Dịch thuật nội hóa trong lý thuyết dịch
2.1. Tytler và ba quy luật dịch thuật Nghiên cứu có hệ thống đầu tiên về dịch thuật sau Dryden là công bố “Essay on the principles of Translation” – Tiểu luận về các nguyên tắc dịch thuật (1797) của Tytler 16. 12 John Dryden là nhà thơ và dịch giả nổi tiếng của Anh. 13 逐語訳 14 釈意訳 15 模倣 16 Alexander Frase Tytler Khác với hướng mô tả lấy tác giả văn bản nguồn làm trọng tâm như Dryden, Tytler đưa ra những điều kiện của một “bản dịch tốt” theo hướng lấy người đọc ngôn ngữ đích làm trọng tâm như sau: “Trong bản dịch ấy mọi phẩm chất của nguyên tác được truyền đạt trọn vẹn sao cho người đọc nguyên tác bằng tiếng mẹ đẻ để họ cảm nhận và xúc động như thế nào thì người đọc bản dịch bằng tiếng mẹ đẻ của mình cũng có những cảm nhận và xúc động như vậy.” (Tytler 1797:14) Tytler (1979:15) đưa ra ba quy luật và quy chuẩn như sau:
2.1. Schleiermacher và xác định giá trị của tính ngoại lai Khác hẳn với các lý thuyết dịch đã được đề cập ở trên, Schleiermacher 17 phân biệt hai kiểu dịch giả của hai loại văn bản khác nhau như sau:
17 FriedrichSchleiermacher là nhà thần học – dịch giả người Đức được coi là người sáng lập ra Thần học Thanh Giáo hiện đại. được, đo lường được, cố gắng mô tả “nghĩa” bằng thuật ngữ khoa học, tập hợp và phân loại có hệ thống các hiện tượng dịch thuật.
18 等価 Tóm tắt ý chính Lý thuyết dịch thuật trong giai đoạn này hầu như xoay quanh cuộc tranh luận về “dịch (chữ) sát” hay “dịch nghĩa”. Ảnh hưởng của Dryden và bộ ba khái niệm về dịch nguyên văn, dịch diễn giải và phỏng dịch. Nghiên cứu mô tả của Dolet và Tytler Quan điểm của Schleiermarcher về dịch thuật tôn trọng yếu tố ngoại lai. Tính mơ hồ, chủ quan của các thuật ngữ dùng để miêu tả dịch thuật các tiêu chí đánh giá Từ góc độ ngôn ngữ học, Jacobson đã đặt vấn đề về “tương đương” với một định nghĩa nổi tiếng: “Tương đương trong khác biệt là vấn đề cơ bản nhất của ngôn ngữ và là mối quan tâm cốt lõi của ngôn ngữ học”. Sau đó, khái niệm về “tương đương” được phát triển và hệ thống hóa thành một số khái niệm như tương đương hình thức và tương đương năng động của Nida, dịch ngữ nghĩa và dịch truyền đạt của Newmark, khái niệm tương xứng và tương đương của Koller. Tương đương là khái niệm không thể thiếu để học, thực hành và nghiên cứu dịch thuật. 2.2. Nida và vấn đề “tương đương” trong dịch thuật Lý thuyết dịch của Nida được phát triển từ những năm 1940 từ nhu cầu công việc khi ông đảm nhận công việc dịch và tổ chức dịch Kinh thánh. Lý thuyết dịch của Nida hình thành rõ nét qua hai công trình lớn được xuất bản: (1) Toward a Science of Translating - Tiến tới một Khoa học dịch thuật (1964a) và The Theory of Practice of Translation - Lý thuyết và thực hành dịch thuật (Nida và Taber 1969). Trong lý thuyết dịch thuật của mình, Nida đã mượn các khái niệm lý thuyết và thuật ngữ của ngôn ngữ học, ngữ dụng học, và các công trình về ngữ pháp tạo sinh của Chomsky. Mô hình ngữ pháp tạo sinh của Chomsky 19 phân tích câu thành một loạt các cấp độ có liên quan với nhau tạo theo nhiều quy luật, có thể