Song that lục bát lớp 10

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Thể thơ song thất lục bát (雙七六八, đôi 7 6-8), cũng được gọi là lục bát gián thất (六八間七, 6-8 xen 7) hay thể ngâm là một thể văn vần (thơ) đặc thù của Việt Nam. Một số tác phẩm lớn trong văn chương Việt Nam như bản dịch Chinh Phụ Ngâm ra quốc âm đã được viết theo thể thơ này.

Thơ song thất lục bát gồm có 2 câu 7 chữ và 1 câu 6 chữ, 1 câu 8 chữ.

Chữ cuối câu bảy trên vần với chữ thứ 5 câu bảy dưới, chữ cuối câu bảy dưới vần với chữ cuối câu lục, tiếng cuối câu lục vần với chữ thứ 6 câu bát. Và chữ cuối câu bát vần với chữ thứ 5 (đôi khi chữ thứ 3) của câu thất tiếp theo.

Câu số Vần
1 - - t - b - T
2 - - b - T - B
3 - b - t - B
4 - b - t - B - B
5 - - t/b - B - T
6 - - b - T - B
7 - b - t - B
8 - b - t - B - B
Chữ thứ--1----2----3----4----5----6----7----8--

Chú thích:

  • -: Không bắt buộc
  • t: vần trắc, với các dấu thanh: Hỏi, ngã, sắc, nặng
  • b: vần bằng, với các dấu thanh: Ngang hay huyền
  • Chữ in hoa: Chữ phải giữ vần

Một đoạn Chinh Phụ Ngâm với song thất lục bát tiêu biểu với "yêu vận" và "cước vận" in đậm:

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyênXanh kia thăm thẳm từng trênNào ai gây dựng cho nên nỗi nàyTrống Trường Thành lung lay bóng nguyệtKhói Cam Tuyền mờ mịt khúc mâyChín tầng gươm báu trao tayNửa đêm truyền hịch đợi ngày xuất chinh

Sự phát triển của thể thơ song thất lục bát[sửa | sửa mã nguồn]

Là một thể thơ đặc biệt của người Việt, song thất lục bát cùng với lục bát rất được các tác giả ưa chuộng trong suốt thời kì văn học trung đại Việt Nam. Thể thơ này phát triển mạnh vào thế kỉ 18 cho đến tận đầu thế kỉ 20. Nhiều tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam đã sử dụng thể thơ này như bản dịch Chinh phụ ngâm (Đoàn Thị Điểm), Ai tư vãn (Lê Ngọc Hân), Văn tế thập loại chúng sinh (Nguyễn Du), Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Tự tình khúc (Cao Bá Nhạ), bản dịch Tì bà hành (Phan Huy Thực), Khóc Dương Khuê (Nguyễn Khuyến), Hải Ngoại huyết thư (Phan Bội Châu)v.v...

Sau khi phong trào Thơ mới xuất hiện, song thất lục bát không còn được các nhà thơ ưa chuộng nữa. Lưu Trọng Lư, Phạm Huy Thông, Hàn Mặc Tử có số ít bài song thất lục bát. Các tác phẩm thuộc thể thơ này ngày càng hiếm gặp, có lẽ một phần do những quy định về vần luật phức tạp và khó khăn của nó. Một số tác phẩm song thất lục bát tiêu biểu của thời kì hiện đại có thể kể đến: Bà má Hậu Giang, Ba mươi năm đời ta có Đảng (Tố Hữu)...

