Hai tầng lớp tư sản dân tộc và tư sản mại bản ở Việt Nam có sự khác nhau cơ bản về

Giai cấp tư sản là giai cấp chiếm hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội tư bản và sống bằng sự bóc lột lao động làm thuê của giai cấp công nhân.

Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ phong kiến. Vậy Giai cấp tư sản là gì?

Hiện nay theo cách giải thích về giai cấp tư sản là gì mà bách khoa toàn thư mở wikipedia đưa ra như sau: “Trong triết học Marx, giai cấp tư sản (tiếng Pháp: bourgeoisie) là giai cấp xã hội sở hữu phương thức sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại và mối quan tâm trong xã hội của họ là giá trị và sự giữ gìn tài sản, đảm bảo cho việc duy trì vị trí kinh tế độc tôn của họ trong xã hội. Giai cấp tư sản luôn chống lại giai cấp quý tộc và giáo hội Ki-tô”.

Giai cấp tư sản có nguồn gốc từ các chủ xưởng, chủ đồn điền và những thương nhân giàu có.

Giai cấp tư sản có thể thấy là giai cấp chiếm hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội tư bản và sống bằng sự bóc lột lao động làm thuê của giai cấp công nhân. Trong thời kì suy tàn của chế độ phong kiến và hình thành chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản là giai cấp cách mạng và tiến bộ. Cách mạng tư sản thế kỉ XVI – XIX lật đổ chế độ phong kiến, thiết lập địa vị thống trị kinh tế và chính trị của giai cấp tư sản. Trong thời kì chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, giai cấp tư sản có vai trò phát triển lực lượng sản xuất, lãnh đạo và tổ chức sản xuất theo phương thức sản xuất mới tiến bộ, do đó nó có vai trò tiến bộ trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Trong vài thập kỉ gần đây, việc tổ chức và quản lí của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã có những điều chỉnh quan trọng, nhưng bản chất của giai cấp tư sản là không thay đổi.

Hai tầng lớp tư sản dân tộc và tư sản mại bản ở Việt Nam có sự khác nhau cơ bản về

Giai cấp tư sản tại Việt Nam

Trước Chiến tranh thế giới I Việt Nam chỉ có một số ít nhà giàu kinh doanh theo lối tư bản mà chưa có giai cấp tư sản. Sau cuộc Chiến tranh thế giới I gắn liền với  việc Pháp thực hiện chương trình khai thác thuộc địa lần 2 tại Việt Nam thì giai cấp tư sản Việt Nam chính thức ra đời.

Tư sản Việt Nam chủ yếu hoạt động thương mại buôn bán hàng hóa ngoại quốc và thợ thủ công cá thể chứ không có địa vị trong nền kinh tế nông nghiệp. Giai cấp tư sản nguyên là những tiểu chủ đứng trung gian làm hầu khoán hoặc làm đại lý hàng hóa khi có vốn lớn họ đứng ra kinh doanh riêng và trở thành những nhà tư sản như Bùi Huy Tín chuyên cung cấp tà vẹt làm đường sắt cho Pháp, Bạch Thái Bưởi có ab xà lúp chở khách , Trương Văn Bền là chủ xí nghiệp có 700 công nhân, Nguyễn Hữu Thu… Bộ phận tư sản này phát triển đến một mức độ nào đó thì phân hóa làm 2 bộ phận tư sản mại bản và tư sản dân tộc.

+ Tư sản mại bản dựa hẳn vào đế quốc Pháp để kinh doanh làm giàu nên có quyền lợi gắn chặt với Pháp, cấu kết chặt chẽ với chúng cả về kinh tế và chính trị. Vì vậy thái độ của họ là phản động tầng lớp này là đối tượng cách mạng cần đánh đổ.

