẽ phát triển mạnh mẽ về thể chất và tinh thần, nhân cách cô giáo mầm non. Hai là, THSP là một bộ phận nòng cốt trong quá trình rèn luyện tay nghề của sinh viên. Vì vậy sinh viên phải có ý thức tự giác tranh thủ thời gian, tận dụng mọi điều kiện và hoàn cảnh để đem các kiến thức lý luận giáo dục áp dụng vào thực tiễn. Bởi thế, THSP được xem là chiếc cầu nối liền giữa lý luận với thực tiễn. Đây là dịp sinh viên đem những hiểu biết của mình về lý luận áp dụng vào thực tiễn giáo dục nhằm phát triển năng lực sư phạm của bản thân. Đó cũng là mục đích cao cả của quá trình học tập của sinh viên, như Bác Hồ đã nói: Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế, lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn 17 quyển lý luận, nếu không biết mang ra thực hành thì khác nào một cái hòm đựng sách. Xét về mặt lý luận học và hành là hai phạm trù khác nhau, nhưng có quan hệ biện chứng với nhau, cái này hỗ trợ cái kia và ngược lại. Mục đích của học là để hành và hành cũng là một cách học. Học bằng cách hành là một phương thức có nhiều ưu điểm nhất. Điều đáng lưu ý là cần phải hiểu hành một cách đúng đắn, đầy đủ. Hành không chỉ là việc ứng dụng kiến thức, mà còn ứng dụng các kiểu tư duy, là thể nghiệm một trạng thái tâm lý để tự phê bình và nâng cao phẩm chất. Thậm chí hành còn là sự sáng tạo có hiệu quả của cá nhân trong việc giải quyết các tình huống sư phạm, vượt lên không lặp lại những điều đã biết. Ba là, THSP góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển năng lực sư phạm của sinh viên một yếu tố không thể thiếu được tạo ra sự thành công trong sự nghiệp chăm sóc giáo dục trẻ sau này của mỗi sinh viên. Bởi vì, năng lực sư phạm không phải hình thành trong một sớm một chiều, không tự loé sáng mà là kết quả rèn luyện thường xuyên, liên tục, kiên trì và có sự hướng dẫn, có tổ chức một cách thống nhất, khoa học. THSP là môi trường thuận lợi để sinh viên thể hiện năng lực thực tiễn của mình. Năng lực này được hình thành trên cơ sở tổng hợp các kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp sẽ được rèn luyện trong suốt ba năm học tại trường. Bởi vì, THSP là hoạt động được nhà trường quan tâm, tạo điều kiện về thời gian, có sự hướng dẫn của giảng viên sư phạm, của giáo viên mầm non có kinh nghiệm ở trường Thực hành và có sự đóng góp ý kiến của tập thể sinh viên, với những nội dung, yêu cầu cụ thể, sát hợp. Chính vì vậy, nếu biết tận dụng cơ hội này, sinh viên sẽ có bước trưởng thành rõ rệt về tay nghề. Công tác THSP là một trong những công tác quan trọng của trường vì chức năng của trường là đào tạo những thầy cô giáo có phẩm chất tốt, có tay nghề vững chắc vừa hồng vừa chuyên. THSP trong chương trình đào tạo cô giáo MN trình độ Cao đẳng có giá trị bằng mười hai ĐVHT, nội dung học 18 phần rất phong phú bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là tâm lý giáo dục, phương pháp dạy các bộ môn và tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ. Học phần THSP diễn ra suốt ba năm, có mặt của hầu hết các bộ môn đào tạo trong trường và mang tính chất thường xuyên nên nó trở thành một điều kiện quan trọng, thuận lợi để trường có thể tổ chức các cuộc thi trong sinh viên, giao lưu giữa sinh viên với giảng viên Cao đẳng, giáo viên mầm non trường Thực hành với những nội dung và hình thức mang nhiều sắc thái khác nhau nhưng cùng chung một mục đích nhằm nâng cao năng lực sư phạm cho sinh viên trong quá trình đào tạo. Đặc biệt, khẳng định được vai trò của nhà trư- ờng trong việc rèn luyện tay nghề cho sinh viên. Qua việc tổ chức, chỉ đạo, triển khai công tác THSP, Trường CĐSP đã tập hợp được đông đảo đội ngũ cán bộ giảng viên tham gia vào việc đào tạo nghề cho sinh viên. Bằng