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Câu 5: trang 88 sgk Ngữ văn 10 tập 2

Đọc diễn cảm đoạn trích( nếu ngâm được càng tốt). Hãy nhận xét về nhạc điêu của thể thơ song thất lục bát( có so sánh với các thể thơ mà anh ( chị) biết)

Nhạc điệu thể thơ: dồi dào, vừa có cái chắc khỏe, réo rắt của thể thơ thất ngôn, vừa có được sự du dương, mềm mại của thể thơ lục bát tạo lên sự khác biệt đối với các thể thơ của các bài thơ khác

Nói đến thơ lục bát chắc hẳn ai cũng từng được đọc và được nghe bởi nó vẫn luôn hiện lên xung quanh cuộc sống của chúng ta hàng ngày. tiepsucmuathi.edu.vn xin hướng dẫn cho các bạn cách làm thơ lục bát hay và ý nghĩa qua bài viết dưới đây. Các bạn cùng tham khảo nhé!

Song that lục bát lớp 10

Thơ lục bát và thơ Song thất lục bát là hai thể thơ của dân tộc Việt Nam chúng ta. Chúng ta chẳng còn xa lạ gì với thể lục bát, vì nó là những bài ca dao hàng ngày ta vẫn nghe ông bà ngâm nga, thơ song thất lục bát thì ta đã được học trong chương trình lớp 10 ở trường phổ thông. Sau đây ta cùng tìm hiểu về cách làm hai thể thơ này để phát huy thêm một nét văn hoá của người Việt chúng ta.  Từ đó học hỏi được cách làm thơ lục bát hay và ý nghĩa nhé.

I. CÁCH LÀM THƠ LỤC BÁT
Thơ lục bát có nguồn gốc lâu đời, là một thể thơ dân tộc ta, thơ lục bát bao gồm có thể từ hai câu trở lên. Trong đó thì cứ hai câu ghép lại thành một cặp câu. Các cặp câu gồm có một câu 6 tiếng (câu lục) và một câu 8 tiếng (câu bát), và xen kẽ cứ câu lục là câu bát rồi đến cặp câu khác. Thơ lục bát tuân thủ luật về thanh và vần rất nghiêm ngặt, vì vậy tìm hiểu thơ lục bát là tìm hiểu về luật và vần của nó. Luật về thanh giúp cho câu thơ trở nên hài hòa. Các vần chính là hình thức kết dính các câu thơ lại với nhau.
A – Luật thanh trong thơ lục bát
Thơ lục bát có 2 câu chuẩn là câu lục và câu bát, cũng như thơ Đường luật, nó tuân thủ quy tắc nhất, tam, ngũ bất luận, nhị, tứ, lục phân minh. Nghĩa là các tiếng thứ 1,3,5 trong câu có thể tự do về thanh, nhưng các tiếng thứ 2,4,6 thì phải theo luật chặt chẽ. Luật như sau:
Câu lục: theo thứ tự tiếng thứ 2-4-6 là Bằng (B) – Trắc (T) – Bằng
Câu bát: theo thứ tự tiếng thứ 2-4-6-8 là B-T-B-B

Ví dụ:
Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân  B – T – B
Bâng khuâng nhớ cụ, thương thân nàng Kiều B-T-B-B
Thế nhưng đôi khi có thể tự do về tiếng thứ hai của câu lục hay câu bát, có thể biến nó thành thanh trắc. Hoặc là câu lục giữ nguyên mà câu bát thì lại theo thứ tự T-B-T-B những câu thơ thế này ta gọi là lục bát biến thể.
Ví dụ:
Có sáo thì sáo nước trong T-T-B

Đừng sáo nước đục đau lòng cò con T-T-B-B

hay:

Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non T-B-T-B

B – Cách gieo vần trong thơ lục bát

Thơ lục bát có cách gieo vần khác với các thơ khác. Có nhiều vần được gieo trong thơ nhiều câu chứ không phải là một vần, điều này tạo cho thơ lục bát tính linh hoạt về vần.
Cách gieo vần: Tiếng thứ 6 của câu lục vần với tiếng thứ sáu của câu bát kế nó. Và tiếng thứ tám câu bát đó lại vần với tiếng thứ sáu của câu lục kế tiếp. Ví dụ (những từ in nghiêng hay đậm là vần với nhau):

Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo  ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng

Trong thể thơ lục bát biến thể vẫn gieo vần như vậy, nhưng trường hợp câu bát của cặp câu có thanh là t-b-t-b thì tiếng thứ sáu câu lục trên nó vần với tiếng thứ tư của câu đó.
Ví dụ:

Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.

Tiểu đối trong thơ lục bát:
Đó là đối thanh trong hai tiếng thứ 6 (hoặc thứ 4) cảu câu bát với tiếng thứ 8 câu đó. Nếu tiếng này mang thanh huyền thì tiếng kia bắt buộc là thanh ngang và ngược lại.

Ví dụ:

Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Cách ngắt nhịp trong thơ lục bát:
Thơ lục bát thông thường ngắt nhịp chẵn, là nhịp 2/2/2, nhưng đôi khi để nhấn mạnh nên người ta đổi thành nhịp lẻ đó là nhịp 3/3. Nhịp thơ giúp người đọc và người nghe cảm nhận được thơ một cách chính xác hơn.

II. CÁCH LÀM THƠ SONG THẤT LỤC BÁT

Thơ song thất lục bát là thơ gồm có 4 câu đi liền với nhau, trong đó là hai câu 7 tiếng (câu thất 1 và câu thất 2), kế tiếp là câu lục và câu bát.
Về luật vần ở câu lục và bát thì hoàn toàn là giống thơ lục bát, không đề cập đến. Tôi chỉ đề cập đến hai câu thất. Luât thanh không phải ở các từ 2-4-6 như các thể thơ khác mà lại chú ý vào các tiếng 3-5-7.
Câu thất 1: các tiếng 3-5-7 theo thứ tự là T-B-T

Câu thất 2: các tiếng 3-5-7 theo thứ tự là B-T-B

Các tiếng 1-2-4-6 tự do về thanh.
Ví dụ:

Lòng này gửi gió đông có tiện T-B-T

Nghìn vàng xin gửi đến non yên B-T-B

Về cách gieo vần cũng khác các thể thơ khác. Các thể thơ khác chỉ gieo vần ở thanh bằng, nhưng thơ song thất lục bát gieo vần ở cả tiếng thanh trắc và thanh bằng.
Tiếng thứ 7 của câu thất 1 thanh trắc vần với tiếng thứ 5 thanh trắc của câu thất 2. Tiếng thứ 7 của câu thất 2 thanh bằng vần với tiếng thứ 6 câu lục kế.
Ví dụ:

Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng đằng đẳng đường lên bằng trời.

Trong bài thơ có nhiều câu thơ song thất lục bát thì để nối hai nhóm câu lại về vần thì ta lấy tiếng thứ 8 thanh bằng của câu bát vần với tiếng thứ 5 thanh bằng của câu thất 1 kế tiếp.
Ví dụ:

Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng đằng đẳng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu…

Cách ngắt nhịp trong 2 câu thất của thơ này là nhịp lẻ, tức là nhịp 3/4 hay là 2/1/4.

Một số câu thơ lục bát hay và ý nghĩa:

THƠ LỤC BÁT MÙA HẠ

Hạ đến gọi khúc chia xa

Hạ đến gọi phượng nở hoa gọi hè

Hạ đến rộn rã tiếng ve

Hạ đến gọi nắng trưa hè gắt gao

Hạ về vàng nắng hanh hao

Hạ về gọi nắng gió Lào nồng oi

Hạ về giọt nắng đưa thoi

Hạ về cây rủ bóng soi rũ cành

Hạ mang ta nắng vàng hanh

Hạ mang bằng tím trên cành rộ hoa

Hạ mang áo trắng chia xa

Hạ mang mơ mộng tình ta học trò

Hạ ơi ta nhớ phượng rơi

Hạ ơi ta nhớ cái thời trắng tinh

Hạ ơi trong nắng lung linh

Hạ ơi phượng lỡ dứt tình bay xa

Hạ rời ta mãi bôn ba

Hạ rời thu tới lá xa lìa cành

Hạ rời gọi tiết trời xanh

Hạ rời gọi mãi tình anh cùng nàng.

