Tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản quan trọng nhất của tội phạm
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là một thuộc tính của tội phạm thể hiện ở việc gây thiệt hại hoặc tạo ra nguy cơ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là đối tượng bảo vệ của luật hình sự. Show
Tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm là căn cứ để phân chia tội phạm thành tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là một thuộc tính của tội phạm thể hiện ở việc gây thiệt hại hoặc tạo ra nguy cơ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là đối tượng bảo vệ của luật hình sự. Nó là thuộc tính cơ bản và quan trọng nhất, quyết định những thuộc tính khác của tội phạm. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là thuộc tính có tính khách quan, tính xã hội, tính giai cấp và tính lịch sử. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ tập trung làm rõ tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là thuộc tính xã hội của tội phạm.
Với tư cách là một thuộc tính xã hội của tội phạm, tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm do vậy nó có tính lịch sử - có nghĩa là chúng xuất hiện, biến đổi và mất đi theo những hoàn cảnh và thời điểm nhất định. Điều này cho phép chúng ta lý giải tại sao cùng một hành vi nhưng ở trong nhà nước này, thời điểm này thì nó được coi là tội phạm, còn ở nhà nước khác hoặc thời điểm khác thì nó không bị coi là tội phạm hoặc chỉ là hành vi vi phạm pháp luật hành chính, dân sự…; hoặc trường hợp mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã có sự biến đổi theo thời gian. Như vậy, dưới góc độ triết học cho phép chúng ta đưa ra kết luận: tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là một thuộc tính phát sinh trong mối quan hệ giữa người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm với xã hội và chỉ có thể nhận biết bằng tư duy. (i) Dịch vụ tranh tụng: Luật sư bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người tố giác (tố cáo) và người bị tố giác (tố cáo); người bị tạm giữ, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã; bị can, bị cáo trong toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử tại cơ quan tiến hành tố tụng các cấp; Luật sư tham gia tố tụng với tư cách người bảo vệ quyền lợi hợp pháp hoặc người đại diện cho người bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự; (ii) Tư vấn pháp luật: Hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp khách hàng soạn thảo các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của khách hàng trong lĩnh vực hình sự.Chúng tôi cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật trong lĩnh vực pháp lý có liên quan đến lĩnh vực hình sự: hành chính, dân sự, hôn nhân, gia đình, đầu tư, doanh nghiệp, lao động, tài chính, kế toán… và nhiều lĩnh vực khác. (iii) Đại diện theo ủy quyền: Trong lĩnh vực hình sự, luật sư có thể đại diện cho khách hàng ngoài tố tụng để giải quyết các công việc có liên quan đến việc đã nhận theo phạm vi, nội dung được ghi trong hợp đồng dịch vụ pháp lý. (iv) Dịch vụ pháp lý khác: Liên quan tới lĩnh vực hình sự, luật sư giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc về thủ tục hành chính, tư pháp; giúp đỡ về pháp luật trong trường hợp giải quyết khiếu nại, dịch thuật, xác nhận giấy tờ, các giao dịch; giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc khác theo quy định. Bài viết thực hiện bởi: Luật sư Nguyễn Thị Yến - Trưởng chi nhánh Quảng Ninh của Công ty Luật TNHH Everest