+ Tư sản dân tộc là giai cấp tư sản không dính líu với đế quốc, hoặc dính líu rất ít. Họ có khuynh hướng kinh doanh độc lập, bán hàng nội hóa, ít nhiều có tinh thần dân tộc dân chủ chống đế quốc và phong kiến. Bên cạnh đó, một mặt thì giai cấp tư sản dân tộc bị đế quốc và phong kiến ngǎn trở nên họ cũng muốn chống đế quốc và phong kiến. Nhưng mặt khác, giai cấp tư sản dân tộc là giai cấp bóc lột cho nên họ cũng sợ giai cấp bị bóc lột nổi lên đấu tranh. Không chỉ vậy về mặt kinh tế, giai cấp tư sản dân tộc còn dính líu ít nhiều với địa chủ phong kiến, cho nên đối với việc cải cách ruộng đất, họ còn do dự. Do đó mà tư sản dân tộc vừa muốn cách mạng vừa muốn thoả hiệp. Bởi vậy, giai cấp công nhân cần phải vừa đoàn kết với họ, vừa đấu tranh với họ để bảo vệ quyền lợi của công nhân.

Trên đây là những chia sẻ của chúng tôi về vấn đề giai cấp tư sản là gì? đến bạn đọc. Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về vấn đề này nếu có bất cứ thắc mắc nào, Quý khách hàng đừng ngần ngại liên hệ với chúng tôi để được đội ngũ chuyên viên tư vấn của chúng tôi hỗ trợ tốt nhất.

Tư sản dân tộc, một bộ phận của giai cấp tư sản Việt Nam, ngay từ chặng đường đầu trong lịch sử của mình đã thể hiện được ý thức dân tộc bằng những hành động cụ thể, thiết thực.

Sự hình thành

Cuối thế kỷ XIX, người Pháp chính thức tiến hành khai thác thuộc địa Việt Nam nhằm bóc lột tài nguyên, sức lao động của bản xứ. Tuy nhiên, công cuộc này cũng đã đem lại nhiều biến đổi về kinh tế - xã hội. Cơ cấu kinh tế thay đổi rõ rệt. Về nông nghiệp, nhiều đồn điền hình thành, các công trình thủy lợi được xây dựng, nhất là ở Nam Kỳ, Bắc Kỳ.

Các ngành công nghiệp, nhất là khai mỏ, cơ khí vận tải, vật liệu xây dựng và chế biến lâm, nông, hải sản... bắt đầu hình thành. Các khu công nghiệp khai mỏ hình thành; đặc biệt đã xuất hiện các thành phố công nghiệp như dệt Nam Định, cảng biển Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn, cơ khí vận tải Vinh - Bến Thủy...

Hai tầng lớp tư sản dân tộc và tư sản mại bản ở Việt Nam có sự khác nhau cơ bản về
“Vua” tàu thủy Bạch Thái Bưởi.

Năm 1906, cả nước đã có khoảng 200 nhà máy của tư sản Pháp. Đáng chú ý là đã có nhiều nhà máy của tư sản Việt Nam, riêng Sài Gòn có 20 nhà máy xay xát. Tư sản Việt Nam đã lập các công ty, tự điều hành và quản lý sản xuất như Quảng Nam hiệp thương công ty, Quảng Hưng Long, Đông Thành Xương, Bạch Thái Bưởi… Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, các ngành công nghiệp phát triển mạnh hơn, quy mô lớn hơn, công nghệ hiện đại hơn kể cả của tư sản Việt Nam.

Một loạt cơ sở vật chất mới xuất hiện và đưa vào sử dụng phổ biến như thông tin liên lạc, giao thông hiện đại (gồm đường sắt, đường bộ, đường thủy, hàng không). Không chỉ hình thành một nền tảng sản xuất công nghiệp với công nghệ và thiết bị hiện đại mà còn du nhập phương thức kinh tế tư bản. Từ đó đã tác động mạnh vào quá trình đô thị hóa. Từ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, các đô thị Việt Nam ra đời và phát triển ngày càng nhiều.