những hiểu biết và kinh nghiệm nghề nghiệp được tích luỹ trong nhiều năm, tập thể giảng viên đã truyền đạt những bài học bổ ích nhằm hình thành cho sinh viên những kỹ năng, kỹ xảo đáp ứng được yêu cầu đổi mới của giáo dục mầm non đặt ra trong giai đoạn hiện nay. Đúng như Hội nghị Trung ương 6 Khoá đã đánh giá: Đại bộ phận nhà giáo đã vượt qua nhiều khó khăn và có nhiều nỗ lực lớn, góp phần quyết định làm cho chất lượng giáo dục có chuyển biến bước đầu, dần dần hạn chế được một số hiện tượng tiêu cực nổi cộm trong giáo dục. Chính những việc có trách nhiệm của giảng viên trong việc hướng dẫn THSP đã để lại hình ảnh và tình cảm tốt đẹp về nghề nghiệp, điều đó có giá trị lớn không chỉ trong việc rèn luyện tay nghề cho sinh viên mà còn tạo mối quan hệ gần gũi, gắn bó giữa thầy và trò một trong những biểu tượng tốt đẹp nhất của mối quan hệ cộng đồng xã hội. Vì vậy, mối quan hệ này đã đem đến cho người thầy nguồn hạnh phúc vô giá và đem lại cho sinh viên sự cổ vũ, động viên, khích lệ rất thiết thực trên hành trình nghề nghiệp của họ. 19 THSP trong chương trình đào tạo giáo viên MN trình độ Cao đẳng có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận và thực tiễn: THSP là cầu nối giữa lý luận đào tạo nghề với thực tiễn giáo dục MN. Điều 35 của Luật giáo dục nói về mục tiêu giáo dục đại học đã khẳng định: Đào tạo trình độ Cao đẳng giúp sinh viên có kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành cơ bản về một ngành nghề, có khả năng phát hiện giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành được đào tạo. 1.3. Quản lý công tác THSP và việc nâng cao chất lƣợng đào tạo sinh viên Cao đẳng mầm non 1.3.1. Chất lượng và chất lượng đào tạo 1.3.1.1. Chất lượng Đã từ lâu, chất lượng là vấn đề được mọi người quan tâm, nhưng đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi. Đây là khái niệm khó định nghĩa. GS. Nguyễn Đức Chính cho rằng có nhiều cách tiếp cận khác nhau về chất lượng: khái niệm truyền thống về chất lượng, chất lượng là sự phù hợp với các tiêu chuẩn (thông số), chất lượng là sự phù hợp với mục đích[18, tr.27] Khái niệm truyền thống về chất lượng: một sản phẩm có chất lượng được làm ra một cách hoàn thiện, bằng các vật quí hiếm và đắt tiền. Chất lượng là sự phù hợp với các tiêu chuẩn (thông số): chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ được đo bằng sự phù hợp của nó với các thông số hay tiêu chuẩn được qui định trước đó. Chất lượng là sự phù hợp với mục đích: chất lượng đánh giá bởi mức độ mà sản phẩm hay dịch vụ đáp ứng được mục đích đã tuyên bố của nó. Trong giáo dục cao đẳng, đại học, chất lượng là một khái niệm mang tính chất tương đối, động, đa chiều và với những người ở cương vị khác nhau có thể có những ưu tiên khác nhau khi xem xét nó. Cán bộ giảng dạy và sinh viên thì ưu tiên khái niệm chất lượng phải là quá trình đào tạo, là cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho quá trình giảng dạy và học tập. Những người sử 20 dụng lao động ưu tiên về chất lượng của họ là đầu ra, tức là ở trình độ, năng lực kiến thức của sinh viên khi ra trường Qua phân tích trên, trong phạm vi của đề tài có thể xem xét khái niệm chất lượng như sau: Chất lượng là tuân theo chuẩn qui định và đạt được các mục tiêu đề ra. 1.3.1.2. Chất lượng đào tạo Đào tạo là một quá trình trang bị kiến thức, kỹ năng ban đầu cùng với những phẩm chất, thái độ cần thiết để người được đào tạo có thể hành nghề và trở thành người lao động có kiến thức, có kỹ thuật đáp ứng yêu cầu của xã hội. Chất lượng đào tạo: Trong đời sống hàng ngày người ta nói tới chất lượng hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ. Hàng hoá, sản phẩm trong sản xuất kinh doanh là những vật thể hiện