Dung dịch axit làm đổi màu quỳ tím thành
Axit có những tính chất hóa học làm đổi màu giấy quì tím, tác dụng với kim loại, với bazơ, oxit bazơ, muối. - axit mạnh: Show
- axit yếu: + H2S: Axit sunfuhidric + H2CO3: axit cacbonic- Axit có 5 tính chất hóa học đặc trưng: + Làm đổi màu quì tím + Tác dụng với kim loại + Tác dụng với bazơ + Tác dụng với oxit bazơ + Tác dụng với muốiII. Tính chất hóa học của axit:1. Axit làm đổi màu giấy quì tím: - Ở điều kiện bình thường, giấy quỳ tím là giấy có màu tím, tuy nhiên màu của nó thay đổi khi cho vào các môi trường (axit, bazơ) khác nhau. Trong môi trường axit giấy quỳ tím chuyển sang màu đỏ, trong môi trường kiềm giấy quỳ tím chuyển sang màu xanh.- Do đó dung dịch axit làm đổi màu giấy quỳ tím thành đỏ - Dựa vào tính chất này, giấy quì tím được dùng để nhận biết dung dịch axit. 2. Axit tác dụng với kim loại: - Nguyên tắc: Axit + kim loại -> muối + $H_2$ - Điều kiện phản ứng:
K ... Na .....Ca ....Mg ....Al ...Zn ... Fe ... Ni... Sn ... Pb ... H ... Cu ... Hg... Ag... Pt.... Au Khi ... nào ..cần...may... áo... Záp ...sắt. ..nên...sang... phố ... hỏi.. cửa ...hàng... á.. phi.... âu - Ví dụ: 2Na + 2HCl = 2NaCl + H2 Mg + $H_2SO_4$(loãng) = $MgSO_4$ + $H_2$ Fe + 2HCl = $FeCl_2$ + $H_2$- Chú ý: Sắt khi tác dụng với HCl, $H_2SO_4$ loãng tạo muối sắt (II) chứ không tạo muối sắt (III). 3. Tác dụng với bazơ: - Nguyên tắc: Axit + Bazơ -> muối + Nước - Điều kiện: Tất cả các axit đều tác dụng với bazơ. Phản ứng xảy ra mãnh liệt và được gọi là phản ứng trung hòa - Ví dụ: NaOH + HCl = NaCl + $H_2O$$Mg(OH)_2$ + 2HCl = $MgCl_2$+ 2$H_2O$.
- Nguyên tắc: Axit + oxit bazơ -> muối + Nước - Điều liện: Tất cả các axit đều tác dụng với oxit bazơ. - Ví dụ: $Na_2O$ + 2HCl = 2NaCl + $H_2O$ FeO + $H_2SO_4$(loãng) = $FeSO_4$ + $H_2O$CuO + 2HCl = $CuCl_2$ + $H_2O$.
- Điều kiện:
Về cơ bản, giấy quỳ (hay giấy quỳ tím) là một loại chất chỉ thị độ pH (pH indicator). Đối với học sinh phổ thông, chắc ít nhiều đều biết đến pH, nhưng ở đây tôi vẫn nhắc lại ở đây để tất cả mọi người cùng nắm rõ.
Thang đo pH (pH Scale) với pH = 7: trung tính, pH > 7: tính kiềm, pH < 7: tính acid Những chất dùng để xác định độ pH của dung dịch được gọi là chất chỉ thị pH (pH indicator). Chất chỉ thị pH giúp xác định tính chất acid/base của dung dịch thông qua sự thay đổi màu sắc, hoặc nếu chính xác hơn sẽ hiển thị giá trị độ pH tại thời điểm đo của dung dịch (máy đo pH – pH meter). Tùy thuộc vào nhu cầu sử dụng mà người ta sẽ dùng từng loại chất chỉ thị pH cụ thể. Vài chất chỉ thị pH dựa vào sự thay đổi màu sắc (xác định pH một cách tương đối) như: giấy quỳ tím, methyl da cam (methyl orange), thymol xanh (thymol blue), phenolphtalein… Những chất chỉ thị này thay đổi màu sắc theo những khoảng pH đặc trưng cho từng loại. Giấy quỳ tím là loại giấy được tẩm hoặc “nhuộm” dung dịch chứa hoạt chất quỳ dùng để nhận biết tính chất acid/base của dung dịch. Hoạt chất quỳ (litmus) vốn là một hỗn hợp tan trong nước, bao gồm các thuốc nhuộm tự nhiên (dye), được tinh chế từ các loài địa y (lichen) mà chủ yếu là 2 loại sau: Roccella tinctoria và Lecanora tartarea. Các loại hoạt chất pigment màu trong địa y này vốn rất nhạy với sự thay đổi của môi trường xung quanh, mà đặc biệt là tính acid, nên dễ thay đổi màu sắc theo sự biến đổi của môi trường. Giấy quỳ bình thường có màu vàng nhạt hoặc màu tím (do vậy mới có tên là “giấy quỳ tím”), đổi thành màu hồng hoặc đỏ trong môi trường có tính acid, và hóa màu xanh trong môi trường có tính kiềm. Nguồn gốc ra đời của giấy quỳTên gọi “quỳ” (litmus) được cho là bắt nguồn từ một tiếng tiếng Bắc Âu cổ có nghĩa là màu sắc hay nhuộm màu. Điều này phù hợp với các cứ liệu lịch sử cho thấy từ hàng trăm năm về trước, người ta bắt đầu sử dụng quỳ tinh chế từ các loài địa y để nhuộm vải vóc, quần áo… Theo nhiều nguồn tham khảo, người ta cho rằng quỳ được tẩm vào giấy để làm chất chỉ thị pH đầu tiên là nhà hóa học người Pháp lừng danh Gay-Lussac vào khoảng thế kỷ 19. Nhưng điều này chưa có chứng cứ rõ ràng và chính xác.
