Đền thờ Trần Quốc Khái ở đâu

SANG TẠO Tuần 21 + Tập đọc ỒNG TỔ NGHỀ THÊU Hồi nhỏ, Trần Quốc Khái ham học ra sao ? Trả lời : Hồi nhỏ, Trần Quốc Khái rất ham học. Cậu học cả khi đi đốn củi, lúc kéo vó tôm. Tối đến, cậu bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng làm đèn để đọc sách. Vua Trung Quô'e nghĩ ra cách gì để thử tài sứ thần Việt Nam ? Trả lời : Để thử tài sứ thần Việt Nam là Trần Quốc Khái, vua Trung Quốc sai dựng một cái lầu cao, mời ông lên chơi, rồi cất thang đi và chờ xem ông xử trí ra sao với hai pho tượng Phật, hai cái lọng, một bức trướng thêu ba chữ "Phật trong lòng" và một vò nước. Trần Quôe Khái đã làm thế nào ? Để sống ? Trần Quốc Khái đọc bức trướng và hiểu ra ý nghĩa của ba chữ "Phật trong lòng" là có thể ăn tượng Phật vào trong bụng. Và ông đã không lầm. Bức tượng Phật và vò nước đã giúp ông có thức ăn, thức uống. Để không bỏ phí thời gian ? Để không bỏ phí thời gian, ông tìm tòi quan sát và học được cách thêu, cách làm lọng. Để xuống đất bình an vô sự ? Ông quan sát thây dơi soè cánh chao đi chao lại như những chiếc lá bay, ông liền ôm lọng nhảy xuống bình an vô sự. Những chiếc lọng xoè rộng như cánh dơi đỡ cho ông rơi từ từ xuống dưới. Vì sao ông được suy tôn là ông tổ nghề thêu ? Trả lời : Trần Quốc Khái được suy tôn là ông tổ nghề thêu vì khi về nước ông đã truyền dạy nghề thêu cho dân ta, làm cho nghề này lan rộng ra khắp nơi trong đất nước. Nội dung: Ông đã học được nghề thêu của người Trung Quốc, và dạy lại cho dân ta. + Kể chuyện Đặt tên cho từng đoạn của câu chuyện Ông tổ nghề thêu. Đoạn 1 : Cậu bé ham học Đoạn 2 : Vua Trung Quốc thử tài Đoạn 3 : Mấy ngày sống trên lầu cao Đoạn 4 : Hạ cánh an toàn Đoạn 5 ; Truyền bá nghề thêu và nghề làm lọng Kể lại một đoạn của câu chuyện : Kể lại đoạn 2 : Khi Trần Quốc Khái được cử làm sứ giả sang Trung Quốc, vua Trung Quốc nghe tin ông là người có cài, muốn thử thách ông nên đã mời ông lên một cái lầu cao rồi rút thang ra. Trên lầu không có thức ăn, chỉ có hai pho tượng Phật, hai cái lọng, một bức trướng thêu ba chữ "Phật tại tâm” và một vò nước. + Chính tả Nghe - Viết : Ông tổ nghề thêu (trích) a) Điền vào chỗ trống tr hay ch ? Trần Quốc Khái rất thông minh, chăm chỉ học tập nên đã trở thành tiến sĩ, làm quan to' trong triều đình nhà Lê. Được cử đi sứ Trung Quốc, trước thử thách của vua nước láng giềng, ông đã xử írt' rất giỏi làm clio mọi người phải kính trọng, ông còn nhanh írí học được nghề thêu của người Trung Quốc để truyền lại cho nhân dân. b) Đặt dấu hỏi hay dấu ngã lên các chữ gạch dưới ? Lê Quý Đôn sống vào thời Lê. Từ zz/iỏ, ông đã nổi tiếng thông minh. Năm 26 tuổi, ông đỗ tiến sĩ. Ông đọc nhiều, hiểu rộng, làm việc rất cần mẫn. Nhờ vậy, ông viết được hàng chục cuốn sách nghiên cứu về lịch sử, địa lí, văn học,..., sáng tác cả thơ lẫn văn xuôi, ông được coi là nhà bác học lớn của nước ta thời xưa. + Tập đọc BÀN TAY CÔ GIÁO Tù’ mỗi tờ giấy, cô giáo đã làm những gì ? Trả lời : Từ mỗi tờ giấy có màu khác nhau, cô giáo đã làm ra chiếc thuyền, mặt trời, mặt nước, biển biếc. Hãy tả bức tranh cắt dán