Bài viết được tư vấn chuyên môn & chia sẻ kinh nghiệm thực tế bởi Luật sư Nguyễn Hồng Quân. LUẬT SƯ NGUYỄN HỒNG QUÂN LÀ LUẬT SƯ CHUYÊN GIẢI QUYẾT ÁN HÌNH SỰ, NHÀ ĐẤT. Với phương châm làm việc "chọn việc Đúng - Đáng - Đàng hoàng- Đặt Lợi Ích Khách Hàng Lên Hàng Đầu" kết hợp với bề dày kinh nghiệm trong việc tư vấn, tranh tụng, hỗ trợ pháp lý cho các khách hàng trong các vụ án hình sự, kinh tế lớn. 1. Tội phạm là gì?Tội phạm theo Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 (gọi tắt là Bộ luật Hình sự) định nghĩa: “là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.” Tuy nhiên không phải bất kỳ hành vi nào có dấu hiệu của tội phạm cũng bị xem là tội phạm. Khoản 2 Điều 8 Bộ luật này đã quy định: “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.” >> Xem thêm: Tội phạm và hành vi phạm tội. 2. Một hành vi bị coi là tội phạm khi có các dấu hiệu sau:Thứ nhất, tính nguy hiểm cho xã hội: hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội được hiểu là hành vi đó gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội…” Như vậy, tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất để xác định một hành vi có phải là tội phạm hay không. Một hành vi bị coi là tội phạm bản chất trong hành vi ấy đã chứa đựng tính nguy hiểm cho xã hội. Để xác định tính nguy hiểm cho xã hội, thường dựa vào các căn cứ sau:
>> Thông tin hữu ích: Thứ hai, tính có lỗi: lỗi là thái độ tâm lý chủ quan của chủ thể đối với hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện và đối với hậu quả của hành vi đó dưới hình thức vô ý hoặc cố ý. Bản chất của lỗi thể hiện ở việc người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức được nguy hiểm đó nhưng tự mình lựa chọn và quyết định thực hiện hành vi trong khi có đủ điều kiện để lựa chọn một xử sự khác phù hợp với lợi ích của xã hội. Lỗi được phân loại thành lỗi cố ý và lỗi vô ý. Theo đó lỗi cố ý bao gồm:
Lỗi vô ý bao gồm:
>> Đặt câu hỏi MIỄN PHÍ về dấu hiệu và cấu thành tội phạm với 400+ Luật sư hình sự. Thứ ba, tính trái pháp luật hình sự: Một hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm nếu “... được quy định trong luật hình sự”. Điều 2 Bộ luật Hình sự quy định về cơ sở của trách nhiệm hình sự như sau: “1. Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự. 2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự.” Như vậy hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong luật hình sự hay tính trái pháp luật hình sự là một dấu hiệu của tội phạm. Bất cứ hành vi nào không được quy định là một tội trong Bộ luật Hình sự thì việc thực hiện hành vi đó không bị xem là tội phạm. Thứ tư, tính phải chịu hình phạt: Tính phải chịu hình phạt thể hiện ở chỗ bất cứ tội phạm nào cũng đều bị áp dụng hoặc đe dọa áp dụng biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất là hình phạt. Hình phạt được coi là cơ chế răn đe, giáo dục đối với tội phạm. Tóm lại, một hành vi được coi là tội phạm khi nó thỏa mãn đủ bốn dấu hiệu nêu trên. Cấu thành tội phạm là gì? Các dấu hiệu của cấu thành tội phạm? Cấu thành tội phạm theo đó là tổng hợp những dấu hiệu có tính đặc trưng cho từng loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm phản ánh nội dung các yếu tố của tội phạm. Tuy nhiên không phải tất cả các dấu hiệu đều được nêu trong một cấu thành tội phạm. Theo đó, các dấu hiệu bắt buộc phải có trong tất cả các cấu thành tội phạm bao gồm:
Những dấu hiệu khác là không bắt buộc, có những dấu hiệu được nêu trong cấu thành tội phạm này nhưng không được nêu trong cấu thành tội phạm khác. 2. Đặc điểm của các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm:
Bạn vẫn còn thắc mắc? Hơn 400 Luật sư chuyên về Hình sự trên iLAW đang sẵn sàng hỗ trợ bạn. Hãy chọn ngay một Luật sư gần bạn và liên hệ với Luật sư đó để được tư vấn miễn phí. |Ngày nay, thuê luật sư riêng cho cá nhân, gia đình đang là một xu hướng thịnh hành trong những năm gần đây. Quý độc giả có thể tham khảo thêm. THÔNG TIN LIÊN QUAN: Danh bạ Luật sư Hình sự Tạm giam hình sự Bộ luật tố tụng hình sự Câu hỏi hình sự |