Joseph Louis Gay-Lussac (1778-1850) Cơ chế đổi màu theo pH của quỳ Những loài địa y (lichen) có chứa loại phẩm nhuộm sinh học (mà chủ yếu là erythrolitmin và azolitmin) có những nhóm chức cấu trúc được gọi là thể màu (chromophore). Những thể màu này chứa nhiều hợp chất vòng với các liên kết đôi C-C và C-O. Sự kết hợp của những liên kết đôi và hợp chất vòng không no giúp tạo nên mạng liên kết, thuận lợi cho sự chuyển vị của các eletron. Khi ion hydro trong dung dịch có tính acid tiếp xúc với quỳ, chúng sẽ tấn công và phá vỡ các liên kết bội giữa C-C và C-O, biến chúng thành những liên kết đơn. Cứ mỗi liên kết đôi bị bẻ gãy, mạng liên kết các electron cũng giảm kích thước theo. Điều này làm giảm đi những quãng bước sóng mà phân tử quỳ có thể hấp thu, từ đó, làm thay đổi màu sắc của quỳ. Ưu và nhược điểm của giấy quỳ so với các chất chỉ thị pH khác Ưu điểm của giấy quỳ chính là sự tiện dụng của nó. Chỉ cần một mẩu giấy quỳ nhỏ, người ta có thể biết dung dịch mình đang sử dụng có tính acid hay base một cách nhanh chóng (chỉ mất vài phần trăm giây), và độ mạnh yếu của tính acid/base (một cách tương đối) dựa vào sự thay đổi đậm nhạt của màu sắc. Ngoài ra, giấy quỳ ẩm (giấy quỳ cho thấm ướt bởi nước cất) còn có thể được ứng dụng để kiểm tra tính acid/base của các loại khí (như H2S, SO3…). Một ưu điểm rõ ràng khác của giấy quỳ nữa là giá thành rẻ của nó so với các chỉ thị pH khác. Giấy quỳ sản xuất như thế nào?Thật ra, giấy quỳ được làm ra hết sức đơn giản. Cũng có các công đoạn như công nghệ sản xuất các loại giấy khác, để sản xuất giấy quỳ cũng cần nguồn nguyên liệu là gỗ, rồi trải qua các khâu nghiền, phối trộn bột giấy, qua máy xeo, cán mỏng, sấy… Điểm khác biệt nho nhỏ là người ta sẽ cho thêm hoạt chất quỳ vào bột giấy (ở công đoạn nhất định, tùy vào công nghệ mà họ sử dụng), sau khi sấy khô sẽ có giấy quỳ như thành phẩm.
Các loại giấy quỳ trong thực tế Ngoài quỳ tím, có loài nào cũng có tính chất tương tự như vậy không?Câu trả lời là: Có. Trong thiên nhiên, ngoài các loài địa y kể tên ở trên, có những loài thực vật khác cũng có tính chất thay đổi màu sắc theo tính acid của môi trường. Trong thành phần chúng có chứa các hợp chất thuộc nhómAnthocyanin (từ gốc Latin có nghĩa là: màu xanh). Chúng chuyển sang màu đỏ trong môi trường acid và hóa xanh trong môi trường base giống như quỳ tím. Những hợp chất Anthocyanin thường hiện diện trong: lá của bắp cải tím (red cabbage), rau lang (sweet potato leaves); cánh hoa của hoa phong lữ (geranium), cây anh túc (poppy); quả của cây việt quất (blueberry); phần thân rễ của cây đại hoàng (Rhubarb). Ngoài ra, hoa cẩm tú cầu (Hydrangea) cũng có tính chất thay đổi màu sắc theo độ pH của đất trồng: nếu đất có tính chua (acid), hoa cẩm tú cầu sẽ có màu hồng, còn nếu đất có tính mặn (kiềm, alkaline), hoa sẽ có màu xanh dương.
Hoa cẩm tú cầu trồng ở đất có tính kiềm (alkaline) Hoa cẩm tú cầu trồng ở đất có tính acid Nếu muốn làm một tờ giấy quỳ tại nhà, chúng ta làm như thế nào?Theo trang web Sambal’s Science Web, cách làm một tờ giấy quỳ tại gia như sau:
Vậy là chúng ta đã có trong tay tờ “giấy quỳ” tự làm, có tính chất đổi màu như những tờ giấy quỳ bình thường khác. Nào bây giờ, bạn thử nhúng tờ “giấy quỳ” bạn vừa làm ra vào nước chanh hoặc giấm ăn, bạn thấy gì nào? “Giấy quỳ” sẽ hóa màu hồng (hoặc đỏ) phải không? Đó là do chanh hoặc giấm vốn là những acid yếu, có thể hóa hồng giấy quỳ. Nước luộc rau lang cũng có tính chất tương tự, khi bạn vắt chanh vào phần nước luộc, lập tức nồi nước luộc sẽ hóa hồng nhạt. Bây giờ bạn có thể tự tin “khoe” kiến thức với đứa em ở nhà về một hiện tượng khoa học lý thú rồi nhé. :)
Bắp cải tím |