giấy của cô giáo. Trả lời : Cô giáo đã cắt dán bức tranh mô tả cảnh biển lúc bình minh có mặt trời hồng mới mọc toả ra nhiều tia nắng mới, có mặt nước biển xanh đang dập dềnh vỗ sóng và có một chiếc thuyền đang lướt sóng ra khơi. Em hiểu hai dòng thơ cuối bài như thế nào ? Trả lời : Em hiểu hai dòng thơ cuối bài. Biết bao điều lạ Từ bàn tay cô Có ý nghĩa như sau : Cô giáo là người rất khéo tay, có khả năng sáng tạo. Hai bàn tay cô đã làm ra nhiều dụng cụ học tập, đã vẽ nên nhiều bức tranh minh hoạ làm cho học sinh rất thích thú, rất say mê. Hai bàn tay khéo léo như có phép màu của cô đã giúp các em cảm nhận được cảnh tượng bát ngát của trời xanh, biển biếc. Nội dung: Ca ngợi bàn tay kì diệu của cô giáo. Cô đã tạo ra biết bao điều lạ từ đôi bàn tay khéo léo của mình. + Luyện từ và câu Đọc bài thơ ÔNG TRỜI BẬT LỬA Chị mây vừa kéo đến Trăng sao trốn cả rồi Đất nóng lòng chờ đợi Xuống đi nào, mưa ơi ! Mưa ! mưa xuống thật rồi ! Đất hả hê uống nước Ông sấm vỗ tay cười Làm bé bừng tỉnh giấc Chớp bỗng loè chói mắt Soi sáng khắp ruộng vườn Ổ ! Ông trời bật lửa Xem lúa vừa trổ bông Những sự vật nào được nhân hoá ? Nhân hoá bằng cách nào ? - Trong bài thơ trên có nhiều sự vật được nhân hcá : • Mây được gọi bằng chị, sấm được gọi bằng ông, trời cũng được gọi bằng ông. Các sự vật cũng có hành động, ý nghĩa như người : trăng sao biết trốn, đất nóng lòng chờ đợi, đất hả hê uống nước, ông sấm vỗ tay cười, ông trời bật lửa xem lúa trổ bông. Tác giả coi mưa như một người bạn thân thiết đã từ lâu đi vắng, nay nóng lòng muốn gặp lại nên đã gọi rất thân mật : Xuống đi nào, mưa ơi ! Tìm bộ phận câu trả lời cho câu hỏi ở đâu ? và gạch dưới bộ phận đó. Trần Quốc Khái quê ở huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Ông học được nghề thêu ở Trung Quốc trong một lần đi sứ. Để tưởng nhớ công lao của Trần Quốc Khái, nhân dân lập đền thờ ở quê hương ông. Đọc lại bài tập Ở LẠI VỚI CHIẾN KHU và trả lời : Câu chuyện kể trong bài diễn ra khi nào và ở đâu ? Trả lời : Câu chuyện kể trong bài diễn.ra trong thời kì kháng chiến chống Pháp ở tại chiến khu Bình-Trị-Thiên. Trên chiến khu, các chiến sĩ nhỏ tuổi sống ở đâu ? Trả lời : Trên chiến khu', các chiến sĩ nhỏ tuổi sống ở trong cái lán. Vì lo cho các chiến sĩ nhỏ tuổi, trung đoàn trưởng khuyên họ về đâu ? Trả lời : Vì lo cho các chiến sĩ nhỏ sẽ gặp nhiều khó khăn tại chiến khu, trung đoàn trưởng khuyên họ trở về với gia đình. + Tập đọc NGƯỜI TRÍ THỨC YÊU NƯỚC Tìm những chi tiết nói lên tinh thần yêu nước của bác sĩ Đặng Văn Ngữ. Trả lời : Các chi tiết sau đây nói lên tinh thần yêu nước của bác sĩ Đặng Văn Ngữ : Năm 1948, ông rời nước Nhật, nơi có điều kiện sống tốt hơn, về nước tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp. Năm 1967 ông lại lên đường ra mặt trận chống Mĩ chẳng quản ngại gian lao nguy hiểm. Chi tiết nào cho thấy bác sĩ Đặng Văn Ngữ rất dũng cảm ? Trả lời : Chi tiết : "Ông chế ra thuốc chống sốt rét và tự tiêm vào cơ thể mình những liều thuốc đầu tiên" chứng tỏ bác sĩ Đặng Văn Ngữ rất dũng cảm. Ông đã có những đóng góp gì cho hai cuộc