SẮC ĐỎ HẠ THƯƠNG

Hạ về phượng thắm hàng cây

Sân trường ngập nắng tung bay áo dài

Hẹn nhau lưu bút trao tay

Mùa vương vấn củ mắt ai lén nhìn

Hạ ơi mùa của chúng mình

Viết trang nhật ký tự tình chia xa

Luyến lưu rơi rớt giọt ngà

Phút giây bịn rịn rời xa không đành

Khi không gọi hắn bằng anh

Đường xưa từng bước song hành bên nhau

Vẫn thường gọi hắn mày tao

Bây giờ bẽn lẽn gặp nhau cuối đầu

Tiếng ve vang khúc nhạc sầu

Còn đâu mùa củ đưa vào câu thơ

Áo ai trắng mãi dại khờ

Để cho một kẻ ngẩn ngơ trong lòng

Với tay đón cánh phượng hồng

Bâng khuâng dừng bước phiêu bồng chiều nay

Tình thơ chưa kịp trao tay

Hạ ơi nỗi nhớ vẫn đầy trong tim.

HẠ VỀ

Mùa xuân cất cánh bay rồi

Hạ đang rừng rực lên ngôi đất trời

Dát vàng rực rỡ muôn nơi

Ẩn trong trái chín, nhuộm ngời hương hoa.

Ve sầu ngân vọng khúc ca

Phượng hồng rực lửa chia xa bạn bè

Tháng tư mới chớm sang hè

Mà sao lòng bỗng nghe tê tái lòng.

Hạ về mây trắng thong dong

Rủ đàn ong mật dạo rong vườn nhà

Rủ cơn gió đến la đà

Rủ cơn mưa xuống cho ngà ngà say.

Hạ về chắp cánh diều bay

Tuổi thơ tỉnh giấc chợt lay mình về…!

HÈ VỀ

Tìm về Hạ cũ quanh co

Hỏi ngày xưa có buồn xo tháng ngày

Nắng vừa khẽ chạm bàn tay

Chợt mưa rơi đến ướt vai mất rồi

Nhớ hoài mùa cũ trong tôi

Áo em trắng mộng bồi hồi ngẩn ngơ

Chiều nay ngắm cánh phượng mơ

Bỗng đâu thấy lại bài thơ năm nào

Thẹn thùng viết – ngại ngùng trao

Để giờ năm tháng ngã màu thời gian!

Xa nhau buổi ấy hè sang

Tiếng ve gọi mãi theo hàng phượng đưa

Hạ ơi! thương mấy cho vừa

Nhớ ơi! còn đấy giọt thưa, giọt gầy

Về thăm niệm khúc chiều nay

Nghe chút rong ruổi theo ngày tháng xưa!

GỌI HÈ

Men theo vạt nắng ta đi

Xểnh tay rơi rớt những gì còn xuân

Hoàng hôn sao lắm trái ngang

Chiều chưa tắt nắng vội mang đêm về

Gọi em rung chuyển cơn mê

Ai ơi lẻ bạn tìm về cố nhân

Mai kia trả nợ sắc cầm

Hỏi phù sa chớ trách lầm dòng sông

Ai gọi kí ức phải không..?

Chỉ cho ta với.. yêu thương chỗ nào

Men về bước thấp bước cao

Tìm em nơi chốn ồn ào trường xưa

Ra sông gom mớ thực hư

Tưới vào gốc phượng coi như gọi hè.

Song that lục bát lớp 10

Trong tâm hồn của mỗi người chúng ta ai cũng chất chứa những vần thơ nhưng lại chưa biết cách để làm thơ. tiepsucmuathi.edu.vn đã hướng dẫn các bạn làm thơ lục bát, hi vọng sau khi tham khảo bài viết các bạn sẽ tự làm thơ lục bát hay và ý nghĩa cho riêng mình.