Cùng với đó là quá trình tiếp biến - đổi mới/duy tân văn hóa, giáo dục. Chữ quốc ngữ được phổ biến thay cho chữ Hán. Nền giáo dục Nho học lạc hậu bị xóa bỏ và thay bằng một nền giáo dục mới - tân học theo xu hướng phương Tây hiện đại.

Sự biến đổi về chính trị, đặc biệt là của nền kinh tế đã tác động đến xã hội Việt Nam, làm xuất hiện các giai tầng xã hội mới. Giai cấp công nhân hình thành và nhanh chóng trưởng thành liên tục về số lượng và chất lượng. Tầng lớp tiểu tư sản thành thị ra đời và lớn mạnh nhanh chóng. Năm 1913, riêng học sinh và giáo viên người Việt đã có 97.976 người.

Đến cuối thế chiến I, riêng số học sinh các trường lớp đã là 68.000 người. Ở nông thôn, ngoài các thành phần cũ là nông dân, địa chủ thì nay đã có thêm tầng lớp phú nông - một đại diện cho thành phần kinh tế tư bản ở địa bàn truyền thống này.

Đáng nói là, từ đầu những năm đầu thế kỷ XX, bên cạnh tư sản người Pháp, Hoa, Ấn Độ đã có sự xuất hiện của tầng lớp tư sản Việt Nam. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thuộc địa, sau thế chiến I, giai cấp tư sản Việt Nam đã chính thức hình thành và nhanh chóng trưởng thành.

Giai cấp tư sản Việt Nam xuất hiện sau giai cấp công nhân bản xứ vì họ hầu như không có tiền đề kinh tế từ trước; nguồn gốc xuất thân chủ yếu là các nhà buôn và một phần là các địa chủ, nhất là ở Nam Kỳ, chuyên làm thầu khoán hoặc đại lý cho Pháp; chỉ có một số ít xuất thân từ các tiểu chủ. Giai đoạn trước thế chiến I, có thể kể tên các hoạt động kinh doanh của tư sản Việt Nam như Công ty Quảng Hưng Long, Quảng Hợp Ích (Bắc Kỳ), Công ty Phượng Lâu (Thanh Hóa), Quảng Nam hiệp thương công ty (Quảng nam), Công ty Liên Thành (Phan Thiết)...

Sau thế chiến I, hoạt động kinh doanh của tư sản Việt Nam mở rộng hơn cả về ngành nghề và quy mô từ xay xát, in ấn, dệt nhuộm, vận tải, sửa chữa cơ khí cho đến sản xuất sơn, xà phòng, đường, nước mắm, đồ gốm… Lúc này, giai cấp tư sản Việt Nam phân hóa thành hai tuyến, hai bộ phận là tư sản mại bản và tư sản dân tộc.

Bộ phận tư sản mại bản ngày càng đông đảo thêm cùng với tốc độ đầu tư của tư bản Pháp. Bắt đầu xuất hiện những công ty có quy mô lớn như Công ty Tri Phú, Quế Dương ở Hải Phòng, hãng Đan Phong ở Hà Nội, hãng Thuận Hòa ở Chợ Lớn. Tư sản mại bản chuyên thầu khoán công việc công chính, xây dựng cũng tăng lên nhiều.

Ở Bắc kỳ, từ 1923 - 1927, có 449 nhà thầu khoán nhận 4 triệu franc xây dựng các công trình công chính. Một số nhà tư sản Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với các nước trong khu vực và Pháp. Hàng năm các công ty thương mại này nhập khẩu 3.000 - 7.000 tấn hàng hóa. Đồng thời, họ cũng tổ chức xuất khẩu nhiều hàng hóa Việt Nam như tơ lụa, đồ thêu, đồ sắt, chè, đường… góp phần kích thích sức sản xuất của người Việt.