thực. Hệ thống chất lượng sản phẩm phải có khả năng tạo ra các sản phẩm có chất lượng nhất quán như nhau, và người ta có thể đánh giá chất lượng chúng một cách tương đối dễ dàng bằng cách cân, đo, đong, đếm được. Trong quá trình đào tạo, sản phẩm của quá trình đào tạo là con người được đào tạo: những công nhân kỹ thuật, những giáo sinh, những sinh viên đại học gọi chung là người học, là con người. Các cá nhân, con người trong xã hội, trong lớp học, cùng chung một môi trường đào tạo, họ vẫn khác nhau nhiều, từ động cơ, thái độ, năng lực, tính cách, bản lĩnh, tiềm năng phát triển Dù bằng cách nào đi chăng nữa thì nhà trường không thể nào tạo ra được những con người giống như nhau. Do vậy, nhiều học giả cho rằng không nên xem giáo dục như một quá trình sản xuất, mà tốt nhất coi giáo dục như một công nghệ cung ứng dịch vụ. Sự khác nhau cơ bản giữa sản xuất ra sản phẩm và cung ứng dịch vụ là rất rõ ràng. Trong sản xuất, sản phẩm phế phẩm là do lỗi của nguyên liệu, thiết kế sai hoặc máy móc hỏng hóc. Còn dịch vụ đào tạo có chất lượng thấp thường do thái độ, hành vi của người cung ứng. Chất lượng của dịch vụ được quyết định bởi mối quan hệ qua lại giữa người 21 cung ứng và người tiếp nhận. Cho nên, chất lượng được xác định dựa trên nhu cầu của khách hàng và phục vụ khách hàng. Khách hàng trong đào tạo là người học, cha mẹ họ, thị trường lao động Do đó: Chất lượng đào tạo là cung cấp nguồn lao động được đào tạo ở trình độ nhất định đáp ứng đối với thị trường lao động. 1.3.1.3. Chất lượng đào tạo sinh viên Cao đẳng sư phạm mầm non Mục tiêu của trường Cao đẳng sư phạm mầm non là đào tạo những GVMN trình độ cao đẳng có phẩm chất, năng lực và sức khoẻ đảm bảo thực hiện được các chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ phù hợp với thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới giáo dục và yêu cầu phát triển của xã hội trong giai đoạn mới. Xuất phát từ mục tiêu đào tạo của trường, nhà trường đã xác định đào tạo những cô giáo mầm non: Là lực lượng chủ yếu quyết định chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trong các cơ sở GDMN. Sự nghiệp đổi mới giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu của đất nước theo kịp xu thế của thời đại phụ thuộc vào đội ngũ giáo viên là lực lượng cốt cán giữ vai trò có tính chất quyết định đối với chất lượng và hiệu quả giáo dục. Do vậy: Chất lượng đào tạo sinh viên Cao đẳng sư phạm mầm non là cung cấp đội ngũ giáo viên mầm non có trình độ cao đẳng đáp ứng được yêu cầu của đổi mới giáo dục mầm non trong từng giai đoạn phát triển của xã hội. Sản phẩm lao động của đội ngũ giáo viên gắn với tương lai, sự phát triển của dân tộc. Mỗi giáo viên chịu trách nhiệm trực tiếp về một công đoạn cụ thể trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của mỗi học sinh, những chủ nhân tương lai của đất nước. Có đội ngũ giáo viên giỏi về chuyên 22 môn, tâm huyết với nghề nghiệp, hết lòng vì thế hệ trẻ là sự đảm bảo cơ bản cho sự thắng lợi của sự nghiệp giáo dục. Trong điều kiện đổi mới giáo dục đào tạo nhằm đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vấn đề chất lượng đào tạo sinh viên đang là mối quan tâm của mỗi trường sư phạm. Vị trí vai trò của người giáo viên sau này phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng đào tạo hiện nay của các tr- ường sư phạm. Điều đó đòi hỏi các trường sư phạm không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên trở thành những cô giáo mầm non vừa có năng lực sư phạm vững vàng vừa có lòng yêu trẻ sâu sắc. Bác Hồ đã từng căn dặn: Không có thầy giáo thì không có giáo dục. Kinh nghiệm nước ta cũng như các nước trên thế giới đều cho thấy một cách rõ ràng rằng tầm quan trọng của đội ngũ giáo viên trong việc đảm bảo hiệu quả và chất lượng giáo dục theo phương hướng đổi mới giáo dục của đất n- ước. Giáo viên là người trực tiếp biến các chủ trương, các chương trình cải cách, mục tiêu giáo dục, đổi mới giáo dục thành hiện thực. Bất kỳ cuộc cải cách giáo dục nào, dù lớn hay nhỏ chỉ có thể biến thành hiện thực nếu nó đ- ược giáo viên chấp nhận, thực hiện một cách tự giác và sáng tạo. Người giáo viên là lực lượng cốt cán của sự nghiệp giáo dục. Và như vậy, chính người giáo viên phải là người có năng lực sáng tạo mới có thể đảm đương được vai trò của mình trong sự nghiệp đổi mới giáo dục. Sự sáng tạo của người thầy phải được chuẩn bị ngay trong quá trình đào tạo, hay nói cách khác từ trong khi còn ngồi trong trường sư phạm. Vậy người giáo viên mầm non có phẩm chất năng lực đáp ứng yêu cầu của đổi mới giáo dục phải là người như thế nào? Để đáp ứng được yêu cầu đổi mới sự nghiệp giáo dục và yêu cầu phát triển của xã hội trong giai đoạn mới những yêu cầu mà một GVMN trình độ Cao đẳng cần phải đáp ứng (cần có): 1. Phẩm chất: Mô hình thực tập sư phạm mới của trường Đại học Giáo dục có gì đặc biệt?13:39 20/06/2021 Tin tức - Sự kiện
(VTC News) -
Đại học Giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội) áp dụng mô hình thực hành mới nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo năng lực nghề nghiệp sinh viên sư phạm vừa hồng, vừa chuyên.Với triết lý đào tạo Người thầy trước hết phải là một chuyên gia và tinh thông về nghề sư phạm, mô hình trường thực hành sư phạm tại trường Đại học Giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội) được xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo năng lực nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm với tư cách là một mắt xích cơ hữu trong quy trình đào tạo giáo viên. Trường Đại học Giáo dục là cơ sở giáo dục đại học đào tạo và nghiên cứu chất lượng cao, trình độ cao trong khoa học giáo dục, ứng dụng cho đào tạo giáo viên nói riêng và các nhóm nhân lực trong lĩnh vực giáo dục nói chung. Để thực hiện được mục tiêu đó, trường đã và đang nỗ lực mở rộng cơ hội tiếp cận, học hỏi và thực hành nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm trong các môi trường giáo dục đa dạng (công lập, trường chất lượng cao, trường liên cấp).
Mô hình thực tập sư phạm và rèn nghề tại trường Đại học Giáo dục và hệ thống trường mầm non phổ thông vệ tinh. Mô hình thực hành sư phạm mới nhấn mạnh sự đan xen kết hợp trong các học phần đại cương, chuyên ngành khoa học cơ bản (lý thuyết) và các học phần nghiệp vụ sư phạm (thực tiễn) trong khoảng thời gian kéo dài 3 năm (kể từ năm học thứ 2 đến năm học thứ 4 của khoá học). Thực tập sư phạm và rèn nghề là một học phần bắt buộc trong chương trình đào tạo cử nhân sư phạm của Đại học Giáo dục. Thông qua học phần này, sinh viên sư phạm sẽ có cơ hội học tập rèn luyện các kỹ năng sư phạm, các kỹ năng chuyên biệt, đặc thù của giáo viên theo từng cấp học; từ đó tổ chức, quản lý các hoạt động dạy học, hoạt động giáo dục, hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp tại các trường thực hành sư phạm; xây dựng tác phong nghề nghiệp vững vàng, đảm bảo chuẩn nghề nghiệp về kỹ năng, thái độ dành cho giáo viên. Thời lượng thực hành của một số học phần thuộc khối nghiệp vụ sư phạm được tổ chức không chỉ ở Đại học Giáo dục mà còn được tổ chức thực hiện ở tại các cơ sở giáo dục. Nhà trường chủ động hợp tác và xây dựng mạng lưới các trường thực hành sư phạm như: các trường mầm non, trường tiểu học, trung học cơ sở, trường trung học phổ thông (trường THPT thực hành, trường THPT công lập Chất lượng cao, trường THPT chuyên, trường phổ thông Quốc tế, trường THPT tư thục chất lượng cao) thuộc Hà Nội.