kháng chiến ? Trả lời : Những đóng góp rất đáng quý của bác sĩ Ngữ trong hai cuộc kháng chiến là : Gây được nấm pê-ni-xi-lin để làm ra thuốc chữa trị cho thương binh. Chế tạo thành công thuốc chống sốt rét để giúp cho đồng bào và chiến sĩ phòng bệnh và chữa bệnh. Ông đã hi sinh trong bom đạn của kẻ thù. Nội dung: Ca ngợi bác sĩ Đặng Văn Ngữ- một trí thức yêu nước đã dâng hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp khoa học và sự nghiệp bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. + Chính tả Nhớ - Viết : Bàn tay cô giáo (cả bài) a) Điền tr hay ch ? Trí thức là những người chuyên làm các công viêc trí óc như dạy học, chữa bệnh, chế tạo máy móc, nghiên cứu khoa học. Cùng với những người lao động chân tay như công nhân, nông dân,... đội ngũ trí thức đang đem hết trí tuệ và sức lực của mình xây dựng non sông gấm vóc của chúng ta. b) Đặt dấu hỏi hay dấu ngã ? Trên đồng ruộng, trong nhà máy, trên lớp học hay trong bệnh viện, ở đâu, ta cũng gặp những trí thức đang lao động quên mình. Các kĩ sư nông nghiệp nghiên cứu giống lúa mới, kĩ thuật trồng trọt, chăn nuôi mới. Các kĩ sư cơ khí cùng công nhân sản xuất máy móc, ô tô. Các thầy giáo, cô giáo dạy ta thành người có ích cho xã hội. Các bác sĩ chữa bệnh cho dân. + Tập làm văn Quan sát các bức tranh và cho biết những người trí thức là ai, họ đang làm gì ? Trả lời : Tranh 1 : Người trí thức ở đây là một bác sĩ. Ông đang ngồi bên giường bệnh của một bệnh nhân. Bệnh nhân là một cậu bé. Bác sĩ đang cầm nhiệt kế để xem nhiệt độ trong người của cậu bé, sau đó sẽ cho cậu uống thuốc. Tranh 2 : Ba người trí thức ở đây là ba kĩ sư cầu đường. Họ đang bàn bạc với nhau xem nên xây dựng cây cầu mới sao cho vững chắc nhất, đẹp nhất và đỡ tốn kém nhất. Tranh 3 : Người trí thức ở đây là một cô giáo dạy tiểu học. Trước mặt cô là các em học sinh đang chăm chú nghe cô nói. Cô giáo đứng trên bảng, viết lên đó hai chữ Tập đọc để bắt đầu cho một bài học mới. Tranh 4 : Những người trí thức ở đây là các nhà khoa học. Phòng thí nghiệm của họ có rất nhiều dụng cụ để làm các thí nghiệm về vật lí, về hoá học, về sinh vật học... Họ đang tiến hành các thí nghiệm để tìm ra những kết quả mong muốn phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Nghe và kể lại câu chuyện Năng niu từng hạt giống Bài làm Lương Định Của là một nhà khoa học lớn, ông đã lai tạo được nhiều giống lúa mới cho nước ta. Một lần, người bạn của ông ở nước ngoài gửi về Viện nghiên cứu của ông mười hạt giống. Giữa lúc trời rét đậm mà phòng thí nghiệm lại không đủ tiện nghi, sợ những hạt giống sẽ chết vì rét, ông đem mười hạt giống chia làm hai phần, mỗi phần năm hạt. Ông gieo trong phòng thí nghiệm năm hạt, còn năm hạt còn lại ông ngâm vào nước ấm, gói vào khăn. Mỗi tối, ông đem ủ trong người, trùm chăn ngủ để hơi ấm làm cho thóc nảy mầm. Kết quả như ông dự đoán, năm hạt giống gieo trong phòng thí nghiệm đã nảy mầm rồi chết vì rét. chỉ có năm hạt thóc của ông Lương Định Của ủ ấm trong người là giữ được mầm xanh, chúng sinh sôi nảy nở rồi trở thành triệu hạt thóc ngoài cánh đồng.