Bộ phận tư sản dân tộc sau thế chiến I có bước phát triển vượt bậc, cả về số lượng và thế lực kinh tế. Nhiều cơ sở kinh tế đã có từ trước thế chiến I nay được tiếp tục phát triển, mở rộng quy mô sản xuất, thiết bị kỹ thuật như xưởng sơn của Nguyễn Sơn Hà, xưởng sửa chữa, đóng tàu của Bạch Thái Bưởi, xưởng dệt của Lê Phát Vĩnh. Bên cạnh đó nhiều cơ sở sản xuất mới được thành lập như Nhà máy gạc Hưng Ký (Bắc Ninh), Xí nghiệp dệt Vĩnh An (Huế), công ty phát điện của Lê Phát và Phan Tùng Long ở Nam kỳ...

Các tư sản và địa chủ Việt Nam còn góp vốn thành lập Nhà ngân hàng Việt Nam. Nhiều đồn điền rộng hàng trăm mẫu, thu hút hàng trăm công nhân của tư sản Việt Nam xuất hiện. Một số người còn có cổ phần trong Tập đoàn cao su Đông Dương.

Tuy nhiên, nhìn chung giai cấp tư sản Việt Nam vẫn phát triển chậm bởi nguyên nhân chính là luôn bị tư sản Pháp và Trung Hoa chèn ép. Mặt khác, vì mới hình thành nên dù muốn hay không các nhà tư sản Việt Nam vẫn bị tư tưởng kinh tế của sản xuất phong kiến chi phối, tạo nên sức ì.

Ý thức dân tộc của tư sản dân tộc trong chặng khởi đầu

Sau khi hình thành, tư sản dân tộc Việt Nam đã nhanh chóng xác định được ý thức giai cấp, trách nhiệm với đất nước và nhận ra những khó khăn của mình trong tình thế bị tư sản ngọai quốc chèn ép.

Để nâng cao vị thế kinh tế của mình và chống lại sự chèn ép của tư bản nước ngoài, tư sản Việt Nam đã sớm lập ra các đoàn, các hội nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà tư sản.

Tư sản dân tộc đã kêu gọi, động viên người Việt Nam kinh doanh, phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa; cổ động nhân dân dùng hàng nội hóa nhằm khuyến khích kinh tế dân tộc phát triển. Bạch Thái Bưởi không chỉ đi đầu tổ chức vận tải biển, mở xưởng đóng tàu mà còn nổi tiếng với khẩu hiệu “Người Việt Nam đi tàu Việt Nam” trong cuộc chiến thương mại với tư bản người Pháp và người Hoa.

Cũng chính ông đã đặt tên các danh nhân dân tộc như Đinh Tiên Hoàng, Lạc Long, Trưng Trắc, Lê Lợi, Hàm Nghi... cho các con tàu của mình. Tư sản Việt Nam còn thành lập phòng thương mại của người Việt Nam. Tiếp sau cuộc tẩy chay “khách trú” năm 1919, đến năm 1923, họ tham gia đấu tranh chống độc quyền cảng Sài Gòn.

Tư sản dân tộc Việt Nam còn đấu tranh để được tham gia vào bộ máy chính quyền thuộc địa như Hội đồng quản hạt, Viện dân biểu và thực hiện đấu tranh quyền lợi trong các cơ quan này.

Trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng, tư sản Việt Nam đã lập ra các tờ báo để tuyên truyền cho cách làm ăn mới và quan điểm chính trị của mình, trong đó có góp phần cổ vũ tinh thần dân tộc cho không chỉ giới tư sản mà cả đại chúng, đáng chú ý có tờ Thực nghiệp dân báo (1912) của Nguyễn Hữu Thu, Bùi Huy Tín, tờ Khai hóa (1921) của Bạch Thái Bưởi…

Tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc đã trở thành một phẩm chất tốt đẹp của tư sản dân tộc Việt Nam tiếp tục được phát huy trong hành trình lịch sử của dân tộc suốt hơn một thế kỷ qua. Những tấm gương Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà… vẫn luôn tỏa sáng và đồng hành cùng dân tộc.