tóm tắt các điểm chính như sau: Các quy luật cấu trúc câu (Phrase-structure rules) 20 sinh ra một cấu trúc nằm bên dưới hoặc cấu trúc sâu (Deep structure) 21 , được cải tạo theo các quy luật biến đổi nối liền cấu trúc sâu này với các câu trúc sâu khác để sản sinh ra một cấu trúc bề mặt (Surface structure) 22 cuối cùng, chính là tuân các quy tắc âm vị học và hình vị học. Cái cơ bản nhất của cấu trúc đó là câu lõi (Kernel sentences) 23 , tức là các câu đơn có nghĩa nhỏ nhất. (Munday 2009) Nida đã kết hợp các đặc điểm chủ yếu trên của Mô hình Chomsky vào “khoa học dịch thuật” của mình nhưng đảo ngược mô hình của Chomsky khi phân tích văn bản nguồn. Theo đó, cấu trúc bề mặt của văn bản nguồn được phân tích thành các yếu tố cơ bản của 19 Noam Chomsky (1928) là nhà ngôn ngữ học sáng lập ra lý thuyết ngữ pháp tạo sinh (generative grammar), được xem là một trong những đóng góp quan trọng nhất đối với ngành lý thuyết ngôn ngữ trong thế kỉ 20. N oam Chomsky là tác giả của hơn 150 cuốn sách và hàng nghìn bài báo, bài nói chuyện, phỏng vấn, tranh luận về các chủ đề khác nhau như ngôn ngữ học, triết học, tâm lí học, giáo dục, lịch sử trí tuệ, chính trị, chiến tranh, chủ nghĩa khủng bố, truyền thông đại chúng, tự do ngôn luận,... 20 21 句構造規則 22 深層構造 23 表層構造 核文 Trong sơ đồ dịch ba giai đoạn này, Nida nhấn mạnh “câu lõi” là khái niệm chủ chốt của mô hình này, cũng giống như câu lõi là câu trúc cơ bản nhất của mô hình Chomsky. Các câu lõi chính là nơi thông điệp được chuyển giao sang ngôn ngữ đích trước khi biến đổi lên cấu trúc bề mặt qua ba giai đoạn: “chuyển giao nguyên văn”, “chuyển giao tối giản”, “chuyển giao văn học”. Ví dụ một trường hợp như sau: Hình 4. Ví dụ về Sơ đồ dịch ba giai đoạn của Nida (Nida 1964a:185) Sơ đồ dịch ba giai đoạn của Nida mà Nida và Taber đề xuất dựa trên sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành. Đây là điều mà ít nhà nghiên cứu quan tâm đến nhưng hạn chế của mô hình này là chỉ tập trung giải quyết các vấn đề đặc thù của một thể loại văn bản đặc biệt là Kinh thánh nên khó có thể áp dụng cho các loại văn bản khác nếu không có sự điều chỉnh. Chính Nida cũng nhận thấy hạn chế này, ông đã viết: “Do luôn gắn với một hoàn cảnh giao tiếp xã hội nên hoạt động dịch dựa trên mô hình giao tiếp ngôn ngữ và nguyên tắc xã hội học. Như vậy, dịch phải là đối tượng nghiên cứu của một bộ môn có phạm vi rộng hơn là nhân chủng học”. Ông nhấn mạnh vai trò của các yếu tố văn hóa – xã hội trong giao tiếp ngôn ngữ, ông khẳng định kiến thức ngôn ngữ chưa đủ mà cần phải bổ sung them kiến thức về phong tục tập quán và văn minh của xã hội sử dụng tiếng. Một đóng góp quan trọng của Lý thuyết dịch thuật do Nida đề xuất là hai khái niệm về tương đương thay thế cho hai khái niệm cũ là “dịch sát” và “dịch thoáng” bao gồm:
Thông điệp chỉ được thành lập khi đáp ứng mục tiêu về sự tự nhiên trong biểu hiện, dự tính mang tính văn hóa, các yêu cầu mang tính ngôn ngữ của người tiếp nhận thông tin. Sự tự nhiên là điều kiện tiên quyết với Nida. Trên thực tế, ông định nghĩa mục tiêu của tương đương linh hoạt là việc tìm ra tương đương tự nhiên gần gũi nhất với thông điệp trong văn bản ngữ nguồn. Và để phương pháp tiếp cận lấy người tiếp nhận thông tin làm trọng tâm như trên đã trình bày đạt được sự tự nhiên, ta cần thiết phải cân nhắc sự biến đổi của từ vựng, ngữ pháp và các nội dung liên quan mang tính văn hóa. Cũng có thể 25 形式的等価(formal equivalence) 26 動的等価 vấn đề bao trùm trong lý thuyết và thực hành dịch thuật. Từ đó, ông đưa ra hai phương pháp dịch thuật như sau: 1. Dịch truyền đạt 28 (Communicative translation): nhằm tạo nên một hiệu quả gần nhất ở người đọc văn bản đích với hiệu quả mà người đọc văn bản nguồn có được 2. Dịch ngữ nghĩa 29 (Semantic translation): nhằm tái tạo lại chính xác nhất ý nghĩa có trong văn bản nguồn bằng những cấu trúc ngữ nghĩa và cấu trúc ngữ pháp gần nhất với văn bản nguồn. (Newmark 1981:39) Dịch truyền đạt giống với khái niệm Dịch tương đương năng động còn Dịch ngữ nghĩa có vẻ tương tự với khái niệm dịch tương đương hình thức của Nida. Tuy nhiên, khác với Nida, Newmark cho rằng dù phương pháp dịch nào thì “hiệu quả tương đương” là “điều không thực hiện được nếu văn bản nguồn nằm ngoài không gian và thời gian của văn bản đích” (Newmark 1981:69). Ví dụ, khi dịch Truyện Kiều sang tiếng nước ngoài, dịch giả sẽ không thể nào hy vọng hoặc mong đợi sẽ tạo ra cùng một hiệu quả ở người đọc hệt như nguyên tác đã tạo ra cho người nghe ở ngôn ngữ nguồn vào thời đại mà nó được sáng tác. Dịch ngữ nghĩa là phương pháp dịch bám sát từng từ như trực dịch nhưng nếu việc bám sát từng từ đưa đến một bản dịch tối nghĩa trong ngôn ngữ đích hoặc không thể tạo ra hiệu quả tương đương ở ngôn ngữ đích thì lúc này người dịch cần ưu tiên sử dụng phương pháp dịch truyền đạt. Các khái niệm dịch truyền đạt và dịch ngữ nghĩa của Newmark vẫn thường được trích dẫn trong các tài liệu viết về dịch thuật nhưng chúng lại không được bàn luận nhiều như khái niệm tương đương hình thức và tương đương năng động của Nida. 2.2. Koller: tương đương và tương xứng Koller 30 cũng đã có những nghiên cứu quan trọng về tương đương trong công trình xuất bản Einfuhrung in die Ubersetzungswissenchaft – Nghiên cứu tìm đến một khoa học dịch thuật (1979b[1989]) xem xét kỹ lưỡng hơn khái niệm tương đương và một khái niệm nữa là tương xứng (correspondence) 31. Hai khái niệm này được phân biệt như Hình 5. 28 コミュニケーション重視の翻訳: 原文の読み手が受けるものとできるだけ近い効果を与えるもの 29 意味重視の翻訳: 原文の意味・文法構造にできるだけ近くしたような翻訳 30 Werner Koller: 31 対応 Hình 5. Phân biệt tương đương và tương xứng theo mô tả của Koller (Koller 1979:183) Theo đó, tương xứng thuộc lĩnh vực ngôn ngữ học đối chiếu (so sánh những tương đồng và dị biệt giữa hai hệ thống ngôn ngữ). Koller chỉ ra rằng kiến thức về tương xứng là những chỉ báo về “năng lực ngoại ngữ” còn kiến thức về tương đương mới là chỉ báo về “khả năng dịch thuật”. Ông đã đề xuất ra năm loại tương đương khác nhau:
32 指示的等価:語彙、言語外的内容の等価に関わる。 33 暗示的等価:文体的等価。同義語彙間の選択や文体的効果、フォーマリティなどに関わる。 34 テクスト規範的等価:テクストタイプ(Rei 1977/1989)や話法に関わる。 35 語用論的等価:コミュニカティヴな等価。動的等価(Nida 1964)に関わる。 36 形式的等価:表現的等価。韻、比喩などテクストの形と美的価値観に関わる。 2.2. Tương đương và các cấp độ đơn vị Để hiểu hơn về vấn đề tương đương, ta có thể bàn về tương đương theo 5 cấp độ gồm: (1)Cấp độ từ đơn; (2)Cấp độ cụm từ; (3)Cấp độ ngữ pháp; (4)Cấp độ cấu trúc văn bản; (5)Cấp độ ngữ dụng học Ở cấp độ từ đơn, ví dụ khi dịch từ “cái bàn” sang tiếng Nhật, tùy vào tình huống ngữ cảnh khác nhau mà người dịch cần kiểm chứng xem cách dịch nào trong ba từ テーブル, ちゃぶ台 hay つくえ phù hợp với văn bản gốc, cách dịch nào đảm bảo nguyên tắc tương đương hơn. Ở cấp độ cụm từ/cú, ví dụ khi dịch cụm từ 同じ釜の飯を食う thì thường được dịch là “live under the same roof” để phù hợp với thói quen sử dụng ngôn ngữ của người nói tiếng Anh. Tương tự như đối với tiếng Việt, cụm từ đó cần phải được dịch là “ăn chung mâm, ngủ chung giường”. Tuy nhiên, tùy trường hợp, nếu muốn dịch với mục đích giới thiệu cách thể hiện ngôn ngữ của tiếng Nhật, có khi vẫn dịch là “eat rice out of the same rice cooker” hay “ăn cơm cùng một nồi”. Ở cấp độ ngữ pháp, trong câu “Bác sĩ nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giảm stress nhằm kiểm soát huyết áp” có thể được dịch là 医師はストレスを減らすことが血圧を抑 えるのに大切だと強調した. Trong đó, cụm từ “nhấn mạnh tầm quan trọng” có nghĩa là 大切さを強調した, tuy nhiên cách dịch 大切だと強調した thay đổi loại từ như thế này nhằm giúp người đọc văn bản dịch dễ hiểu hơn chính là đảm bảo “tương đương” về ngữ pháp. Cấp độ cấu trúc văn bản liên quan đến việc sắp xếp thông tin như thế nào. Ví dụ, đối với câu: “Sau cuộc trao đổi dài, chúng tôi định rời đi thì chợt lóe lên một ý tưởng tuyệt vời”, có thể có hai cách dịch như sau: a. 長い議論の後、いい考えを思いついた時に我々は立ち去ろうとしていた。 b. 長い議論の後、我々は立ち去ろうとしていたその時に、いい考えを思いつい た。 Cách dịch a sang tiếng Nhật là cách dịch theo thứ tự mệnh đề phụ thuộc đến mệnh đề chính, cách dịch này khiến cho thứ tự xảy ra của sự việc bị đảo ngược. Trong khi đó, cách dịch b, đảm bảo đúng thứ tự xảy ra của sự việc ở văn bản nguồn, đảm bảo tính tương đương về mặt cấu trúc của văn bản. Cấp độ ngữ dụng học là nghĩa thứ nguyên khi từ được sử dụng trong một văn cảnh cụ thể nào đó. Ví dụ, すみません không phải chỉ có nghĩa là “Xin lỗi” mà còn có nghĩa là “Cảm ơn” tùy vào văn cảnh sử dụng của từ. Như vậy, việc phân tích giá trị tương đương ở nhiều cấp độ khác nhau trong hành vi dịch thuật cụ thể rất có giá trị trong nghiên cứu dịch thuật, đặc biệt là đào tạo dịch giả. 2.2. Tiểu kết Vấn đề tương đương được đưa ra bàn luận trong dịch thuật trong suốt những năm 1970 và sau đó nữa. Tương đương được xem là một khái niệm trung tâm trong lý thuyết dịch thuật (Chesterman 1989) cho dù vẫn nhận nhiều ý kiến trái chiều. Tóm tắt ý chính Vấn đề tương đương do Jacobson (1959) đưa ra bàn luận, được xem là trọng tâm của nghiên cứu dịch thuật trong hai thập kỷ. Nida vận dụng mô hình ngữ pháp tạo sinh để đưa ra khái niệm tương đương hình thức và tương đương năng động cùng nguyên lý về hiệu quả tương đương. Newmark với khái niệm dịch ngữ nghĩa và dịch truyền đạt Koller với khái niệm tương đương và tương ứng. Tương đương theo các cấp độ đơn vị từ, cụm từ, cú, ngữ pháp, cấu trúc, ngữ dụng học |