Theo thần phả của họ Bùi Trần (裴陳) gốc Mạc ở Quất Động thì Lê Công Hành vốn thuộc dòng dõi nhà Mạc. Năm 1546, Mạc Hiến Tông băng hà, triều đình nhà Mạc nổ ra biến loạn. Quân Nam triều nhân cơ hội nhà Mạc suy yếu, nhiều lần tiến quân ra Bắc đánh phá. Hoàng thất nhà Mạc tan tát khắp nơi, Quý phi Bùi Thị Ban đưa Mạc Phúc Đăng (con thứ của Mạc Hiến Tông) chạy tránh loạn về định cư ở thôn Quất Động, về sau đổi thành họ Bùi và họ Trần, lập nên chi họ Bùi Trần ở Quất Động.

Tương truyền vào một lần đi sứ và bị triều đình phương Bắc dồn vào thế khó để thử tài, Lê Công Hành đã học được cách làm lọng, kỹ thuật thêu rồi về truyền dạy cho dân chúng.

Lê Công Hành tên khai sinh là Trần Quốc Khái. Ông sinh năm Bính Ngọ (1606) tại xã Quất Động, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là huyện Thường Tín, Hà Nội).

Đền thờ Trần Quốc Khái ở đâu
Lê Công Hành (1606-1661)

Chuyện kể rằng hồi còn nhỏ, cậu bé Khái đã rất ham học. Cậu học cả khi đốn củi, lúc kéo vó tôm. Tối đến, nhà không có đèn, cậu bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng lấy ánh sáng đọc sách. Khái học đến đâu thuộc đến đấy và nổi tiếng hay chữ một vùng.

Năm 18 tuổi, thanh niên trai tráng trong làng đều bị lý dịch bắt đi phu đắp đê sông Hồng. Vì sức yếu không vác nổi những hòn đất to, Khái bị phạt, phải chôn chân ở mặt đê từ sáng đến trưa.

Giữa lúc đó, viên quan coi đê đi qua thấy một thanh niên mặt mũi khôi ngô, lấy làm lạ nên dừng chân hỏi: “Ngươi bị tội gì mà phải chôn chân?”.

Khái lễ phép thưa: “Tôi là học trò, không vác nổi những hòn đất đá to nên bị phạt”.

Viên quan cũng có chút chữ nghĩa, liền cười nói: “Ngươi là học trò à? Ta ra một vế đối, đối được thì ta tha cho”. Khái gật đầu xin vâng.

Viên quan liền đọc: “Ông quan thị, cắm đường cái tiêu, trị hồng thủy, cho dân được cậy”.

Vế ra khá oái oăm, có tên bốn thứ quả gồm thị, chuối tiêu, hồng và quả cậy. Khái ứng khẩu đối lại ngay: “Trai Quất Động, thi đỗ bảng nhãn, phù quân vương, phỉ chí mới cam”. Vế đối lại cũng đủ bốn thứ quả quýt, nhãn, bồ quân và cam.

Nghe xong viên quan gật đầu khen ngợi, cho về. Từ đấy, Khái càng nổi tiếng hay chữ.

Sau đó, Trần Quốc Khái lều chõng đi thi và đỗ tiến sĩ đời vua Lê Chân Tông, giữ chức quan to trong triều đình nhà Lê.

Học nghề thêu từ lần đi sứ phương Bắc

Năm Bính Tuất (1646), ông được cử đi sứ nhà Minh. Để thử tài sứ thần nước Nam, quan quân nhà Minh không dẫn ông đi đường chính mà lại dẫn theo đường tắt.

Đến một vùng rừng núi và thung lũng thì hết lương ăn, ông bèn cho chặt tre, đan thành những cái dậm, sai quân lính xuống suối kiếm cá và lên rừng tìm trái cây. Nhờ vậy, đoàn sứ bộ của ta vượt qua quãng đường rừng núi mà vẫn khỏe mạnh như thường.