Tỷ lệ các phần lý thuyết, thực hành tại cơ sở đào tạo sư phạm và thực hành tại trường THPT vệ tinh (TH2) trong các môn học. Học phần Thực tập sư phạm và rèn nghề sẽ được tiến hành song song cùng các hoạt động học tập khác, không tách bạch thành một giai đoạn độc lập. Quá trình rèn luyện được đánh giá một cách sát sao, công bằng, dựa trên chỉ số đánh giá hiệu quả công việc (KPI Key Performance Indicator). Các KPI này được tổ chức thành hai nhóm: - Nhóm KPI được thực hiện định kì theo một số ngày/tuần/tháng: sinh viên được rèn luyện các kỹ năng cá nhân - xã hội, kỹ năng nghiệp vụ sư phạm tại Đại học Giáo dục. Tiếp đó, sinh viên được làm quen, quan sát, thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể tại trường thực hành sư phạm như tìm hiểu về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận, cá nhân ở trường phổ thông; phân tích chương trình phổ thông; soạn giáo án, dự giờ và phân tích giờ dạy của giáo viên hướng dẫn, quay các video clip trình bày các chủ đề liên quan tới giáo dục - Nhóm KPI được thực hiện liên tục trong 12 tuần: sinh viên liên tục hoạt động tại các trường thực hành sư phạm và thực hiện một số hoạt động như tham gia tổ chức các hoạt động giáo dục, soạn giáo án và tổ chức dạy học theo chủ đề nhằm phát triển năng lực học sinh, thực hiện tham vấn học sinh cá nhân hoặc nhóm học sinh về khó khăn trong học tập, giao tiếp
Sinh viên Khoa Sư phạm Đại học Giáo dục tham gia các chuỗi các hoạt động rèn nghề: Viết và sử dụng bảng, Dạy học, Tài năng sư phạm và Thiết kế standee trong chương trình Tự hào sinh viên Sư phạm Sản phẩm của toàn bộ quá trình sẽ được tích lũy qua hệ thống quản lý học tập LMS (Learning Management System) của Trường Đại học Giáo dục dưới sự kiểm tra, đánh giá định kỳ của giảng viên/giáo viên hướng dẫn. Các định dạng của sản phẩm cũng được đa dạng hóa như video clip sinh viên tổ chức, hướng dẫn hoạt động giảng dạy/giáo dục, kế hoạch/giáo án bài dạy nhằm giúp các sinh viên thích nghi được với bối cảnh đổi mới giáo dục. Sinh viên sư phạm của Đại học Giáo dục sẽ được tham gia học phần Thực tập sư phạm và rèn nghề theo hình thức học tập kết hợp (Blended Learning). Các hoạt động thiết kế theo trình tự logic từ kiến tập sang thực hành, từ thực tập qua không gian số (cyber space) sang làm thực. Mục tiêu của mô hình thực hành thực hành sư phạm tại Đại học Giáo dục hướng đến trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng và thái độ để các em có thể trở thành chuyên gia trong lĩnh khoa học cơ bản và tinh thông về nghề sư phạm; là người có tri thức sâu và rộng về khoa học chuyên ngành; biết cách sử dụng tri thức chuyên môn để thúc đẩy hoạt động học tập, hoạt động giáo dục của học sinh; biết nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mình thông qua hoạt động thực tiễn; bên cạnh đó, sinh viên sư phạm còn được luyện tập, trau dồi nhiều kỹ năng phát triển cá nhân, kỹ năng tương tác xã hội.
Minh Khôi
|