Sau khi hoàn thành công việc ngoại giao, vua Minh muốn thử tài trí của sứ thần một lần nữa, bèn sai dựng một cái lầu cao chót vót rồi mời ông lên chơi.

Trần Quốc Khái vừa lên tới nơi, quân Minh dưới đất cất thang đi. Ở trên lầu suốt một ngày, ông chẳng thấy ai đem cơm nước đến.

Đưa mắt nhìn quanh, ông chỉ thấy có cái bàn thờ. Trước bàn thờ, hai cái lọng xanh, đỏ trông rất đẹp; trên cao treo bức nghi môn diềm màn thêu rồng phượng và nổi 3 chữ “Phật tại tâm” (Phật ở trong lòng).

Đền thờ Trần Quốc Khái ở đâu
Lê Công Hành đi sứ phương Bắc

Ông Phật Di lặc, bụng to, sơn đen được đặt giữa bệ bàn thờ. Dưới chân bệ, một cái chum to đựng nước cúng và trong góc dựng hai cây tre, một con dao, hoàn toàn không có thức ăn.

Một ngày trôi qua, bụng đói mà không có cơm ăn, chỉ có chum nước, ông nghĩ có nước uống tất phải có cái ăn. Quay ra ngắm bức tượng, tò mò xem thử xem nó làm bằng gì, ông lấy móng tay cậy vào lưng Phật thì thấy bật ra một mảng con, lấy tay bóp vụn ra được như bột.

Ông đưa lên miệng nhấm thử thì thấy ngọt, hóa ra tượng làm từ bột bánh khảo (có tài liệu nói rằng tượng nặn bằng bột chè lam). Từ đó ngày hai bữa, ông cứ bẻ dần tượng Phật mà ăn.

Ngồi không buồn quá, Trần Quốc Khái bèn chẻ tre, vót nan, quan sát kỹ cách làm lọng và nhập tâm các chi tiết. Khi đã biết cách làm lọng rồi, ông lại hạ bức trướng xuống, tháo các đường chỉ kim tuyến xem cách thêu, rồi lại dùng chỉ đó thêu vào. Lúc hoàn tất, ông ngắm nghía thấy nét chữ thêu giống hệt như cũ.

Ăn hết pho tượng và uống gần hết chum nước, Trần Quốc Khái tìm cách xuống. Buổi chiều ngồi ngắm trời mây, thấy những con dơi xòe cánh chao đi chao lại như chiếc lá, ông nghĩ đến hai cái lọng cắm trên lầu, rồi ôm lọng nhảy xuống đất bình an vô sự.

Trước tài trí ứng xử linh hoạt của sứ thần Đại Việt, triều đình nhà Minh vô cùng kính phục, bày tiệc lớn tiễn đưa đoàn sứ về nước.

Bằng sự tài trí và ứng xử ngoại giao không ngoan, sau khi về nước, Trần Quốc Khái được phong tước, thăng lên chức Công bộ thượng thư thái bảo, được đổi họ Lê nên mới có tên khác nữa là Lê Công Hành.

Truyền nghề thêu cho dân

Ít lâu sau, Lê Công Hành đem nghề thêu dạy cho dân làng Quất Động rồi sau đó phát triển rộng ra các tỉnh khác, sang cả Bắc Ninh, Hưng Yên.

Bên cạnh đó, ông cũng dạy lại cách làm lọng cho người dân. Để ghi nhớ công ơn ông, sau khi Lê Công Hành mất (năm 1661), nhân dân trong vùng đã lập đền thờ và tôn ông là ông tổ nghề thêu.

Một số tài liệu cho rằng trước khi Lê Công hành truyền dạy nghề thêu và làm lọng cho dân chúng, những nghề này đã tồn tại ở nước ta. Tuy nhiên, nó phát triển nhỏ lẻ, kỹ thuật khá đơn sơ, quanh quẩn với vài màu chỉ và chủ yếu phục vụ cho vua quan.

Sử sách cũ còn ghi lại ở đời Trần, vua quan ta đã dùng đồ thêu và lọng. Năm 1289, trước năm đi sứ của Lê Công Hành khoảng hơn 350 năm, vua Trần đã gửi tặng vua Nguyễn một đệm vóc đỏ thêu chỉ vàng, một tấm thảm gấm viền nhiễu (theo Từ Minh Thiện viết trong tập Thiên nam hành ký).